Nhà thơ Ngã Du Tử
TÂM CA
Nhặt ngọn cỏ dắt vào trong túi áo
Có đất trời, có cả thảy trăng sao
Lời kinh rụng giữa đôi bờ hư thực
Nguồn tâm ca hương ngát ý bay vào
Ngã Du Tử
Nhà bình thơ Châu Thạch
ĐỌC
“TÂM CA” THƠ NGÃ DU TỬ
Châu Thạch
“Tâm” không thể
nắm bắt được trên tay vì “Tâm” không phải là vật chất. Tuy “tâm” không phải là
vật chất nhưng không có tâm thì vật chất trở nên vô nghĩa, bởi vì cái gì không
có tâm thì cái ấy vô tri và vô giác.
Khi nhắc đến “tâm” là nhắc đến trái tim, lòng dạ,
lương tâm con người. Mọi hành động của con người đều xuất phát từ cái tâm. Tâm
thiện thì suy nghĩ và hành động đúng đạo lí, lẽ phải. Tâm không thiện thì sẽ
sinh tà ý và làm nhiều điều xấu xa, tội lỗi.
Chữ “tâm” thường được dùng để hướng suy nghĩ của con
người đến cái thiện, tu thân, dưỡng tính, sống tích cực và làm nhiều điều tốt
lành. Tâm lệch lạc thì cuộc sống điên đảo đảo điên. Tâm gian dối thì cuộc sống
bất an. Tâm ghen ghét thì cuộc sống hận thù. Tâm đố kỵ thì cuộc sống mất vui.
Tâm tham lam thì cuộc sống dối trá.
Khái niệm “Tâm” trong Phật giáo được xem là một trong
những phạm trù quan trọng, cơ bản của đạo Phật. Kinh Pháp Cú, vốn được xem như
Kinh Thánh của Phật Giáo mở đầu như sau: “Tâm dẫn đầu các pháp. Tâm là chủ. Tâm
tạo tất cả”. Một cách khái quát, qua các kinh điển Phật Giáo người ta có thể
phân biệt sáu loại tâm:
Nhục đoàn tâm : trái tim thịt
Tinh yếu tâm : chỗ kín mật, chỉ cái tinh hoa cốt tu
Kiên thực tâm : là cái tâm không hư vọng, cũng gọi là
chân tâm
Liễu biệt tâm : gồm sáu loại nhận thức đầu trong tám
thức
Tư lượng tâm còn gọi là Mạt-na thức : thức thứ bảy
trong tám thức.
Tập khởi tâm còn gọi là A-lại-da thức dịch nghĩa là tạng
thức hay tang thức : chứa đựng mọi kinh nghiệm của đời sống mỗi con người và
nguồn gốc tất cả các hiện tượng tinh thần; là căn nguyên của mọi hoạt động nhận
thức, hoạt động tâm lý; là nơi lưu trữ những hạt giống sinh ra muôn sự muôn vật,
hữu hình hay vô hình. Tâm lý học phương Tây thường gọi thức này là vô thức hay
tiềm thức”
Tóm lại, dù nhìn dưới khía cạnh nào, có thể nói theo
Thiền Tông: Có hai thứ tâm. Một thứ là tâm theo dòng tâm thức, khởi lên rồi diệt,
vì ngũ uẩn bị mê mờ bởi tham ái, dục lạc, vọng tưởng; tâm này được gọi là Vọng
tâm là tâm của chúng sinh. Hai là Chân tâm có tự tánh là thanh tịnh, không sinh
diệt, không dao động, thường vắng lặng, là tánh giác của những vị đã giác ngộ,
cũng còn được gọi là Tâm Phật.
Theo cách mà
dân gian Việt Nam hình dung, Tâm có thể là trái tim, Tâm cũng có thể là lòng, dạ,
bụng, ruột, thậm chí cũng có thể là gan và chúng có sự phân công về mặt ngữ
nghĩa rất khác nhau.
Với Ki tô giáo,
Tâm có thể là linh hồn, tâm hồn
Với nhà Phật, Tâm là thức bao gồm cả ý thức và vô thức.
Với những lập luận như trên ta có thể hiểu “Tâm Ca” của
nhà thơ Ngã Du Tử là gì. Đó là tiếng ca cúa trái tim đạo. Đó là tiếng ca của
linh hồn, hay đó là tiếng ca của ý thức con người hướng đến chân, thiện, mỹ.
Nhạc sĩ Phạm Duy cũng viết 10 bản nhạc có tên là “Tâm Ca”. Tâm Ca cúa Phạm Duy là tiếng ca
nhận diện sự bi đát của cuộc đời và tỏ thái độ, cũng như tuyên ngôn lương tâm
trước những điều đã thấy.
Ngược lại với Phạm Duy, “Tâm Ca” của Ngã Du Tử là bài
thơ lấy cái tâm là trái tim của mình, lấy cái tâm là ý thức của mình, lấy cái
tâm hướng tới tự tính thanh tịnh, không sanh không diệt để hưởng nguồn “hương ngát”
dấy lên từ “ý thức” đó.
