BÌM BÌM QUẤN QUÍT
Truyện ngắn
MacDung
- Chị Thúy chết rồi bà Tư ơi!
Tiếng la thất thanh của thằng Tèo
làm bà Tư giật mình như bị sét đánh ngang mày. Bà vừa lay ông Tư, vừa hỏi giật
giọng:
- Bây nói con Thúy nào vậy Tèo?
- Thì chị Thúy con ông Tám bên xẻo,
chứ còn ai nữa hở bà Tư?
Câu nói của thằng Tèo khiến bà Tư bàng hoàng xúc
động.
- Con Thúy làm sao lại chết? Mới
hôm qua tao thấy nó sờ sờ kia mà!
Thằng Tèo đã đứng trong nhà từ lúc
nào.
- Người ta nói chỉ uống thuốc rầy
tự tử. Mọi người vừa phát hiện đưa đi trạm xá, nhưng lại chở về rồi đó bà Tư.
Ông Tư vớ lấy chiếc gậy bước vội
ra ngoài, không kịp sửa lại chiếc áo bị gài nút bắt quàng (cài không đúng vị
trí).
- Thật khổ cho con nhỏ! Tôi đã nói
rồi mà anh Tám không chịu nghe. Tụi nhỏ thương nhau đâu có gì sai quấy mà cứ
làm khó nó mãi. Sự việc ra như vầy có hối cũng chẳng kịp rồi đó bà nó…
Bà Tư nhả vội mớ trầu trong miệng
ra ô, nói với theo:
- Ông qua bên ấy coi thể nào. Tôi
gọi sắp nhỏ về coi nhà rồi qua theo. Thiệt là khổ thân con bé…
Bà Tư nói như vậy nhưng trong lòng
đã run lên. Linh tính báo cho bà sẽ xảy ra việc không hay cho con Thúy. Tội
nghiệp con nhỏ và thằng Quý nó thương nhau. Phải cái việc môn đăng hộ đối mà
hai nhà từ thân tình sinh ra tranh cãi. Chơi với nhau thì thuận thảo nhưng bàn
đến hôn sự cho đôi trẻ lại bất đồng. Thế mới biết ở đời thật khó, thân tình là
như thế, nhưng sui gia nhiều khi chưa đáng mặt…
Ông Tám bên xẻo có cô con gái thứ
tư tên Thúy, nết na cả xóm đều biết. Bên kia xẻo lại có ông Năm hay qua lại nên
lâu ngày thành thâm tình. Hai ông bạn già thường gặp nhau, lúc chén trà khi ly
rượu, lâu ngày như có tình máu mủ.
Ông Năm có người trai lớn giỏi việc
đồng áng, thường lặn lội ngoài đồng kiếm cá nắm cho bữa cơm bớt nhạt. Có khi được
con cá to anh hay mang sang biếu nhà bác Tám, với cái nghĩa tôn trọng tình bạn
của bậc trên…
Lâu ngày qua lại, anh để ý cái
duyên dáng của Tư Thúy nên đâm thương lúc nào không biết. Hai người hay hẹn gặp
nhau ngoài đồng cùng đi chao bắt tép, hay kéo lưới với nhau. Trái gái lớn gần
nhau lâu ngày thật khó rứt rời, tình cảm ngày một khăng khít như đôi vợ chồng
đã đính ước. Trong làng nhìn họ trầm trồ với lời khen cân xứng, nghĩ rằng không
nay thì mai sẽ có đám cưới rửa ruột một phen.
