Năm mười lăm tuổi, tôi nhận được bức thư tình của người bạn
gái cùng lớp tiểu học. Sau này lớn lên hai đứa học hai trường khác nhau, nhưng
mỗi khi đi ngang chợ tỉnh xuống bến đò, tôi vẫn gặp cô bé đứng sau chồng vải
cao ngất, giúp mẹ bán hàng, mắt đen lánh. Mặt đỏ bừng, tim đập thình thịch, tôi
vừa đi vừa chạy vừa loay hoay tìm cách giấu bức thư thật kỹ. Nhưng giấu ở đâu?
Chẳng có chỗ nào an toàn cho tôi cả. Cuối cùng, trong phòng vệ sinh nhà trường,
tôi xé vụn bức thư, trợn mặt nuốt tất cả vào bụng.
Thật là một hành vi đáng xấu hổ.
Tôi tìm cách chuộc lỗi. Nhưng vốn lười biếng, tôi lần lữa
mãi. Các nhà tâm lý học cho rằng những kẻ lười biếng chỉ có thể hoàn thành công
việc dưới áp lực, như khi đứng trước các kỳ thi, trong điều kiện kỷ luật, ngoài
ra thì họ là những người lông bông, không có đường lối gì cả. Bởi thế năm lớp
chín, khi thầy Đỗ Tư Nhơn mới từ Đà Lạt về, ra mắt học sinh trong giờ đầu tiên
bằng đề bài luận văn: “Vương Dương Minh có nói: người không có chí như thuyền
không lái, như ngựa không cương, trôi dạt lông bông không ra thế nào cả. Các em
hãy bình luận câu nói trên”, thì tôi giật mình, tưởng thầy ám chỉ mình. Buổi
sáng thứ hai, khi học sinh toàn trường tập trung ngoài sân xếp hàng, thầy Nhơn
rẽ lối đến gần, dặn: em có bài thơ nào đưa cho thầy đăng vào giai phẩm xuân sắp
tới. Mấy thằng bạn lớp mười ban toán của tôi đứng quanh lác mắt: dân học toán mà
mê thơ. Thầy là giáo sư chủ nhiệm năm trước đó, thần tượng văn học của tôi,
thầy hay cười nụ, mắt cũng cười, mái tóc bồng bềnh, râu mép để lún phún, thường
tập cho học sinh hát các ca khúc của Trịnh Công Sơn và phong trào du ca, thầy
giảng Kiều hay, say đắm. Giảng đến câu “khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”
thầy liền vẽ lên bảng đen một khuôn mặt tròn trịa, cặp lông mày dài và rậm,
nhìn biết ngay là Thúy Vân. Thầy tả cô em quá đẹp nên đến khi minh họa cô chị,
dù cố sức vẽ đi vẽ lại, vẫn không thể có một khuôn mặt đẹp hơn. Thật ra một năm
trước đó, tết Tân hợi, giai phẩm xuân đã ra số đầu tiên, nhưng nghe nói năm nay
ngoài giai phẩm, trường sẽ mở phong trào thi đua bích báo giữa các lớp và hội
mùa xuân gồm nhiều sinh hoạt vui chơi, thể thao khác nữa. Trong giai phẩm năm
trước, tôi có bài thơ được đăng, một bài lục bát, tôi ngượng không muốn cho ai
biết, nên lấy cái biệt hiệu kỳ quái là Nguyễn Thị Thái Hư, mà anh tôi bảo là
nửa con gái nửa đạo sĩ. Anh Dũng nói riêng với tôi: Quỳnh rất thích bài thơ đó,
hỏi tác giả là ai. Quỳnh là chị Võ Thị Quỳnh, một trong hai người bạn gái cùng
lớp được anh nhắc đến nhiều. Thật ra, tôi chẳng bao giờ nghĩ mình sẽ đi theo
con đường văn học. Tôi là kẻ nhiều đam mê, môn gì cũng thích, nhưng không
chuyên chú, khác với anh tôi là người có cá tính từ nhỏ, năm mười một tuổi đã
quyết định trở thành một nhà văn. Chiều về nhà, ra vườn sau, ngồi vắt vẻo trên
cây ổi trổ bông đầu mùa, tôi nặn óc viết bài thơ, để giữ lời hứa với thầy nhưng
cũng ngầm chuộc lỗi với người bạn gái. Làm câu cuối xong, khoái chí, tôi tuột
tay rớt từ trên cây xuống. Bài thơ được chọn đăng trong giai phẩm xuân Nguyễn
Hoàng, vì vậy tôi được ban báo chí mời đến dự liên hoan đón Tết Nhâm Tý 1972.