Vào bài, ta thấy Ngã Du Tử viết một câu thơ hơi lạ kỳ:
Nhặt
ngọn cỏ dắt vào trong túi áo
Ngọn
cỏ thì liên quan gì đến tâm ca?
Có đấy, bài ca nào cũng bắt đầu từ nốt nhạc đầu tiên.
Không có nốt nhạc đầu tiên thì không có bài ca bao giờ. Nhà thơ lấy ngọn cỏ làm
nốt nhạc đầu tiên cho tâm ca của mình, bởi từ ngọn cỏ nhà thơ thấy sự vi diệu
vô cùng của Tạo Hóa. Thực sự, ngọn cỏ cũng được kiến tạo từ đất, nước. gió, lửa
là tứ đại, là 4 yếu tố bất di bất dịch mà Tạo Hóa đã dùng nó hình thành nên thế
giới vật chất từ cái nhỏ nhất đến cái vĩ đại vô cùng trong vũ trụ.
Đọc thơ, ta suy luận biết được, nhà thơ đứng một nơi
nào đó, giữa trời đất bao la có trăng, sao, mây, nước. Tác giả cầm ngọn cỏ lên
tay, và ngọn cỏ bỗng nhiên trở thành như một “văn Tự bất lập” để “trực chỉ nhân tâm”cho tác giả thấy được cái
tráng lệ nhiệm mầu của nguyên lý sáng tạo ra thế giới. Nguyên lý ấy là tứ đại
có trong vạn ngàn tinh tú trên trời cao
mà cũng có trong ngọn cỏ dưới đất dày. Ngã Du Tử đã thấy một cái thấy mà
một tác giả phương Tây đã viết như sau:
Thấy
Vũ Trụ trong một Hạt Cát
Thấy
Trời nơi một Bông Hoa Dại
Nắm
Vô Biên trong lòng bàn tay
Và
Vô Tận trong một khoảnh khắc.
Khi nhà thơ không vất bỏ ngọn cỏ, khi nhà thơ trịnh trọng
“Nhặt ngọn cỏ dắt vào trong túi áo” là lúc cái tâm nhà thơ không phải là Nhục
Đoàn Tâm (trái tim thịt) mà chính là
Kiên Thực Tâm là chân tâm, là cái tâm không hư vọng đã làm nẩy sinh bài ca
trong linh hồn tác giả, một bài ca giác ngộ về sự huyền vi của trời đất.
Từ cái việc Ngã Du Tử “Nhặt ngọn cỏ lên dắt vào trong
túi áo”, nhìn ngọn cỏ ngộ ra trong ngọn cỏ
“Có đất trời và có cả trăng sao” đã đưa tâm hồn tác giả chuyển biến qua
một trạng thái khác, một trạng thái thăng hoa vượt trên nhận thức đời thương, lấy
cái tâm Tập khởi hay còn gọi A-Lại Đa Thức, hay còn gọi Tạng Thức trong Phật
Giáo để hiểu ra, đê ngộ được những lời kinh tụng niệm xưa nay, biết được những
kinh điển tu tập xưa nay chỉ là “bị mắc kẹt giữa đôi bờ hư thực” nên không thể
chấp vào đó nữa. Bây giở, từ nhặt ngọn cỏ làm duyên nghiệp u mê đã hết, quả
lành đã đến và lời ca từ tâm ấy ngát hương mới đến trong linh hồn:
Lời
kinh rụng giữa đôi bờ hư thực
Nguồn
tâm ca hương ngát ý bay vào
Vì sao lời kinh phải “rụng giữa đôi bờ hư thực” thì
“nguồn tâm ca” mới “hương ngát ý bay vào”?
Ta hãy đọc khổ thơ của Nhà Sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Ta
đứng lên
gọi
đò
bên
bờ sông lau lách
lá
tử sinh cháy đỏ cuối ghềnh xa
lòng
dừng lại, nhìn thời gian huyễn hoặc
chẳng
bao giờ thấy hết cõi người ta
(Giấc Ngủ Của Đá)
Đây là tâm trạng của nhà sư khi còn đi tìm đạo, khi mà
“Lời kinh chưa rụng giữa đôi bờ hư thực”
Tiếng gọi đò là sự tìm kiếm một con đường giải thoát.
“Bờ sông lau lách” là trần gian. Con sông là sự ngăn cách giữa ta và chân lý.
Đò chính là đạo, là con đường đưa ta đến bờ giải thoát bên kia. Nhà thơ gọi đò
trong vô vọng. Bởi vì gọi đò mà tác giả không thấy đò đâu, lại thấy “lá tử sinh
cháy đỏ cuối ghềnh xa” nghĩa là thấy sự chết chờ ta ở cuối cuộc đời. “Lòng dừng
lại, nhìn thời gian huyễn hoặc” nghĩa là quán được tác động của thời gian trên
mọi biến đổi của đời. Từ đó mà tác giả thốt lên một câu nói bi quan: “chẳng bao
giờ thấy hết cõi người ta”. Cảnh giới sông, đò lau lách trong thơ của nhà sư chỉ
là sự đại diện cho cái tâm cố chấp, là sự nô lệ cúa linh hồn bị dính mắc vào sắc
tướng.
