Trao đổi:
LẠI NGHĨ VỀ THƠ
*Lê Thiên Minh Khoa
Nhà thơ dù lớn, vừa vừa, hay nhỏ, tự
mình cũng phải xác định thơ là gì khi cầm bút sáng tác ra thơ, (dĩ nhiên là sự
xác định này không ai giống ai). Nói theo dân gian: Trước khi làm phải biết
mình làm cái gì thì mới làm được. Hơn nữa, thơ hiện đại luôn đòi hỏi là nhà thơ
có tri thức, kể cả tri thức lý luận… Xác định “thơ là gì” theo lối thực tiễn
thì có công thức 3T: Tình – Từ – và Tứ.
1. Thơ ca và bia rượu: Tình hình
thơ Việt Nam hiện nay?
Ngày nay, các nhà thơ lớp trước, thế hệ trước năm 1975, nhiều tác giả vẫn sáng tác
nhiều bài thơ hay, rồi nhiều nhà thơ trẻ có tài năng xuất hiện và thơ dễ in nên
được sản xuất nhiều hơn vì chỉ cần có tiền hoặc có tài trợ là có tác phẩm nhưng
hình như công chúng yêu thơ thực sự (là độc giả khó tính nhất trong các thể loại
văn chương vì thơ được xem là một thứ nghệ thuật cao cấp) lại ít đi. Trong số
đông tác phẩm đó, có cả “chính phẩm” lẫn “thứ phẩm”. Công chúng yêu thơ đọc
hoài thơ “thứ phẩm” (mà có người gọi là thơ “second hand”) đến nhàm chán, gặp
thơ “chính phẩm” lại tưởng là thơ “thứ phẩm” nên chê, có người đọc hoài thơ “thứ
phẩm” đâm ra nghiền loại thơ này nên gặp thơ “chính phẩm” lại thấy nhàm chán.
Xin kể chuyện này, chuyện thiệt 100%,
không liên quan đến thơ nhưng liên quan đến cảm nhận thơ: Có lần đi dự đám ở một
vùng quê, chúng tôi đem theo một kết bia Sài Gòn để mừng. Mấy ông bạn cũ, nay
là bạn nhậu thứ thiệt trong làng lại chê là bia dỏm, nhạt, uống “không đã” phải
lấy bia Sài Gòn mua ở đầu xóm đem ra uống. Thì ra, họ quen uống và nghiền bia
Sài Gòn dỏm, nay gặp bia Sài Gòn thứ thiệt lại chê là “thứ phẩm”, không có pha…
cồn nên nồng độ thấp.
Thế thì, hãng bia chính hiệu bị thất
thu và mất uy tín do nhiều hãng bia giả hiệu đã mạo hóa ra bia dỏm, còn hãng
bia giả hiệu thu lợi nhuận cao nhiều khi hơn cả hãng bia chính hiệu, vì không đầu
tư cho cơ sở vật chất nhiều, không đóng thuế và nguyên liệu (giả) lại rẻ. Người
uống bia là thiệt thòi nhiều nhất: tăng “đô” theo chiều hướng xấu, cơ thể hao
mòn vì uống nhiều bia giả gồm nước lã, ga và rượu cồn có nồng độ cao thay vì
men lúa mạch. Do mọi sự so sánh đều khập khễnh, nên câu chuyện “thật-giả” trên
có lẽ chưa nói rõ được điều liên quan đến hai mặt hàng (Bia Rượu và Thơ Ca):
người sản xuất bia “thứ phẩm”, trốn tránh pháp luật vì không có giấy phép sản
xuất, còn người sản xuất ra thơ “thứ phẩm” thì đàng hoàng, công khai vì có giấy
phép xuất bản hẳn hoi; bia rượu và thơ ca đều cần chất lượng cao, nhưng bia được
sản xuất hàng loạt nên mỗi chai từ hình thức (mẫu mã) đến nội dung (hàm lượng)
đều giống nhau là tốt, nhưng thơ ca thì không được thế. Mỗi “chai” đều phải
“không giống ai”, từ hình thức (ngôn ngữ) đến nội dung (tình và tứ) mỗi “chai”lẽ
ra phải có một vẻ, một “hương vị” riêng. Tuy nhiên, chúng có nhiều điểm giống
nhau đến… thú vị: cả hai nhà sản xuất hàng “chính phẩm” (bia và thơ) đều cần
đưa hàng thứ thiệt đến tận tay người tiêu dùng, còn người tiêu dùng “sành điệu”
đều cần đến nhà sản xuất chính hiệu, nhưng họ đều không gặp nhau được, do có
“anh” sản xuất hàng kém chất lượng đứng chắn ngang và trong quan hệ giữa người
sản xuất hàng kém chất lượng với người tiêu thụ thì nhà sản xuất (bia và
thơ) luôn luôn “đầu độc” khách hàng làm
suy yếu “khẩu vị”, khả năng cảm thụ của
họ, mỗi bên theo một kiểu khác nhau.
