PHẦN MỘT: CỔNG TRỜI
NẬM CẮN
Chế Cẩm Bình
Như thường lệ thì
tôi sẽ băng đường 9 để lên Lào. Nhưng vì cần có mặt tại công trình ở Đồng Hới
nên phải ghé qua đó một ngày. Từ Đồng Hới đi Luông Pha Băng có ba con đường 12
qua ngả Cha Lo, đường 8 qua cửa khẩu Cầu Treo và đường 7 xuyên ngang tỉnh Nghệ
An lên cổng trời Nậm Cắn, từ đó đi Xiêng Khoảng rồi về Luông.
Cả ba con đường
này tôi đều chưa từng đi qua. Nhưng coi google và định hình hướng đi thì đường
12 và đường 8 có vẻ quen thuộc hơn, vì tôi đã từng đến Thà Khẹt hay qua ngã ba
Pạc San là các điểm cuối của hai con lộ này nằm trên quốc lộ 13 thuộc Lào. Đường
7 thì hơi ngại, vì nghe nói đây là tuyến đường nóng về buôn bán hàng trắng, lại
ngày xưa rất nhiều phỉ. Vậy mà, sau khi cân nhắc về hành trình và thời gian di
chuyển, tôi lại chọn đi đường 7.
Từ Đồng Hới ra
Vinh đã 1 giờ khuya, ngủ luôn trên xe đến 4 giờ sáng thì bắt đầu băng qua Nam
Đàn rồi Đô Lương để vào đường 7. Đường nhỏ và ngoằn ngoèo, men ngược theo sông
Lam mà chạy. Qua huyện Anh Sơn và đầu Con Cuông vẫn là đồng bằng, rồi băng rừng
quốc gia Pù Mát vượt con đèo dài cả trăm cây số. Đi xuyên qua những khu rừng
nghiến nguyên sinh với hằng hà thân nghiến khổng lồ dễ đến hai ba người ôm mới
xuể.
Đến thị trấn Hòa
Bình thuộc huyện Tương Dương trời bắt đầu đổ mưa. Mưa dày hạt, mưa trắng cả rừng,
xối nước ào ạt xuống đường như thác đổ. Trước kính xe mịt mùng, chỉ nhích lên từng
chút chứ không thấy rõ đường mà chạy. Bên tay phải đường con sông Lam ngầu đục
trào lên từng hõm xoáy, chứ không êm đềm xanh trong như cái tên hiền lành của
nó nữa. Chừng một khắc giờ thì mới tạnh, rồi dứt hẳn. Trời cao trong veo trở lại
trên những vòm rừng nguyên sinh xanh ngút mắt.
Mường Xén, thị trấn
huyện lỵ huyện Kỳ Sơn nằm cheo leo bên đường 7 với hai dãy phố con con nằm hai
phía của cây cầu cùng tên bắc qua sông Lam. Người Kinh từ các huyện dưới xuôi
như Nghi Lộc, Nghĩa Đàn, Hưng Nguyên lên làm nghề buôn bán và dịch vụ, còn người
Thái thì chỉ ở trong bản chứ không quen ở ngoài này.
Qua khỏi thị trấn
thì đèo càng lúc càng cao, băng qua những bản làng người Thái hai bên đường. Đến
bản Nọọng Dẻ thì dừng xe lại ghé thăm. Cả bản có khoảng hơn trăm nóc nhà quây
quần quanh mấy ngọn đồi liền kề nhau. Thấy trên nhà có mấy người phụ nữ đang dệt
cửi, mới xin phép vào nói chuyện và chụp hình. Thì được chủ nhà nồng nhiệt mời
lên cầu thang ngay mà không cần dò hỏi hay lưỡng lự. Hỏi thăm đây là đồng bào
Thái hay Khơ Mú, thì nói là Thái Khăng, hỏi chữ Khăng nghĩa là gì, thì nói Thái
Khăng là Thái ở gần với Lào chứ không rõ nghĩa là gì cả. Nghe mọi người nói
chuyện với nhau thì thấy giống tiếng Lào hơn cả, nhưng trong cách phát âm lại
thấy gần với ngữ chi Khơ Me, mới hỏi sao như vậy thì được trả lời là tổ tiên
ngày xưa là người Khơ Mú, sau sống lẫn với người Thái nên thành người Thái hồi
nào không biết nữa, cũng mấy đời rồi.