Và rồi trong một bài thơ khác, để gọi được đò vượt qua
con sông phàm tục đó, nhà sư phải bỏ cái tâm cố chấp, cái tâm nô lệ, cái tâm
dính mắc sắc tướng đi, phải để linh hồn mình nhẹ như những chiếc lá “rụng giữa
hai bờ sắc không”, cũng giống như Ngã Du Tử để cho “Lời kinh rụng giữa đôi bờ
hư thực”, vậy thì mới qua được con sông, đến bến bờ giải thoát:
Qua
sông bèn gọi con đò
Nôn
nao lá rụng hai bờ sắc không
Từ chiếc “lá rụng” trong thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh và
“lời kinh rụng” của Ngã Du Tử ta hiểu ra được sự buông bỏ tất cả, buông bỏ cả
cái có và cái không thì khoái lạc của “Nguồn tâm ca hương ngát ý” sẽ “bay vào”
linh hồn ta vậy.
Trong Phật giáo, khái niệm tánh "sắc" (thực)
không thể bị đồng hóa với "có" và tánh "không”(hư) không thể bị
đồng hóa với "không có". Kinh Bát Nhã viết “Sắc tức thị không, không
tức thị sắc” đã nói lên bản chất thật của vạn vật liên đới hài hòa giữa có và không, giữa hư và thực.
Ngã Du Tử nghiệm được thế, nhà thơ không chấp vào sắc, không chấp vào không, để
linh hồn thanh thản thành chiếc lá rơi giữa đôi bờ sắc không như Minh Đức Triều
Tâm Ảnh, hay để lời kinh rụng giữa hư và
thực thì tiếng ca chân lý sẽ dậy lên
trong trái tim mình.
Trong kinh Hoa Nghiêm đức Phật dạy: “Trong 49 năm Ta
chưa hề nói 1 câu, 1 chữ, 1 lời nào”. Ngài đi giảng đạo 49 năm làm sao không
nói được?. Lý do Ngài dạy chính là buộc ta suy nghiệm ẩn ý trong lời Ngài để hiểu
sâu xa hơn. Xin tạm ví dụ “lời kinh” là
triết lý nhà Phật, lời Ngài nói thành tiếng là “thực”, Ngài bảo Ngài không nói
gì chính là “hư”. Ngã Du Tử để “Lời kinh rụng giữa miền hư thực” chính là hiểu được câu nói phủ nhận của Phật. Mục đích
của Phật là để mọi người nhận ra cái bản lai diện mục của mình, bởi do (tam độc)
vô minh che khuất chân trí mà không ngộ được chân lý khi nghe lời phật giảng.
Đọc “Tâm Ca”của Ngã Du Tử, ta thấy được linh năng,
linh quyền của tạo hóa trong mọi vật từ thiên nhiên vô hạn đến ngọn cỏ trong
bàn tay người thi sĩ. Đọc “Tâm Ca” của Ngã Du Tử ta chiêm nghiệm được sự huyền
vi của đất trời có trên mọi vật. Tâm ca
chính là nguồn vui trong linh hồn “vô quái ngại”, thoát ra mọi ràng buộc, buông bỏ mọi chấp niệm kể cả chấp
niệm lời kinh Phật dạy để không vướng mắc vào sắc hay không, hư hay thực , hòa
nhập vào vô vi, hưởng hương thơm của nguồn trong trẻo vô biên, rong chơi giữa
thường hằng. Đó chính là ước vọng mà nhà thơ hằng hướng đến đến khi viết “Tâm
Ca”.
Chỉ 4 câu thơ, ban đầu nhà thơ dắt ngọn cỏ vào túi.
Túi áo thể hiện cho cái trí non nớt cúa mình mà ngọn cỏ đã khải thị cho nó thấy
được tất cả quang vinh của tạo hóa trong cái hình hài nhỏ bé kia. Thế rồi từ sự
khải thị đó, nhà thơ trực nhận được pháp môn, thoát khỏi sợi dây hư thực trì
kéo, biến linh hồn trở nên thơm
ngát trong tiếng reo ca bát ngát của
tâm. Bốn câu thơ thật ngắn nhưng nói thật
nhiều, như ngọn cỏ nói lên cho cả cái vĩ đại của thiên nhiên huyền bí!
Linh hồn ai có tiếng tâm ca nầy thì linh hồn đó dư dật
niềm vui, rời xa bi lụy!
Người viết bài nầy chỉ nương theo những gì uyên thâm
tham khảo được từ sách vở để tìm cái hay trong thơ Ngã Du Tử.
Châu Thạch