Theo cách nghĩ thông thường
thì cái gì cũng phôi pha nhạt
nhòa theo thời gian,chưa hẳn mọi
chuyện đều như vậy.
Có rất nhiều điều hầu
như gắn liền với
đời người dù cho thời gian và hoàn cảnh đổi thay xoay chiều
xuôi ngược, nhất là khi nó được ghi vào ký ức của tuổi
thơ trong trắng.Với tôi đó là những
kỷ niệm hồn nhiên dẫu
là vui buồn hay chua xót,
vậy thì ngôi làng nơi gia tộc tôi đã trải
qua bao nhiêu đời và đến thế hệ
tôi sinh ra, lớn lên rồi cất bước
đi xa, dù thời gian được sống ở
làng rất ít so với tuổi đời,
mà lại là nơi luôn canh cánh bên lòng chưa hề nguôi ngoai thương
nhớ.
Thật
khó để giới thiệu cho rõ nét đặc
thù về làng tôi, trong
trí tưởng của người viết
thì đó là một ngôi làng
tuy nhỏ nhắn nhưng xinh xắn,
có tổ chức đạc địa
từ căn bản, nên về sau dù qua bao thế hệ, biết
bao nhiêu khê thăng trầm
thì hình thái làng vẫn
còn giữ được như vậy.
Đến tuổi xế chiều
nghiêng bóng, đã đi đây đó khắp
mọi miền đất nước,
đã được đọc nhiều văn thơ,
thưởng thức nhiều sáng tác nghệ
thuật tả cảnh làng quê, điểm
lại không thấy ngôi làng nào giống làng của tôi cả. Cậu
học trò ngoài sáu mươi quyết định
ngồi làm lại bài luận văn tả ngôi làng của
chính mình, nơi đó tôi đã
sinh ra, nơi đó tôi có những ngày tuổi thơ vui buồn,
có cả khổ đau không thể phai mờ trong tiềm
thức.
An Lưu,
một địa danh thuộc vùng đất Chợ Cạn,
xã Triệu Sơn, quận Triệu
Phong, tỉnh Quảng Trị, làng tôi hiền
hòa nằm sau lũy tre xanh,
những con đường cái nằm ngang, đường đi nằm dọc, chia ra thành từng
khu ruộng đồng, từng xóm, nhà nọ
nhà kia trên những mảnh
vườn diện tích hầu như không khác nhau lắm,
đi lên đi xuống, đi qua,
đi về
một vòng người ta có thể phỏng đoán rằng
những bậc khai canh khai khẩn thuở nào đã dùng tri thức
về hình học để vẽ
họa đồ ngay từ những
ngày đầu đến định canh định
cư nơi đây.
Làng tôi không có cây đa cao ngất từng
xanh, không có con sông xanh lơ
lững vờn quanh, nhưng có cái dáng dấp thuần túy Việt
Nam với lũy tre làng, ruộng vườn, ao cá, mái tranh với khói lam chiều
nhẹ nhàng ùn lên êm đềm
theo cánh gió lay động ngọn cau cạnh những
mái nhà dân giả rồi tàn phai nhạt nhòa trong bóng hoàng hôn.
Ngôi làng thật
gọn gàng, theo sơ đồ ngăn nắp,
nhà trước, nhà sau, sắp xếp theo từng
xóm, những con đường dọc ngay thẳng
đi gìữa hai hàng tre của các vườn hai bên, bóng tre mát dịu dàng, có thể
nghe đâu đó tiếng chim
hót trên cành hay tiếng kẽo kẹt chạm
vào nhau của những cây tre già chênh bóng.
Những
con đường làng quê tôi
không mang tên danh nhân hay số
mục, cái tên đó có từ lâu, cũng không nghe ai kể lại là được
đặt ra khi nào, có thể suy đoán là những cái tên được gọi theo cách hình thành, theo điạ thế hoặc
mục đích như đường Đựng,
đường Bắt, đường Bạn,
đường Quan, đường Kiệt, tất
cả đều được đắp
ngay thẳng, được tu bổ hàng năm, đặc
biệt vào những dịp có tế
lễ, mà nhất là ngày Tết âm lịch.
Theo cách hiểu
của người viết bài này thì ngoài những con đường
xóm nằm trong làng, trước làng có hai con đường ngang lớn trên cùng gần bìa làng là đường Bắt, đây là đường
dân làng đắp lên, được tu bổ hằng
năm trở thành lớn nên mới có tên đường
Bắt, theo thổ ngữ Quảng
Trị chữ bắt có nghĩa là đắp.
