Đọc tập thơ “Giấc mơ hái từ cơn giông”
của Nhà thơ Lê Khánh Mai, NXB Hội Nhà văn, 2008)
Khi mùa
thu đến, hình ảnh những chiếc lá vàng bay tơi tả giữa bão giông hay trôi vô
định trong mưa lũ thường khiến người ta liên tưởng ngay đến kiếp phù du
ngắn ngủi của đời người. Cũng với cảm nhận về lẽ vô thường của cõi nhân sinh,
nhưng trong thơ Lê Khánh Mai hầu như không có bóng dáng một chiếc lá vàng, mà
là những chiếc lá xanh đến hết mình hoặc rụng xuống bất thường khi đang tràn
đầy nhựa sống. “Đời người như chiếc lá”, điều này Lê Khánh Mai không phải là
người nói đầu tiên. Từ xưa đến nay, ở Việt Nam và trên thế giới nhiều người đã
nói, hơn nữa từng có những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng bởi tác phẩm viết về lá.
Vậy mà những chiếc lá xanh nhỏ nhoi, bình dị trong tập thơ “Giấc mơ hái từ cơn
giông” của chị vẫn được soi rọi bởi một góc nhìn mới, cách nói mới, chạm vào
cõi sâu cảm xúc và suy tư của người đọc.
Những
chiếc lá của Lê Khánh Mai dù xuất hiện trong thi cảnh nào cũng đều có ý nghĩa
biểu trưng cho đời người và phận người vì thế nó sống động và ám
ảnh. Đây là chiếc lá xanh hiện thân cho cuộc đời ngắn ngủi của một người cha: “Chiến tranh/ cha tôi không về/
chiếc lá xanh đã rụng nơi cánh rừng xa hút” (Giấc Mơ). Nhà thơ nhận ra bản
chất của chiến tranh qua hình tượng chiếc lá xanh rụng xuống, như một sự hy
sinh thầm lặng. Sự kết thúc đời lá, đời người ở trường hợp này hoàn toàn không
tuân theo quy luật tự nhiên, nói cách khác là phi lý. Chiến tranh đã cướp đi
mạng sống của con người giữa tuổi thanh xuân tươi đẹp nhất. Và, hệ lụy từ chiến tranh là “Cha tôi không về/ mẹ
tôi còn trẻ/ ghì vào đêm/ mẹ đi qua tuổi xuân/ đi hết phận bạc…”. Câu thơ
đằm bởi nỗi đau dường như đã được nén lại nhưng người đọc vẫn còn tiếp tục
suy tưởng về rất nhiều chiếc lá xanh khác đã
rụng xuống trong những cánh rừng chiến tranh tàn khốc.
Với mạch
tư duy như vậy, ở bài thơ Lá, Lê Khánh Mai viết: "Đưa tay ngắt
chiếc lá xanh/ rưng rưng cuống lá long lanh lệ đằm/ lá như con mắt khóc thầm/
trách người sao nỡ vô tâm bạc tình/ dẫu là một kiếp phù sinh/ vẫn xanh vật vã
hết mình thì thôi”.
Chiếc lá
buộc phải lìa cành chấm dứt sự sống tươi xanh bởi tác động của ngoại cảnh, của một bàn tay “vô tâm” hay kẻ
“bạc tình” nào đó. Lê Khánh Mai thấu hiểu nỗi đau của chiếc lá “nạn
nhân” ấy qua những giọt lệ long lanh trên mắt lá. Bài thơ không dừng lại ở thái độ phê
phán hành vi thiếu nhân tính trong ứng xử với thiên nhiên, gây
nên cái chết tức tưởi cho lá mà nhắc nhủ con người về vai trò của
thiên nhiên đối với đời sống. Dù mỏng manh, chiếc lá
cũng là một sinh linh từng xanh
vật vã, mang lại vẻ đẹp cho đất trời, xứng đáng được nâng niu, trân trọng. Ở một tầng nghĩa khác, Câu thơ nói về một con người đã bị tước đoạt sự sống một cách oan uổng. Lê
Khánh Mai triết luận về lá cũng là nhằm khẳng định thiên chức cao cả của sự sống muôn loài là dâng hiến
hết mình, đồng thời sự sống cần phải được bảo vệ vì nó rất đáng quý.