Ai ngờ khi biết đôi trẻ phải lòng
nhau, ông Năm thì tự tin cho rằng không có điều gì trắc trở. Nhưng ông Tám lại
nghĩ khác, con gái của ông sao lại gả cho dân đồng nội. Có gả ông phải kiếm mối
cho thật tốt, hay việt kiều xứ ngoại mới đáng mặt cô gái yêu vừa đẹp người lại
nết na…
Lúc đầu, ông Năm sang nài nỉ mãi
nhà gái chẳng chịu chấp hôn. Sau biết chuyện, vợ chồng ông Tư góp tiếng cũng
không xong. Sự việc kéo dài đã mấy năm mà không có hồi kết, khiến Tư Thúy và
anh Quý lo đến tiều tụy cả người…
Ông Tám ngoài miệng thì nói cứng,
nhưng chờ mãi cũng không có mối nào tốt hơn, con gái thì ngày một lớn nên đâm
ra nhượng bộ. Cả làng hay tin đều mừng vì cuối cùng mọi sự cũng suôn sẻ…
Nhưng… ai ngờ đến giờ phút cuối
ông Năm lại nổi tính tự ái. “Con trai không có mối này thì tìm mối khác. Ai hơi
đâu bợ đỡ mấy kẻ nghèo mà lại làm cao…”
Đến nước này vợ chồng ông Tư chỉ
biết kêu trời! Chỉ tội nghiệp cho Tư Thúy cứ khóc sưng húp cả mắt mà không biết
tựa vào ai…
Cái chết của Tư Thúy khiến hai nhà
càng thù ghét nhau. Ông Tám cho rằng con gái mình chết là do nhà trai gây ra. Nếu
ông Năm không dở chứng thì sự việc có đâu như thế?
Riêng ông Năm lại cho rằng, nhà gái
bị quả báo khi làm mình làm mẩy, thách giá con gái quá cao. Nếu ngay từ đầu ưng
thuận đâu ra chuyện thế này!...
Đám ma Tư Thúy qua ngày thứ hai, cả
làng lại một phen kinh hoảng. Anh Quý con ông Năm không chịu được sự kích động
quá lớn cũng uống thuốc quyên sinh… Lúc này ông Năm hối hận thì đã muộn…
Ngày đưa ma con gái, chiếc ghe lớn
của ông Tám đi ngang qua nhà ông Năm trong tiếng đàn cò buồn thảm. Ông Tám với
hai hàng nước mắt nhìn vào đám ma anh Quý nghiến răng: “Như thế mới vừa lòng
người cha chỉ biết đầu không biết đuôi của mày đó Quý!”
Sau sự kiện thương tâm, cây cầu bắc
qua con lạch nối liền hai bờ bị dỡ bỏ. Hai nhà từ đó không ai qua lại, dù rằng
một bước trên đất của nhau. Báo hại người trong làng muốn sang thăm hỏi cũng bất
tiện, vì chẳng còn phương tiện như ngày nào. Nhiều người muốn bắc lại cây cầu
nhưng lại sợ… thêm dầu vào lửa… nên bỏ qua luôn…
Rồi trong làng có nhiều tiếng to
nhỏ với nhau về tiếng khóc văng vẳng vào lúc tối trời. Không biết từ đâu tiếng
khóc ấy cứ vang lên vào mỗi tối?
Bọn trẻ con như thằng Tèo nghe thấy vậy ban
đêm thường lủi mất chẳng thấy tăm hơi. Chúng sợ vì nghe người lớn nói với nhau:
“Đó chính là oan hồn của Tư Thúy và anh Quý chết oan khuất nên khóc than thở về
cuộc tình ngang trái…”
Tiếng khóc bên bờ sông khiến cho
ông Tư và bà Tư đâm ra khó ngủ. Nhà ông bà ở gần ông Tám nên tiếng khóc hằng
đêm vang lên rất rõ. Lắm hôm bực mình hai vợ chồng già tìm gặp ông Tám hỏi cho
rõ nguyên do. Dù sao hai đứa nhỏ cũng đã chết, khóc thương mãi cũng có ích gì…
Nhưng kỳ lạ ở chỗ ông Tám cũng ngạc
nhiên không kém. Có thể tiếng khóc ấy vang lên từ bên kia con xẻo, nơi có… nhà
ông Năm…
Vợ chồng ông Tư lại chèo chống
sang nhà ông Năm. Nhưng ông Năm cũng chối bây bẩy, cho rằng tiếng khóc ấy từ
nhà ông Tám vang đến…
Ông Tư và bà Tư cùng nhìn nhau.