Con đường
song song với đường Bắt, cũng chạy
từ đầu Đông đến đầu Tây theo bề
dài làng là đường Bạn, nghe nói rằng hằng năm đến
mùa gặt có những nhóm thợ gặt từ
những nơi khác đến gặt thuê, đi thuê người
gặt từng nhóm như vậy, gọi
là kêu “bạn cắt”, cho nên mới có tên đường Bạn, con đường
này cũng là nơi đi lại trong vùng và phụ cận, không đi xuyên qua làng.
Ba con đường
nối từ đường Bạn
lên đường Bắt, một ở
giữa và hai ở hai đầu rất
cân đối đều được gọi
tên là đường Đựng, theo thứ tự Đông, Tây và Giữa
theo tiếng địa phương thì đứng
có nghĩa là dọc, theo
cách phát âm thiên về dấu nặng đặc
biệt của Quảng Trị,
như vậy gọi đứng
thành đựng lâu ngày thành
quen .
Những
con đường trước làng, trong làng đã nói đến, điều đang thắc
mắc là còn một con đường khác, cũng chạy
song song với hai con đường chính trước làng là đường Bắt và đường
Bạn, con đưòng này có cái tên rất hay là đường Quan mà lại nằm sau lưng
làng, thay vì đường cái
Quan là con đường trọng đại, làng tôi dấu
con đường Quan đằng sau, trong lúc trâu bò
không được leo lên những đường chính trước
làng, chỉ
được dùng đường Kiệt và đường
Quan để trở về chuồng
sau một ngày cày xới hoặc gặm
cỏ ngoài đồng.
Câu hỏi
chẳng có câu trả lời, xưa
bày nay làm, cứ thế mà dùng, cứ thế mà gọi,
làng tôi ngôi làng thân thương
nghèo nàn đó âm thầm những bước đi theo thời
gian, ngày qua ngày, năm qua năm, thế
hệ này qua thế hệ khác, phong tục
tập quán được lưu truyền,
đó là nét văn hóa đặc
thù, tình cảm mặn mà với ruộng
lúa bờ tre, cần câu ao cá ngọn bèo, cọng rong..
Các cụ
xưa nói “nhất cận thị,
nhì cận giang”, làng tôi
có cái nhất mà mất cái nhì, phía Đông làng giáp
xóm Phường của thôn Đạo Đầu, đó là chợ
Cạn, chợ nhỏ kiểu
nhà quê, nhưng tên thì nổi tiếng trong những
lần binh lửa, không có sông, thay vào đó
hai con khe ở hai đầu làng - người làng tôi gọi là “trong”-nước chảy bốn
mùa, tưới cho cánh đồng lúa tốt tươi.
Sau lưng
làng là rú, không có những
loại cây to lớn, phần nhiều
trầm bù và tràm, một số nương
khoai, đất rú hầu như toàn cát trắng
nên không thích hợp cho
những loại cây khác, chỉ có thể trồng
dương liễu hoặc sầu
đâu, nếu có điều kiện kỷ
thuật cao chắc là có thể trồng được
nhiều loại cây hữu ích khác nhưng
làng tôi chưa được như vậy,
cho nên rú khá rộng, đa
phần làm nghĩa điạ cho người quá vãng. Bên cạnh
đó có những đụn cát vàng, dân làng thường gọi “đôộng”
giữa” độ cao thấp tùy năm, tùy mùa theo chiều gió mà xoi hoặc bồi, vì thế
đụn cát khá linh hoạt về hình thể
cả màu sắc.
Trước làng là đồng ruộng lúa, chia ra ba loại: gần trong cùng là ruộng “nẩy”, kế là ruộng sâu, phần rìa còn lại ở những vùng đất cao là ruộng cạn, số đất còn lại gọi là nương. Các loại ruộng và nương có công dụng trồng tỉa khác nhau cho từng loại nếp, lúa, mạ khoai sắn hoặc hoa màu.
Ngôi đình làng tọa
lạc trên một mảnh đất
cao nằm phía trước chính giữa làng, nơi đó dùng để hội họp,
chung quanh quang vắng,
theo những người già kể lại thì trước
kia ở đó có lùm cây với nhiều cây cao bề
thế, tất cả đã bị
triệt hạ trong cuộc chiến chống
Pháp (45-54).