Chiếc lá
trong thơ Lê Khánh Mai mang thân phận con người. Nó luôn là đối tượng, là “nhân
vật” gần gũi, thân thiết để nhà thơ trao gửi nỗi niềm sâu kín. Nhất là khi tâm
hồn rơi vào trạng thái đau khổ, cô đơn, thất vọng, con người thường dằn vặt suy
tư về lẽ tử sinh: “Có ban mai tôi như người ốm dậy/ ngập lụt nỗi buồn, gầy
guộc niềm vui/…/ bên dậu thưa bướm vật vờ cánh mỏng/ sẽ sàng một chiếc lá xanh
rơi” (Chiếc lá). Chiếc lá xanh rơi “sẽ sàng”, ngỡ như vô tình và thường
tình, nhưng với một tâm trạng đang “ngập lụt nỗi buồn” thì đấy là một tín hiệu,
một ám thị chăng? Có thể nói chiếc lá đã tham gia vào giải mã những cảm xúc vi
tế trong nội tâm con người.
Ở một bài
thơ khác, bài Bạn gái thì chiếc lá lại tượng trưng cho phận đàn bà: “Mang
thân đàn bà phận lá/ Nào ai lường hết nẻo tình”. Người ta vẫn quan niệm đàn
bà là phái yếu, nên chiếc lá mảnh mai có vẻ như tương đồng với họ. Nhưng điều
mà Lê Khánh Mai muốn chia sẻ là thân phận tình yêu của những người đàn bà.
Trong muôn nẻo tình, họ luôn gánh chịu phận mỏng manh, thua thiệt, bất trắc,
như chiếc lá kia ai dám chắc sẽ ngự mãi trên cành.
Có thể
nói, chiếc lá luôn được Lê Khánh Mai nhìn ngắm, lắng nghe và nhận biết bằng sự
nhạy cảm tinh tế và cả nghiệm sinh. Đây là lời thủ thỉ của người mẹ trẻ với con
về chiếc lá: “Đêm khuya căn phòng gài kín cửa/ Mẹ nghe rất rõ/ ở ngoài kia
những chiếc lá rơi (Mặt trời của mẹ) . Không gian là đêm tối và căn
phòng nhỏ. Đó là thế giới thu hẹp của người đàn bà, nhưng ở một nơi ngỡ như
cách biệt với vũ trụ bao la, trái tim chị vẫn hướng về những những chiếc lá,
nghe rõ tiếng rơi âm thầm của nó. Và, một ngày nào đó trở về quê hương, trước
khu vườn dãi dầu mưa nắng chị nhìn thấy “Lá trầu không vẫy gió những bàn
tay” (Trở về). Câu thơ bình dị mà khi gấp trang sách lại người đọc vẫn thấy
như hiển hiện những bàn tay xanh ngát vẫy gió ở góc vườn.
Không chỉ
nghe, nhìn, Lê Khánh Mai còn hiểu thấu “bản chất” của lá hiện thân cho những
đức tính tốt đẹp hiền lành, cam chịu, nhẫn nhịn, hy sinh, qua đó nêu một “tấm
gương” sống: “Sao không hiền lành như lá/ Xanh dịu lòng vẫn không lời/ Dẫu
lìa cành vì bão gió/ Lặng lẽ nhường cây cho chồi” (Lá và cỏ)
Đọc những câu thơ trên, bỗng nhiên tôi nhớ đến một bài pháp thoại của Thiền sư Thích Nhất Hạnh có tựa đề là Thiên Thu Trong Khoảnh
Khắc trong đó có đoạn
ông nói về lá như sau:
“Tám tháng là một cơ hội. Trong tám tháng
đó, chiếc lá này có thể đã làm ăn rất hay… Chiếc lá này đã chứng kiến trời xanh
mây trắng, đã thu nhiếp ánh sáng mặt trời, đã chế tác nhựa nguyên thành nhựa
luyện, đã nuôi cây và nuôi cành…Vì vậy nên nhìn vào lá là thấy cây, nhìn vào
cây là thấy lá. Nhìn vào xác lá, chúng ta đừng tưởng tất cả chiếc lá đang nằm
trong xác này. Không! Chiếc lá này vẫn còn đang nằm trong cây, vì suốt
cuộc đời nó đã nuôi cây.”
“Chúng ta cứ để chiếc lá này mục đi,
thành đất. Và cây có thể lấy chất liệu bổ dưỡng đó để làm những chiếc lá
mới. Vậy thì chiếc lá này có thể luân hồi để thành những chiếc lá khác. Nhưng
nó có thể không luân hồi thành lá mà luân hồi thành cây; nó có thể không luân
hồi vào cây này mà luân hồi vào cây khác.”
“Chúng ta không khác gì chiếc lá.”
Thiền
sư đã nói quá đủ về chiếc lá, tôi không dám bàn thêm.