Trở lên là nói chuyện thơ ca và bia, bây giờ xin nói chuyện thơ ca và rượu. Từ đầu
thập niên 30 của thế kỷ trước - khi phong trào thơ mới bột phát, các nhà phê
bình và các nhà thơ thường sử dụng các từ “bình”- “rượu”- “cũ”- “mới” để chỉ
hình thức thơ - nội dung cảm hứng thơ - truyền thống cổ điển- truyền thống hiện
đại. Đang nói chuyện thơ ngày nay (mới) nên xin phép không nhắc đến từ “cũ” nữa
mà chỉ vận dụng 2 cụm từ “bình mới” - “rượu mới” để chỉ thơ VN ngày nay. “Bình
mới” - “rượu mới” trong thơ VN ngày nay có thể nói rất đa hệ với những trăn trở
tìm tòi thử nghiệm sáng tạo của các nhà thơ đương đại thuộc nhiều lứa tuổi nên
đã hình thành nhiều xu hướng, nhiều trào lưu sáng tác, nhiều dòng thơ… rất đa dạng. Trong số đó thời
sự nhất trong những năm gần đây là chủ nghĩa hậu hiện đại (Postmodernism) và
tân hình thức (New Formalism). Chỉ nói về 2 phương pháp sáng tác nầy: nếu qui
chụp vào “bình mới” - “rượu mới” thì có thể coi: “bình mới” = tân hình thức+
các thủ pháp nghệ thuật mà hậu hiện đại chấp nhận và dung hóa; “rượu mới”= cảm
thức hậu hiện đại.
Chủ nghĩa hậu hiện đại được một số văn nghệ sĩ VN tiếp nhận và thực tế
nó đang trở thành một xu hướng sáng tác (xu hướng chứ chưa phải là trào lưu)
trong thơ ca đương đại VN nhất là trong giới sáng tác trẻ. Có nhiều cây bút đã
vận dụng thành công phương pháp sáng tác nầy và “đứng được” trên thi đàn. Nhưng
cũng không tránh khỏi thực trạng lạm dụng cái mới cái lạ, “học chưa hết chiêu
đã hành nghề”… gây ra một môi trường thơ hổ lốn đầy rượu dỏm bơm vào vỏ rượu
Tây. Cho nên, có những bài thơ tắc tị
nhưng ngụy trang bằng một cảm thức cao siêu kiểu như là một số người viết chữ xấu
đọc không được lại thành nghệ thuật thư pháp tiếng Việt vậy. Phổ biến nhất là
loại thơ dung tục, thông tục hóa tầm thường - cả nội dung lẫn hình thức mà có lẽ
tác giả của nó chưa học hết chiêu “tục và thanh” trong thơ truyền thống…
2. Phân biệt thơ và cái không phải
thơ: Xác định thế nào là thơ?
Lại đụng phải một vấn đề lớn, khó khăn của lý luận văn học đây. Xưa nay,
các bậc học giả đã thường tìm cách định nghĩa, nhưng có thể nói, đây là “một
câu hỏi lớn không lời đáp” vậy. Hình như con số định nghĩa về thơ phải có đến
hàng ngàn, có điều không có cái nào giống cái nào, điều đó chứng tỏ cái cụ thể
đó (thể loại thơ) lại rất trừu tượng và khó nắm bắt. Chẳng hạn theo
Voltaire: “Thơ là hùng biện du dương”, theo A.De Musset: “Thơ là tiếng nói nhẹ
nhàng của tâm tình”. Ở VN ta cũng có hàng chục định nghĩa về thơ. Chẳng hạn,
theo Tố Hữu: “Thơ là tiếng nói đồng tình, đồng ý, tiếng nói đồng chí”, còn Chế
Lan Viên: “Thơ là gì? Là thơ lơ mơ …” Hai định nghĩa về thơ của hai danh nhân
nước ngoài khác nhau hoàn toàn, thậm chí đối nghịch nhau và xác định đối tượng
phản ánh của thơ cũng không giống nhau: là du dương của hùng biện, là nhẹ nhàng
của tâm tình. Còn hai định nghĩa của hai nhà thơ VN cũng vậy: là tiếng nói đồng
cảm, đồng điệu (Tố Hữu), là tâm hồn bảng lảng, bay bổng, mơ màng… (Chế Lan
Viên)
Nhà thơ dù lớn, vừa vừa, hay nhỏ, tự mình cũng phải xác định thơ là gì
khi cầm bút sáng tác ra thơ, (dĩ nhiên là sự xác định này không ai giống ai).