Đêm văn nghệ bắt đầu lúc sáu giờ, trời tối sớm, vài giọt mưa
nhỏ ấm áp, ngày giáp Tết phố phường thoang thoảng mùi hương trầm. Buổi chiều đi
đò từ chùa sư nữ ngược lên chợ tỉnh, một người bạn mà tôi mới quen, Đỗ Huy
Sanh, học sau tôi một lớp nhưng dáng điệu chững chạc phong trần, làm thơ trước
tôi rất lâu, đọc bài thơcủa anh, cũng được đăng trong giai phẩm mà tôi nhớ câu
đầu tiên:
Mùa xuân còn gì không em?
Buổi chiều cuối năm giữa hai cơn mưa bụi hạt nhỏ li ti, mặt
trời vẫn đi qua rực rỡ, nước sông đầy và xanh, mây trắng mây đen chen chúc,
người ngồi sát chạm taynhau trên mạn đò xâm xấp nước, mà không sợ chìm đò, mà
giọng đọc thơ của chàng trên mặt sông vẫn vang xa nghi ngút. Trong hội trường
lớn của dãy nhà giám học, trước mặt là sân trường, cũng là sân chơi bóng rổ,
mấy dãy bàn đã được sắp xếp gọn ghẽ theo hình vòng cung kê dọc tường, không khí
vui tươi hớn hở, kẹo bánh mứt, nước ngọt, nước trà được dọn sẵn. Ban văn nghệ,
báo chí, khánh tiết, các thầy cô, học sinh lớp tú tài đi lại tất bật chuẩn bị
chương trình. Tôi thuộc loại con nít nên chưa phải làm gì. Tiếng guitar thánh
thót, tiếng thử giọng trên máy vi âm, tiếng mưa lắc rắc trên cửa kính đục mờ,
những tà áo dài bay lượn, tiếng guốc ngoài hành lang, cười nói rộn ràng. Gần
bên tôi là anh Nguyễn Văn Dũng, với bài thơ Bên giọt đông phai, anh Nguyễn Đặng
Mừng, với truyện ngắn Đường về, anh Nguyễn Văn Trị, với bài thơ Mất ngôi. Riêng
lớp tôi chẳng có ma nào vì dân chuyên toán không mấy ai viết bài cho báo văn
nghệ. Tôi ngồi sau một bình hoa hồng nhỏ đỏ thắm.
Sân khấu có chậu mai vàng, phông màn giản dị nhưng trang trí
điệu nghệ. Không gặp nhiều bạn quen, tôi im lặng lắng nghe các ca sĩ cây nhà lá
vườn nổi tiếng trong chương trình Hát Cho Nhau Nghe trước đó vài tháng. Phong
trào văn nghệ, du ca, hoạt động xã hội đang lan rộng, gây một không khí phấn
chấn trong học đường.Trước đó vài tuần, mùa bão lụt, tôi được đi theo đoàn
thiện nguyện cùng với thầy Lê Hữu Thăng về những thôn xóm bùn lầy nước đọng,
tập làm công tác giúp đỡ bà con, phát quà biếu, thuốc men. Chuyến đi ấy dạy tôi
suy nghĩ thêm về đất nước. Tuy vậy tuổi hoa niên của tôi còn tươi mới ngỡ ngàng
quá, nên phần mơ mộng vẫn át đi phần băn khoăn thời cuộc. Tôi ngồi nghe những
bản báo cáo: thầy Nguyễn Bảo, Lê Hữu Nam về công tác du lịch, thể thao, thầy
Nguyễn Thị về khánh tiết, thầy Phan Văn Cẩn về văn nghệ, anh Thái Đào tổng thư
ký có dáng đàn anh, nghệ sĩ, thay mặt ban đại diện học sinh. Thầy Nguyễn Bảo
dạy tôi toán lớp bảy, vật lý lớp tám, sử lớp chín; giờ sử của thầy tôi mê tơi,
nhất là khi thầy giảng về phong trào chống Pháp đầu thế kỷ hay giai đạo Nhật
đảo chính. Đến đoạn Hoàng Hoa Thám bị giết, tôi ngồi khóc lặng lẽ, nhìn sang
bên thấy thằng bạn tôi hằng ngày rất nghịch ngợm cũng dụi nước mắt. Thầy Nguyễn
Thị dạy toán lớp mười vui tính, được học sinh thương mến. Mỗi môn học tôi đều
có một thần tượng. Môn vạn vật là cô Thu Cúc, môn hóa là thầy Nguyễn Văn Bôi,
môn Pháp văn là thầy Hồ Văn Phước, Lê Đình Ngân. Thầy Hồ Thế Vĩnh dạy tôi biết
yêu thơ Đinh Hùng, Nguyên Sa, thầy Hoàng làm tôi mê vẻ đẹp của hình học. Rồi
đến lễ phát giải thưởng các cuộc thi bích báo, thi thể thao, văn nghệ. Chương
trình ca khúc tiền chiến và thanh niên. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy các thầy các
cô đàn hát trên sân khấu, mới biết rằng thì ra sau khuôn mặt nghiêm trang mô
phạm hàng ngày là những tâm hồn nghệ sĩ. Tiếp đó là mục đọc biểu diễn các bài được
trao giải. Tôi còn nhớ những bài thơ và truyện ngắn của Lê Đình Thị Thành, Đỗ
Huy Sanh, Thái Đào, Nguyễn Đặng Mừng, Nguyễn Văn Dũng và nhiều người khác nữa.