“Như vậy đã rõ mười mươi là tiếng
khóc của hai đứa nhỏ rồi!”
Bà Tư run cả người khi nghe chồng nói. Bà rất
thương Tư Thúy, nhưng… ma thì vẫn sợ…
Mộ của Tư Thúy và anh Quý lúc đầu
có nhiều người đề nghị chôn cạnh nhau. Nhưng cả hai nhà đều phản đối… Nên cuối
cùng hai kẻ bạc mệnh đành chịu cảnh: “anh tả ngạn, em hữu ngạn”. Hai ngôi mộ nằm
cạnh chân đồng, cách gia đình khoảng hơn trăm mét, mặc dù không cùng bên nhưng
lại đối diện nhau…
Từ ngày xác định tiếng khóc là của
đôi trai gái chết oan, ông Tư cứ đi ra đi vào ra chiều nghĩ ngợi. Ông biết tụi
nó rất thương nhau, nhưng… cứ khóc kiểu này ai mà chịu được…!
Có lần ông Tư đi tận đâu đâu rước
về một ông thầy cúng tế, siêu độ cho hai vong hồn để người làng không phải nghe
tiếng khóc nữa. Nhưng đến lúc yểm bùa trấn tà thì chỉ có một bên gia đình đồng
ý. Nhà còn lại nhất quyết không theo, với lý do: “Không phải thân tộc sao lại
cùng loài”…
Tối đêm đó người ta lại nghe tiếng
khóc vang lên từ một phía. Tiếng khóc nức nở, ai oán và thê lương, khiến lòng dạ
cứ nao nao…
Ông Tư lại chèo chống đi thuyết phục
nhà còn lại. Nhưng đến lúc việc thành thì nhà kia lại giở chứng không theo…
Rồi tiếng khóc lại vang lên trong
tối ấy. Nó buồn thảm, ray rứt, ở bên đối diện, khiến ai cũng mủi lòng…
Quá nản lòng, ông Tư bỏ mặc cho sự
việc trôi theo dòng nước…
Nhưng việc có thể bỏ được nhưng tiếng
khóc thì không… Nó cứ ám ảnh giấc ngủ của hai vợ chồng già với niềm thương cảm
hai đứa trẻ.
Một đêm không ngủ được, ông Tư nói
với vợ:
- Có thể hai đứa nó không qua lại
được với nhau nên cứ khóc mãi đó bà…
Bà Tư trở mình thở dài:
- Ông làm như chuyện tình Ngưu
Lang, Chức Nữ không bằng. Đã là oan hồn thì sao không đến với nhau được. Lúc sống
bị cản ngăn, chẳng lẽ lúc chết cũng không dám đến với nhau sao?
- Bà nói như vậy sao được! Ông bà
mình xưa nay làm gì phải đúng phép phải đạo. Cứ như bà nói thì tụi nhỏ đâu có
chết, cứ dắt nhau đi cho khuất là xong…
Chuyện lời qua tiếng lại của ông
bà Tư đến tai người trong làng. Nhiều người góp ý, nhưng… luận bàn thì lắm mà
cách giải quyết vẫn không ra…
Một hôm, người hai bên con xẻo bỗng
ngạc nhiên khi không nghe tiếng khóc lóc nữa. Thật lạ kỳ và huyền diệu thay cho
giấc ngủ, mọi người đều thoải mái đi vào giấc điệp mà không mang theo cơn ác mộng
nào…
Sáng ngày, việc đầu tiên ông Tư
làm là chống gậy đi xem ngôi mộ cạnh ruộng. Không biết ai cao tay, đã làm tiếng
khóc ngừng hẳn mới tài?