Nói theo dân gian: Trước khi làm phải biết
mình làm cái gì thì mới làm được. Hơn nữa, thơ hiện đại luôn đòi hỏi là nhà thơ
có tri thức, kể cả tri thức lý luận… Xác định “thơ là gì” theo lối thực tiễn
thì có công thức 3T: Tình – Từ – và Tứ.
Thơ trước hết phải có “Tình”, tức là nhà
thơ phải có tình cảm mãnh liệt, chân thật và sâu sắc đối với đối tượng trữ
tình; phải có rung động (cảm xúc) đột xuất, cao trào và bức xúc để tự “bức
bách” mình phải “động thủ” thành thơ; đồng thời tình cảm và rung động này phải
đủ để làm nảy sinh, hòa nhập “quấn quít” với một trí tưởng tượng phong phú, bay
bổng.
Thứ hai là “Từ”, tức là ngôn ngữ thơ. Thơ
là nghệ thuật bậc cao của ngôn ngữ, mà là ngôn ngữ hình tượng. Ngôn ngữ thơ phải
mới, phải sáng tạo không lặp lại người khác, không lặp lại mình, không ước lệ
sáo mòn, nói theo ngôn ngữ hiện đại là không “lập trình sẵn”. Ngôn ngữ đó phải
càng “lệch chuẩn” càng hay. Vì càng “lệch chuẩn” càng tránh được sự sáo mòn, lặp
lại, lập trình sẵn ngôn ngữ, điều kiêng kị nhất trong thơ. “Lệch chuẩn” nghĩa
là vừa giống mọi người (chuẩn), vừa khác mọi người (lệch). Vì cái “giống” tức
là theo chuẩn mực chung về sử dụng ngôn ngữ để mọi người hiểu được. “Khác” tức
là phải có cái mới, cái lạ mới thành thơ để mọi người thích, thấy thú vị. Chẳng
hạn như Nguyễn Du viết: “Trăm năm trong cõi người ta” thì cái “giống” (chuẩn)
là: cõi trời, cõi trên, cõi Phật, cõi trần gian … theo kết cấu cụm từ tiếng Việt,
chứ chưa ai nói “cõi người ta” như Nguyễn Du cả.
Khi Tố Hữu viết: “Từ ấy trong tôi bừng
nắng hạ (Từ ấy), thì cái “giống” (chuẩn) là: “từ đó, từ ngày ấy” chứ chưa ai
nói: “từ ấy”cả. Gần đây, Hoàng Nhuận Cầm viết: “Hạ chưa về nhưng nắng đã Côn
Sơn” (Sông Thương tóc dài) thì thiệt là
“quá đã”. Nếu viết theo “chuẩn” thì : sau phó từ (đã) và trước danh từ chỉ địa
danh (Côn Sơn) lẽ ra phải là một động từ chỉ sự di chuyển: Không thể nói “đã
Sài Gòn, đã Biên Hòa”, mà phải nói: “đã đi Sài Gòn, đã về Biên Hoà”. Nhưng ở
đây Hoàng Nhuận Cầm lại nói được, mà người đọc thơ không những hiểu, chấp nhận
mà còn thích thú nữa: “đã Côn Sơn”, thế thì có “đã đời” không? Cái “giống” (chuẩn)
là Hoàng Nhuận Cầm vận dụng quy luật tiết kiệm của ngôn ngữ dựa trên điệp kết cấu
các vế trong câu và nghĩa “hàm ngôn” của từ “nhưng”(để tạo ra cái “lệch”): “Hạ
chưa về (1) nhưng nắng đã Côn Sơn”(2). Hai vế câu đều có thành phần chủ ngữ là
biểu tượng thiên nhiên (Hạ và nắng), thành phần vị ngữ đều có hai phó từ chỉ thời
gian đối lập nhau (chưa, đã), với quan hệ từ “nhưng” biểu thị quan hệ hai vế tương
phản nhau về ý, vậy thì vế (1) là “chưa về” thì vế 2 theo logic câu phải là “đã
về, đã tới Côn Sơn”, câu thơ do vậy đọc mới “sướng”!