Bài của Lê Đình Thị Thành mở đầu với câu:
Tôi ngồi bên dòng sông
Lắng nghe cơn buồn đến tự tình
Tôi không hiểu lắm nhưng thấy lạ và hay. Thật bất ngờ khi
ban báo chí giới thiệu bài thơ của tôi cũng được giải thưởng và thầy Phạm Sửu
diễn ngâm bài thơ ấy. Tôi lặng người, nỗi xúc động dâng lên. Tôi nhìn quanh, cô
Thu Cúc dạy vạn vật quay lại nhìn tôi gật đầu. Cô dạy tôi năm đệ ngũ, tức là
lớp tám, giảng bài hấp dẫn với giọng quyến rũ. Cô thường mặc áo dài có nhiều
hoa, da mặt trắng hồng, cặp mắt sáng, thường cúi xuống trò chuyện với từng học
sinh trong giờ học. Chỉ có cô là để ý tôi đang xúc động. Trong đời, người ta
chỉ có một vài lần như thế. Giọng của thầy Sửu ấm áp, ngọt ngào, tôi để ý thầy
phát âm tách bạch như cân nhắc từng chữ.
Quên rồi màu lá cây xưa
Chút thương nhớ đó vàng chưa khi về
Tôi học được ở thầy cách đọc thơ, cách phát âm tròn chữ như
thế nào hôm đó. Vừa tranh thủ nhai bánh kẹo lia lịa, tôi vừa liếc qua tờ báo
xuân. Trong bài của cô Võ Thị Hồng, có một câu mà sau này nhiều năm tôi vẫn còn
nhớ ý: xưa nay có biết bao nhiêu biến cố xảy ra vào những ngày Tết đến. Câu ấy
ngay trong tiếng đàn sáo, tiếng ngâm thơ và không khí tưng bừng, vẫn làm tôi
thoắt bần thần nghĩ ngợi. Tôi ngồi sau lưng thầy Phan Phụng Thạch, giáo sư quản
thủ của thư viện mới thành lập, nơi tôi thường ghé qua mỗi chiều tan học sớm,
cầm những cuốn sách mới, thơm ngát mùi giấy, mùi mực in của các nhà xuất bản
Phượng Giang, Khai Trí, Nguyễn Đình Vượng, An Tiêm, những cuốn sách in đẹp của
Nguyễn Hiến Lê, Bùi Giáng, Duyên Anh, Phạm Công Thiện. Tôi ngồi giữa bạn bè, thầy
cô, nghe mùa xuân đang nhón gót bước đi dịu dàng trên hạt dưa hấu đỏ hồng vương
vãi khắp sàn nhà, cõi lòng rung động, nhìn thấy niềm vui của sách vở. Niềm vui
sách vở là tài sản của học trò xứ nghèo, niềm vui lớn lao, giản dị, chân thành,
như người bạn đường chung thủy đi mãi với ta cho đến cuối đời. Gần nửa đêm, kết
thúc liên hoan, mọi người vẫn còn lưu luyến nấn ná trò chuyện. Lòng phấn khích
nhưng không biết cách nào để biểu hiện, tôi hái một bông hồng trước mặt nhét
vào túi áo sơ mi trắng, cố gắng giữ lại thời gian đã mất. Le temps perdu. Ra về
hơi nước từ sông bay lên lành lạnh, nhưng sau túi áo ngực, tim tôi đập ấm áp.