Khi ra tới hai ngôi mộ, ông già ngạc
nhiên khi thấy một cây cầu bằng bập dừa (cuống lá dừa) bắc qua hai bờ lạch. Nó
được gác tạm bợ lên những thanh trúc bắt chéo cánh sẻ làm nhịp, mấy dây lạt dừa
giăng ngang như tay vịnh để người đi qua có cái tựa vào. Thế mà cũng ra cây cầu,
mặc dù có đôi chút sơ sài…
Về đến nhà gặp vợ, ông Tư hí hửng:
- Tôi nói như xâm bà! Không biết
ai bắc một cây cầu bằng bập dừa nước qua hai ngôi mộ. Vì vậy tiếng khóc tụi nó
mới yên đó bà.
Bà Tư như không tin:
- Ông nói thật hở ông?
- Tôi dối bà làm gì! Từ đây tụi nhỏ
mới thật sự an lòng ở bên nhau rồi. Sống phải có nhà, chết phải có đường. Tại
lâu nay tôi ngu nên không nghĩ ra…
Hai vợ chồng ông Tư vui nhưng thằng
Tèo lại tỏ ra vui hơn ai hết. Nó hí hửng thầm thì với chúng bạn khiến ông Tư
cũng tò mò muốn biết.
- Có chuyện gì mà mày cứ hí ha hí
hửng vậy Tèo? Nói cho ông nghe coi nào.
Thằng nhỏ chưa nói, ông Tư đã kịp
nghĩ ra.
- Thì ra là con bắc cây cầu ấy phải
không? Cái thằng cũng giỏi, nghĩ ra sớm hơn mọi người.
Thằng Tèo nhe răng ra cười:
- Giỏi chi ông Tư! Là ông gợi cho
con nhớ chuyện Ngưu Lang Chức Nữ ấy mà.
Ông Tư cảm thấy hài lòng với chính
mình.“Thì ra người già như mình cũng chưa phải bỏ đi. Già không làm được, nhưng
gợi ý cho bọn trẻ làm cũng tốt chứ sao!”
Chuyện thằng Tèo bắc cầu cho hai
oan hồn bạc phước đến với nhau, phút chốc lan khắp trong thôn. Nhiều người khen
thằng nhỏ thông minh lanh lợi mới nghĩ ra một phương pháp vẹn toàn. Cái oai thằng
Tèo trong chốc lát còn hơn cả cái tài của ông thầy mà ông Tư đi rước về dạo ấy…
Ngày tháng trôi mau. Hai ngôi mộ
theo thời gian đã xanh cỏ. Thỉnh thoảng ông Tám và ông Năm cũng ra thăm mộ con.
Nhưng thường thì cứ người này ra, người kia lại rút ngay vào nhà. Họ kiêng kỵ
nhau như kẻ thù giết chết con cái mình…
Sự thù oán của hai nhà làm trong
xóm ai cũng áy náy không yên. Dù sao mọi chuyện cũng đã lỡ, đâu ai muốn cớ sự
như thế! Hai nhà từ trước đã thân nhau, chỉ không chịu cảm thông mới sinh ra
nông nổi… Phải chi… Phải chi… Và chữ “phải chi” cứ xuất hiện trên môi mọi người
từ cái ngày bi thảm ấy… Đã không nói “phải chi” thì thôi, một khi đã nói ra rất
nhiều người rơi nước mắt. Nhiều người thường hay nói đến “Bài học ngàn vàng”, với
câu: Phàm muốn làm việc gì phải nghĩ đến hậu quả của nó… Nhưng mấy ai học chữ
“phải chi”! Bài học thì hôm nay không học cũng còn dịp khác, còn chữ “phải chi”
lúc nói ra mọi sự đã sinh rồi… Cũng như, đâu ai có thể làm cho hai người xấu số
sống lại được!... Oán thù của hai nhà không ai chịu tháo bỏ thì biết đâu lại
sinh ra việc khác. Rồi ai biết được lại hối tiếc chữ “phải chi”!...