Hai ngôi nhà thờ
của hai họ Lê, Trần bề
thế ở hai đầu, lộ
hẳn tiền đường, tam quan ra phía trước, trước
kia còn có nhà thờ họ Nguyễn, đã bị
sập đổ trong chiến tranh trước 1954, sau này họ Nguyễn rất
ít dân số, phần lưu lạc
vào Nam lập nghiệp sau 1975, nên bàn thờ được đặt
phía đầu Tây của làng, trên đất hương hỏa
của gia đình họ Nguyễn.
Theo trong gia phả
lưu lại, khi từ miền ngoài (Nghệ
An) vào thì ba vị gồm ba họ Nguyễn,
Lê, Trần là tiền khai khẩn, hậu khai canh của
làng An Lưu, hiện tại có thêm gia đình họ Trịnh,
họ Trịnh là họ “ngụ”,
bắt đầu có từ khi người
ở trông coi chùa của làng, làm nhiệm vụ ông từ,
nhang khói và giữ chùa
làng, ngôi chùa đã bị sập đổ theo chiến
tranh, ông từ họ Trịnh trở
thành cư dân làng từ đó.
Khác với
các làng mạc miền Nam, đình làng là nơi thờ thần
hoàng, ở làng An Lưu của tôi nói riêng và xứ tôi nói chung, thần
hoàng thờ trong nghè
làng, nghè làng được xây
cất trang trọng và uy nghiêm, trước có tiền sảnh, để
nhóm họp, bày biện lễ vật,
kế tiếp là chánh điện nơi đặt
hương án, bài vị có đủ tước
phong, phẩm trật của vua ban.
“Không thiêng ai gọi
là thần”, theo những câu chuyện truyền khẩu
thì thần hoàng làng tôi rất linh thiêng, hằng năm, đặc biệt vào ngày đầu
năm Tết âm lịch, dân làng mang lễ vật đến
nghè tế lễ thần hoàng trước,
sau đó mới đi tế lễ các nhà thờ
họ, vào ngày đầu năm không phải họ nào tế
lễ họ nấy, mà các trưởng
tộc phải đi dự lễ
tế mừng tuổi tân niên các vị
khai khẩn của làng.
Từ thuở nào nghè An Lưu đã nằm trong khu rú phía Tây của làng, trước
kia rất cổ kính, sau những cuộc chiến
tranh dai dẳng, khốc liệt hư
hại đi rất nhiều, nay đã được
xây dựng mới hoàn toàn.
Nghè làng tôi đặc
biệt ngoài thờ cúng thần hoàng, còn thờ một vị
thần khác mà dân làng ai
cũng biết chuyện đó, nhưng thần gì, tên gì thì người
viết không nắm vững, chỉ
nghe người lớn tuổi hơn
nói lại là thần đá, chính người viết không những
nghe kể tận tai mà còn từng vài lần đến thăm thần
đá tận mắt, câu chuyện được lược
kể thế này.
Vào ngày nọ
có một ngưòi Phương Sơn,
là làng nằm cạnh An Lưu về
phía Tây, cách nhau chỉ con đường
dọc và bờ tre, người nầy đi “dủi”
cá trên vùng đất thuộc An Lưu, trong trời
đông lạnh buốt anh ta “dủi” hoài mà chẳng được gì, anh liền
khấn cầu xin cho “dủi” được một
ít mang về cho gia đình
dùng bữa, lần “dủi” kế
đó anh thấy nặng tay, mừng thầm trong lòng nhưng
khi cất lên là một hòn đá, ném hòn đá đi anh tiếp tục, nhiều
lần như vậy, cũng chỉ
hòn đá như trước, liền mang hòn đá lên bờ,
để ngay ngắn và khấn: nếu
linh thiêng cho tôi “dủi”
đầy một “oi” cá thì sẽ mang về thờ,
chỉ một lần “dủi”
kế đó,”oi” cá của anh đã đầy, vô cùng kinh ngạc, anh mang hòn đá về nhà để lên bàn thờ,
chuyên cần nhang khói.
Từ
ngày thờ hòn đá trong
nhà, làm ăn trở nên khấm khá, anh liền lập một
bàn thờ trước nhà, bàn thờ quay mặt ra hướng
đồng lúa của làng, trong khi nhà anh càng
ngày càng khá giả thì đồng lúa của làng năm nào cũng bị cháy, có người hay chuyện báo ra làng, làng liền đến thương
lượng thỉnh hòn đá về thờ trong nghè, gọi
là thờ thần. Đến nay người
dân làng vẫn gọi là hòn đá, nhưng nêu quan sát kỷ ta thấy đó là một
phù điêu, có lẻ từ phù điêu có vẻ bác học quá nên ít người
dùng. Nghè Phương Sơn quay mặt về hương
Tây, tức làng Linh An,
cũng từ đó làng Linh An hằng năm bị hỏa hoạn,
phải đắp một gò cao trên gò có “yểm” con ngựa
sắt mới yên.