Trong truyện ngắn Chiếc Lá Cuối Cùng
(The Last Leaf) của O.Henry, Johnsy, một nhân vật nữ đang thập tử nhất sinh
trên giường bệnh đã gắn số phận mình vào một chiếc lá cuối cùng trên một dây
leo bên tường nhà hàng xóm vào những ngày cuối thu. “Nó sẽ rụng hôm nay và mình
sẽ chết cùng với nó”. Johnsy đã vận số mệnh của mình vào chiếc lá một cách
tuyệt vọng. Lê Khánh Mai cũng xem cuộc
đời như chiếc lá, nhưng khác với Johnsy, chị có thái độ bình tâm của một người
đã chứng ngộ. Chị biết sẽ có một ngày mình hóa thành chiếc lá thảnh thơi thả
mình trôi theo dòng sông để được tan biến vào đại dương, hòa nhập vào vũ trụ mà
không hề tuyệt vọng, không hề sợ hãi.
“Này sông/ về đâu vội vã/ bỏ ta đứng
lại bên trời/ đợi ta hóa thành chiếc lá/ theo dòng ra bể rong chơi” (Hỏi).
Nếu như
hình ảnh lá trong thơ Lê Khánh Mai tượng trưng cho sự mong manh, biến ảo, vô
thường thì ngược lại hình ảnh cỏ trong thơ chị mang một sức sống mãnh liệt. Nó
gần gũi, thường hằng, mà vĩnh cửu, mặc dù cỏ cũng chỉ là lá mà thôi.
“Lối
nhỏ ra cánh đồng/ vấn vít cỏ dại/ nhành non vươn ấm mềm/ như ngón tay con gái” (Cánh Đồng Xuân).
Nhà thơ
giao hòa với cỏ trong tình cảm dịu dàng, thân thương. Đi trong lối nhỏ mà cảm nhận
được tình yêu của cỏ, của thiên nhiên trời đất giành cho mình. Loài cây vốn nhỏ
bé thấp thỏi này hầu như không băn khoăn với thân phận bị lãng quên. Cỏ hồn
nhiên, đơn sơ và hữu ích. Điều đó phải chăng đã khiến con người tự hỏi mình:
“Sao không đơn sơ như cỏ/ âm thầm
góc ruộng bờ
đê/ dâng tấm thảm
nhung mềm mại/
bước chân hôm sớm
đi về” (Lá Và Cỏ).
Dường
như bất cứ ở đâu cỏ cũng sinh sôi, bất diệt. Người ta có thể dẫm đạp, dày
xéo nhưng rồi cỏ vẫn xanh tươi, khồn sức mạnh nào có thể tàn phá. Theo nghĩa
đó, cỏ tượng trưng cho phẩm chất của đại đa số người lao động, đặc biệt là
người nông dân chân lấm tay bùn, với cuộc sống bình dị nhưng bền bỉ, đầy
sức vươn dậy. Không leo cao nên không ngã đau. Không chạy theo hư danh nên
không thất vọng. Thi nhân xưa từng ca ngợi “Khi bão mới hay rằng cỏ cứng”
(Nguyễn Trãi). Còn Lê Khánh Mai thì tôn vinh loài cỏ lên hàng “đạo đức cao
vời”:
“Phải
kiếm tìm đâu xa lạ/ thiên nhiên đạo đức cao vời/ khi tôi rạp mình trước cỏ/
nhận ra ý nghĩa làm người” (Lá và
cỏ).
Đây là sự
tự ngộ về lẽ sống. Học cách sống của loài cỏ. Cúi rạp trước cỏ, nâng cuộc bình
dị để yêu thương và thấu hiểu một chân lý giản đơn: được sống làm người thật
hạnh phúc biết bao.
Điều cuối
cùng mà tôi muốn nói và cũng là điều bất ngờ tôi gặp trong thơ Lê Khánh Mai, đó
là, hình tượng cỏ được chị biểu đạt cho một nhân cách thơ. Chị viết:
câu thơ nước chảy bèo trôi
vẫn nghiêng về phía phận đời
khổ đau
dù không nên hạt mùa sau
xin làm hương cỏ đọng màu thời gian.
(Hương cỏ)
Thi sĩ muôn đời vẫn mang trong mình khát vọng
thi ca, mong uớc ký thác tiếng nói trái tim thành thực nhất cho muôn sau. Lê
Khánh Mai từng thú nhận: “Tình yêu tôi ngát hương cỏ mật, cỏ gà/ Những cọng
cỏ xanh tái sinh từ bùn đất” (Tôi sinh ra từ bùn). Chị nhất quán một quan
niệm nghệ thuật: thơ phải nghiêng về phía phận đời khổ đau. Và Lê Khánh
Mai tâm niệm thơ mình sẽ là hương cỏ, một thứ hương đồng, làm nên từ bùn đất,
cần lao mà đọng mãi với thời gian.
Đà Nẵng, tháng 8 năm 2011
N.K.P
Bài đã được đăng trên trang
VIỆT VĂN MỚI - NEWVIETART