Bước vào tháng tám, trời mưa không
dứt! Con lạch nhỏ có hai ngôi mộ ngầu đỏ nước triều cường. Gió mưa và nước triều
dâng làm cây cầu của thằng Tèo bị trôi mất khiến ông Tư lo ngại. Cái lo của người
già đôi khi rất vô cớ. Cứ cảm thì sinh lo, như chính chuyện nhà mình… Hai vợ chồng
già bàn nhau tìm cách sửa lại cây cầu cho hai đứa cháu vốn rất được quý mến. Và
họ nghĩ, “phải chi”… ai cũng thương chúng như mình…
Hôm hai ông bà ra chỗ ngôi mộ mới
biết đã có người làm thay cho họ. Không biết từ lúc nào phía bên kia có mấy nhịp
cầu tre được dựng sẵn, nhưng chưa hoàn tất…
Ông bà Tư nhớ ra, mấy hôm nay ông
Năm thường hay chặt tre không biết để làm gì? Có thể cây cầu là do ông già cảm
con mà dựng lên…
Hôm sau, vợ chồng ông Tư ngạc
nhiên khi thấy ông Tám vác tre ra ngôi mộ. Sai mấy đứa nhỏ theo xem mới biết là
để làm cầu…
Người bên đây làm nhịp. Kẻ bên kia
thả đòn. Không ai nói với ai, nhưng lòng rất thư thái bởi việc công ích hiếm thấy…
Ông Tư khi hiểu ra thở dài cảm
thán… “Phải chi”…!?
Cây cầu được hai nhà thù nghịch
làm ra không bao lâu thì từ ngôi mộ mọc ra mấy dây bìm bìm thật tươi tốt. Từ
bên đây và phía kia, chúng bò ra rất nhanh rồi bám vào thân cầu tìm đến với
nhau. Những sợi bìm bìm to bằng ngón tay, cứ quấn quýt lấy nhau như thừng sợi
săn chắc, không sao bứt được. Lá bìm bìm to tròn, đan xen vào nhau cùng rung
rinh trong gió, mặc cho những ngày giông bão…
Mấy đứa nhỏ trong thôn, trong đó
có thằng Tèo, chiều chiều thường ra vui đùa bên cây cầu bắc qua con xẻo vắng. Bọn
chúng vô tư chơi đùa, không phân biệt sang hèn, cùng vui với dây bìm bìm và xem
nó như cây cầu tuột. Bên đây một đứa, bên kia một đứa, cùng thả người trên thân
bìm bìm tuột xuống dòng nước tung tóe. Tiếng cười trong trẻo vang lên hồn nhiên
chất phác. Không đứa nào trong bọn chúng để ý đến chuyện người bên đây con xẻo
hay ở phía bên kia… Chung qui chúng được sinh ra từ những đôi trai gái mặn tình
đầy may mắn…
Có những chiều buông, ông Tư và bà
Tư ra nhìn về phía lũ trẻ, cùng mỉm cười. Trong làn gió chiều vang lên lời nói
bâng quơ:
- Phải chi chúng nó lấy nhau, bây
giờ đã có trẻ nhỏ cho bà bồng…
Bà Tư quay đi, lau nhanh dòng lệ
trên khóe mắt già nua…
Nút thắt đã được lần mở. Cây cầu
giờ đây nối liền hai bờ lạch bất chấp thời gian, bởi đã có mấy dây bìm bìm giữ
chặt. Nếu mai kia thân tre có mục nát thì những dây bìm bìm bản thân đã thành cầu
thay thế cho nó. Nhưng, vẫn còn một điều duy nhất mà hai nhà đều hối tiếc… Có một
thứ mãi mãi họ không bao giờ nối lại được…
Saigon - 09.08.2011
MacDung