Chị Cụt Thị Búa,
năm nay ba mươi tư tuổi, mà đã có hai con trai đi học cấp ba dưới trường nội
trú tỉnh. Chồng đi làm thợ xây trên Lào, mỗi tháng cũng cầm về được chín triệu.
Còn chị, hằng ngày đi làm nương và chăm sóc gần hai chục con bò, rảnh ra thì dệt
thổ cẩm bán sang Lào hoặc bán ra Hà Nội cho những cửa hàng bán hàng lưu niệm. Hằng
tháng thì gửi về hai cháu chỉ hai triệu, còn đâu nhà nước lo cả nên kinh tế rất
thoải mái, như cái nhà của chị làm hoàn toàn bằng gỗ nghiến mà dưới xuôi có mơ
cũng khó thấy.
Người cháu họ sang
ngồi chơi cùng chị, tên Lữ Thị Bích, gia đình gã chồng năm ngoái lúc em đương học
lớp mười một. Theo phong tục người Thái thì con cái phải hoàn toàn phải theo ý
cha mẹ. Nên em rất buồn, đến độ phải ốm mất mấy tháng. Cái buồn đến giờ vẫn
vương trên mắt khi mà em đang mang thai tháng thứ tám rồi. Hỏi bây giờ thì đã
biết yêu thương chồng chưa, em nói có thương vì tình nghĩa vợ chồng anh ạ, dù
là trước đó không hề yêu nhau. Thế sao em vẫn buồn, thì nói em còn nhớ lớp nhớ
trường và nhớ bạn, em còn tiếc con chữ lắm.
Xuống chơi nhà chị
Cụt Thị Thương và anh Cụt Văn Xí cũng được tiếp đón thân tình. Anh chị mới
ngoài bốn mươi mà đã có cháu ngoại rồi đó. Tức là, ai cũng lấy vợ lấy chồng rất
sớm. Chị Thương đang ngồi dệt khăn, những chiếc khăn thổ cẩm rất đẹp, sờ vào
thì hết sức mềm mại. Mỗi ngày chị dệt được hai ba tấm, mỗi tấm bán chỉ trăm
ngàn. Khăn này bán ở các cửa hàng ở sân bay giá đến năm bảy trăm chứ không rẻ.
Hỏi mua mấy tấm, thì chị nói người ta đặt cả rồi em ạ. Như sực nhớ trong nhà
còn thì phải, chị mới nói anh Xí vào tìm lấy ra được mấy tấm nhưng chưa làm tua
rua. Rồi hỏi có gấp không, bảo dạ không ạ. Thế là anh chị nói ngồi chờ một
chút, rồi hai vợ chồng vén ống quần lên se tua rua, phải se trên da đùi mới đều
và không bị sút. Nhận khăn, cảm ơn và chào từ biệt anh chị, cũng không quên lấy
số điện thoại để ai muốn có khăn này thì sẽ bán giúp cho anh chị thêm được ít
nhiều cho anh chị vui.
Xe tiếp tục leo
đèo, lên cao tận trên đỉnh một ngọn núi, chính là cổng trời Nậm Cắn. Bên kia đường
có hai người phụ nữ với trang y sặc sở đang tựa lan can hộ phòng nhìn xuống,
thì cũng dừng xe lại để chụp hình. Nhìn xuống, trời ơi, một từng mây trắng ngát
bồng bềnh bên dưới vờn quanh các mái núi xanh mươn mướt của những nương lúa mới,
cảnh sắc thật không khác gì chốn bồng lai được mô tả trong các cổ thư.
Vì ham chơi nên
vào cửa khẩu bị muộn giờ, làm thủ tục không kịp nữa, phải chờ đến đầu giờ chiều
mới qua được. Cũng đành, bởi mấy khi mà được lên cổng trời, được trò chuyện
cùng đồng bào người Thái Khăng thương mến, được thả mình theo những áng mây trắng
cho tâm hồn thêm tươi đẹp. Mơ hoa!