Hoàng Quý viết: “Chớ cười hoang vu như thế nữa” (Thôi em về
đi). Hoang vu là nói về nét hoang liêu, vắng vẻ của một vùng đất, ở đây nhà thơ
dùng để chỉ nụ cười của cô gái: cười hoang vu là nụ cười trong trắng, vô
tư, ngây thơ, hồn nhiên và… dại khờ. Thi sĩ đã
lắp ghép những từ cũ kỹ để tạo
thành từ ngữ mới mẻ, lạ lẫm, táo bạo,
tươi rói, đắt địa, biến ảo, có “hồn chữ cựa quậy”, có sức biểu nghĩa phong phú
và sức biểu cảm lắng sâu làm người đọc vừa
sửng sốt, vừa khoái cảm…
Nếu như họ dụng từ theo kiểu “Trăm năm trong số người ta”, “Từ đó, trong
tôi bừng nắng hạ”, “Hạ chưa về nhưng nắng tới Côn Sơn”, “ Chớ cười ngây ngô như
thế nữa” thì chưa chắc ngày nay chúng ta có thi hào Nguyễn Du, nhà văn hóa lớn
của thế giới, Tố Hữu là thơ lớn, lá cờ đầu của thơ ca Cách mạng suốt ba thập
niên rưỡi (1930 -1975) và Hoàng Nhuận Cầm, Hoàng Quý, hai trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca VN
đương đại.
Thời gian gần đây, giới thơ ca đang xôn
xao về bài thơ dài “Trăng ca” của tác giả trẻ Võ Thị Phương Thúy đăng trên nhiều
diễn đàn văn chương. Thành công của bài thơ do nhiều yếu tố hợp lại: điêu luyện
- cách tân - tứ thơ mới - cảm xúc, cái nhìn lạ lẫm về trăng… Nhưng có một yếu tố
quan trọng đã biến câu lục bát thành thơ lục bát mà tác giả vận dụng rất có tay
nghề là: ngôn ngữ thơ “lệch chuẩn” một cách rất có ý thức:
“Em còn trăng lót vạt nằm
Tôi còn em ngậm đóa rằm chưa bưa” (Trăng
ca)
Thứ ba là Tứ. Tứ thơ là một khái niệm
có vẻ rất khái quát và trừu tượng nên rất khó diễn giải. Theo tôi, “tứ” được hiểu
như là một phương thức nào đó để tổ chức liên kết các ý trong bài thơ và hệ thống
các ý đó với “tình” của nhà thơ và biểu hiện chúng bằng yếu tố ngôn ngữ (từ). Cả
ba yếu tố đó tổng hòa trong một thể thống nhất gọi là bài thơ – tác phẩm. Như
thế, chất trí tuệ, năng lực hư cấu văn học và trí tưởng tượng của nhà thơ được
vận dụng hết công suất để xây dựng tứ thơ mà giới chuyên ngành gọi là “cấu tứ”.
Chính tứ thơ làm cho văn bản trở thành bài thơ, là yếu tố không thể thiếu của một
bài thơ, nhất là thơ hiện đại. Thơ tứ tuyệt đường luật chỉ ngắn bốn câu, nhiều
bài ta thuộc lòng mà vẫn thích đọc lại, thích ngâm vì tứ thơ quá hay, quá bất
ngờ. Thơ Hai-ku của Nhựt Bổn, chỉ có ba câu, ta chỉ đọc qua bản dịch mà vẫn cảm
được vì tứ thơ quá lạ, quá “siêu”.
Bài thơ hai câu của Phan Thị Thanh Nhàn: “Người tôi yêu ở rất xa – Người
yêu tôi ở gần nhà, chán không?” được rất nhiều người Việt Nam yêu thích vì tứ
thơ quá thiệt, quá quen mà quá lạ. Ngày nay, nhiều bài thơ văn xuôi dài ngoằng,
gần như không vần, không luật, rất khó nhớ mà có người vẫn thuộc lòng vì tứ thơ
quá độc đáo. Dù có vần, có điệu mà không có tứ thơ thì không thành bài thơ mà
chỉ là vè, văn vần, là “chơi thơ”, là khẩu hiệu tuyên truyền cổ động… mà thôi.