Người
viết bài này đã đôi lần đến thăm phù điêu thần
đá, khá lớn, tượng hình ngồi, lối điêu khắc
và hoa văn mang dáng dấp
cổ Chàm, một cánh tay bị gãy được nối
lại, lý do nào sẽ nói sau đây.
Trong khi đó, làng An Lưu
biết được nguyên lai hòn đá nằm trên đất của mình, bèn nhân ngày mùa, Phương Sơn bận
lo gặt lúa, An Lưu tổ chức
một đội trai tráng khoẻ mạnh qua cướp
về, khi đi qua con khe là ranh giới hai làng, phù điêu đá trì lại không cách nào khiêng đi nỗi, còn “hộ” vào một người
khác nói với một người đàn bà Phương
Sơn “chạy cá”: “ báo cho dân Phương Sơn biết,
An Lưu qua cướp ta về bên đó, mau mau tiếp
cứu…”, được tin, trai tráng Phương Sơn dưới
đồng chạy về, hai bên giành nhau, bất phân thắng
bại, đến nổi phù điêu đá bị
gãy một cánh tay, thần đá liền “hộ”
lên mà xử rằng: “hai làng đều kính trọng và yêu quý ta, để cho công bằng từ nay một
bên thờ vong, một bên thờ xác”, do đó Phương Sơn vẫn
tiếp tục thờ xác, An Lưu
lập bàn thờ trong nghè làng thờ vong. Tục lệ cứ
ba năm tế thần một lần
luân phiên, bên này tế
thì bên kia cử người sang dự, với những
quy định lễ nghi kiêng cử có khuôn phép cho những ai được làng cắt
đặt hầu lễ thần.
Đây không phải
là một chuyện thờ cúng mê tín dị
đoan, mà là một nét đặc thù văn hóa địa phương, cho nên nói đến
An Lưu và Phương Sơn vùng chợ
Cạn mà không nhắc đến thần
đá theo tôi là một thiếu sót, sự
kiện này chắc chắn các nhà nghiên cứu
rất cần đến, với
khả năng chuyên môn nghề nghiệp họ
có thể tìm sâu và biết nhiều hơn
như vậy.
Khi ngồi
hồi tưởng để ghi lại
hình ảnh làng tôi, bao
nhiêu kỷ niệm lại quay về
như những đoạn phim dĩ vãng, từ
ngôi đình làng, nghè thờ
thần hoàng, từ đường họ,
đền âm hồn, những lăng mộ
các bậc khai khẩn khai canh, nhà thờ Công giáo, chùa làng, am miếu, những khu mả
mồ dù xưa hay mới đều
đã và sẽ là di tích để mãi về sau.
Những
đập ngăn nước, mương khe cống
rảnh, những gò đống giữa
đồng, những tên gọi từng khu đồng
sâu ruộng cạn, nương vườn
đây đó đều hiện lại đầy
đủ trong trí nhớ đặc dày qua hình ảnh
mưa dầm giá lạnh hay nắng
cháy khô cằn, gió lào gay
gắt, hay mưa phùn gió bấc, lầy lội
trơn trợt đường quê, hay nứt
nẻ ruộng khô nắng hạ.
Còn nghe văng vẳng
bên tai tiếng chim sơn ca réo gọi tầng cao giữa
đám ruộng rạ trơ sau mùa gặt
những buổi chiều hè oi ả
khô khan, tiếng dế vang vang buổi bình minh hai bên “dường” ruộng, con cá thia thia sủi bọt
dưới gốc lúa trổ đòng đòng, hay vẩy mống cá rô trong ao đìa lặng gió, phất
phơ đôi cánh bèo màu tím
nhạt lục bình rung rinh.
Tất cả ở trên là bức
tranh tổng quát làng tôi
trong nỗi nhớ của một người từ
lâu sống tận phương xa nhưng
trong lòng còn bao khắc
khoải luyến lưu, và kỷ
niệm thuở tuổi đời
thơ ấu, hồi tưởng
về xóm làng dấu yêu với tất
cả thâm tình dấu kín đáy lòng, dẫu ngôn từ nào cũng không thể diễn đạt
cho cùng.
Trần
Quốc Phiệt
November - 2008
hathaius@yahoo.com