Tôi và anh tôi bước trên hè phố, đó là lần đầu tiên sau nhiều tháng hai đứa có
dịp cùng đi từ trường về nhà, đi bộ dọc đường Quang Trung, đứng tần ngần trước
quán Văn, vẳng ra điệu nhạc tiền chiến, mộng đời phiêu lãng giang hồ, nhạc
Trịnh Công Sơn, đại bác đêm đêm dội về thành phố, lên cầu qua sông Thạch Hãn,
trời càng khuya càng ấm lại, sáng dần lên, một bầy chim về núi muộn bay rào rạt
gần mặt sông hót lảnh lót.
Tôi chưa có dịp nào để gửi bài thơ cho người bạn gái. Bài
thơ ấy thật ra cũng không phải là thơ tình. Mười lăm, mười sáu tuổi, tôi còn
quá nhỏ dại. Vào tuổi ấy con gái có thể trưởng thành hơn và nghĩ đến nhiều
chuyện, nhưng tôi thì không. Sau này, tôi cũng không có dịp nào để viết một bài
thơ tình thực sự và hay ho, dù đã nhiều lần đau khổ vì phụ nữ hay đã làm cho họ
đau khổ, để có dịp gửi tặng người thiếu nữ thị thành đem lòng đầu đời đáng quý
dành riêng một đứa học trò điền dã. Trên mặt bìa giai phẩm có bức tranh của họa
sĩ Bửu Chỉ ở Huế, tả một ngày hội có trẻ em ca hát dưới đàn chim lượn trong mặt
trời, ngọn cờ đuôi nheo tượng trưng thuở thanh bình dân tộc, màu hồng điều rực
rỡ. Có những bài tiểu luận, phỏng vấn, thơ hay truyện ngắn của các thầy, các
cô, các bạn mà tôi đọc một hai lần nhưng vẫn nhớ nhiều câu. Trong giai phẩm ấy
cũng in đậm một thông báo có lẽ ít người chú ý:
những người làm thơ sẽ:
lại gặp nhau giữa mùa gió cát
trong
tuyển tập thơ mùa hạ
do ban báo chí Trung- học Nguyễn- Hoàng thực hiện
Hè năm ấy, mùa gió cát quả nhiên lại đến, nhưng những người
làm thơ không gặp nhau như lời hẹn, tan tác mỗi người một ngả trong gió cuốn
mịt mù, tuyển tập thơ mùa hạ không bao giờ ra đời. Giai phẩm xuân là đứa trẻ
mới lớn, là những tác phẩm có thể hãy còn non nớt của học sinh, nhưng đánh dấu
một bước trưởng thành trên quê hương gian khó. Đó là tập san văn chương cuối
cùng của một thời buồn vui lẫn lộn, đêm liên hoan văn nghệ cuối cùng. Hai tháng
sau, sẽ là buổi học cuối cùng.
Tôi yêu những mùi thơm. Mùi lá trầu bên giếng, lá chanh sau
bếp, lá ổi xoa vào tay thơm nức, mùi sơ mi mới ủi xong, giấy mới của tiểu
thuyết vừa rọc chương đầu. Mùi cà phê trộn lẫn với nước hoa rẻ tiền, từ những
quán mới mở bên đường bụi đỏ, vẳng tiếng nhạc Pháp, Vũ Thành An, Phạm Duy, cam
thảo trong tiệm thuốc bắc, mùi đất khô trong bàn tay nửa thô ráp nửa dịu dàng
của mẹ, đặt lên trán ngày hâm hấp sốt. Trong túi áo sơ mi trắng học trò có gắn
tên trường mà chị tôi thêu rất khéo bằng chỉ màu xanh, hoa hồng đã tàn, đã héo,
đã khô, từ bao nhiêu năm trước, mùi thơm của nó đã nhạt trong không gian mờ
tối, nhưng mỗi khi tôi quay nhìn lại, lòng quặn thắt, thì mùi hương ấy lại bay
về, như một người đang ở nơi xa tìm cách tha thứ cho mối tình lầm lỡ, vói tay
không kịp.
Nguyễn Đức Tùng
bachnguyen@shaw.ca