Còn cấu tứ của một bài thơ Đường
luật thì nằm ngay trong kết cấu (bố cục) của bài thơ. Người làm thơ luật Đường
nếu tuân thủ nghiêm nhặt theo những qui định mẫu mực của chủ nghĩa cổ điển
trong bố cục chặt chẽ (bát cú: đề_ thực_ luận_ kết; tứ tuyệt: khai_ thừa_ chuyển_
hơp) của thể thơ đang sử dụng thì tứ thơ hình thành. Dĩ nhiên giá trị của bài
thơ còn tùy thuộc vào những yếu tổ còn lại:
tình, từ, ý thơ.
Không quan niệm thế, không chú trọng yếu tố “tứ” trong thơ, một quan niệm
khá phổ biến hiện nay, mà tiêu biểu là trong một số sách giáo khoa, giáo trình…
là thay thế yếu tố “tứ” bằng yếu tố “tính nhạc” của thơ. Ai làm thơ cũng biết
câu: “Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc”, vậy thì tính nhạc nằm đâu trong
3 T? Xin thưa: Nó nằm trong “từ” (ngôn ngữ thơ). Ngôn ngữ thơ có hai mặt: ngữ
nghĩa (có thể coi như thuộc về phạm trù tinh thần) như đã nói qua ở trên và
tính nhạc (có thể coi như như phạm trù vật chất)
Tính nhạc trong thơ bao gồm 4 yếu tố: âm, thanh, vần, nhịp của thơ,
trong đó, theo tôi, thanh (nhóm thanh bằng, nhóm thanh trắc, nhóm thanh cao,
nhóm thanh thấp) và nhất là nhịp (tiết tấu) là hai yếu tố quan trọng nhất, thiếu
nó văn bản không thể thành thơ, Chính chúng đã góp phần làm cho thơ văn xuôi hội
đủ điều kiện thành thơ, vì bài thơ có thể không vần, không cần có sự hài âm, nhưng
không thể thiếu yếu tố hài thanh và tiết tấu. Ngoài ra, còn phải kể thêm nhạc
điệu nội tại của bài thơ toát ra từ tình và tứ của bài thơ. Cũng có người ngược
lại, coi nhẹ yếu tố nhạc tính trong thơ, vì xem đó chỉ là yếu tố hình thức, mà
quên rằng: Hình thức trong thơ nói riêng và trong văn học nghệ thuật nói chung
là hình thức đã được “nội dung hóa”, nói thẳng ra: hình thức thơ, trong đó có
tính nhạc, cũng chính là nội dung thơ…
3. Làm sao tránh được tình trạng… lạm
phát thơ như hiện nay?
“Cái không phải thơ” nhưng lại “giống
thơ” đã gây bao ngộ nhận. Công chúng ngộ nhận là thơ, còn người làm thơ ngộ nhận
về tài làm thơ của mình. “Cái giống thơ” lại dễ làm. Khi học cấp THCS đã được học
các thể thơ rồi, bây giờ lập trình, ráp chữ, đúng luật bằng trắc thì thành “cái
giống thơ” thôi. Nên có rất nhiều người làm thơ, in ra hàng loạt để… tặng và để…
“thành” nhà thơ. Do đó, người làm thơ phải tự kiểm định thơ mình trước khi đưa
thơ ra mắt công chúng, nhưng mà khó lắm, vì “văn mình, vợ người” mà. Xin mượn
câu nói của nhà thơ Inrasara để tạm kết luận: “Nhà thơ cần biết sợ thơ… để người
đọc còn cần đến thơ” (*)
LÊ THIÊN MINH KHOA (Bà Rịa-Vũng Tàu)
(*) Văn nghệ BRVT số 76 (trong bài:
“Nhà thơ cần biết sợ thơ… để người đọc còn cần đến thơ”- Inrasara).
Đc: Lê Thiên Minh Khoa
117, CMT8, P. Long Hương. TP Bà
Ria. , tỉnh BR-VT
Tel: 0908.274.494
Email: lethienminhkhoavn@yahoo.com