Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Tuesday, December 26, 2017

Trao đổi: LẠI NGHĨ VỀ THƠ *Lê Thiên Minh Khoa


 Trao đổi:      
 LẠI NGHĨ VỀ THƠ    

*Lê Thiên Minh Khoa

          Nhà thơ dù lớn, vừa vừa, hay nhỏ, tự mình cũng phải xác định thơ là gì khi cầm bút sáng tác ra thơ, (dĩ nhiên là sự xác định này không ai giống ai). Nói theo dân gian: Trước khi làm phải biết mình làm cái gì thì mới làm được. Hơn nữa, thơ hiện đại luôn đòi hỏi là nhà thơ có tri thức, kể cả tri thức lý luận… Xác định “thơ là gì” theo lối thực tiễn thì có công thức 3T: Tình – Từ – và Tứ.

1. Thơ ca và bia rượu: Tình hình thơ Việt Nam hiện nay?
      Ngày nay, các nhà thơ lớp trước, thế hệ  trước năm 1975, nhiều tác giả vẫn sáng tác nhiều bài thơ hay, rồi nhiều nhà thơ trẻ có tài năng xuất hiện và thơ dễ in nên được sản xuất nhiều hơn vì chỉ cần có tiền hoặc có tài trợ là có tác phẩm nhưng hình như công chúng yêu thơ thực sự (là độc giả khó tính nhất trong các thể loại văn chương vì thơ được xem là một thứ nghệ thuật cao cấp) lại ít đi. Trong số đông tác phẩm đó, có cả “chính phẩm” lẫn “thứ phẩm”. Công chúng yêu thơ đọc hoài thơ “thứ phẩm” (mà có người gọi là thơ “second hand”) đến nhàm chán, gặp thơ “chính phẩm” lại tưởng là thơ “thứ phẩm” nên chê, có người đọc hoài thơ “thứ phẩm” đâm ra nghiền loại thơ này nên gặp thơ “chính phẩm” lại thấy nhàm chán.
        Xin kể chuyện này, chuyện thiệt 100%, không liên quan đến thơ nhưng liên quan đến cảm nhận thơ: Có lần đi dự đám ở một vùng quê, chúng tôi đem theo một kết bia Sài Gòn để mừng. Mấy ông bạn cũ, nay là bạn nhậu thứ thiệt trong làng lại chê là bia dỏm, nhạt, uống “không đã” phải lấy bia Sài Gòn mua ở đầu xóm đem ra uống. Thì ra, họ quen uống và nghiền bia Sài Gòn dỏm, nay gặp bia Sài Gòn thứ thiệt lại chê là “thứ phẩm”, không có pha… cồn nên nồng độ thấp.
        Thế thì, hãng bia chính hiệu bị thất thu và mất uy tín do nhiều hãng bia giả hiệu đã mạo hóa ra bia dỏm, còn hãng bia giả hiệu thu lợi nhuận cao nhiều khi hơn cả hãng bia chính hiệu, vì không đầu tư cho cơ sở vật chất nhiều, không đóng thuế và nguyên liệu (giả) lại rẻ. Người uống bia là thiệt thòi nhiều nhất: tăng “đô” theo chiều hướng xấu, cơ thể hao mòn vì uống nhiều bia giả gồm nước lã, ga và rượu cồn có nồng độ cao thay vì men lúa mạch. Do mọi sự so sánh đều khập khễnh, nên câu chuyện “thật-giả” trên có lẽ chưa nói rõ được điều liên quan đến hai mặt hàng (Bia Rượu và Thơ Ca): người sản xuất bia “thứ phẩm”, trốn tránh pháp luật vì không có giấy phép sản xuất, còn người sản xuất ra thơ “thứ phẩm” thì đàng hoàng, công khai vì có giấy phép xuất bản hẳn hoi; bia rượu và thơ ca đều cần chất lượng cao, nhưng bia được sản xuất hàng loạt nên mỗi chai từ hình thức (mẫu mã) đến nội dung (hàm lượng) đều giống nhau là tốt, nhưng thơ ca thì không được thế. Mỗi “chai” đều phải “không giống ai”, từ hình thức (ngôn ngữ) đến nội dung (tình và tứ) mỗi “chai”lẽ ra phải có một vẻ, một “hương vị” riêng. Tuy nhiên, chúng có nhiều điểm giống nhau đến… thú vị: cả hai nhà sản xuất hàng “chính phẩm” (bia và thơ) đều cần đưa hàng thứ thiệt đến tận tay người tiêu dùng, còn người tiêu dùng “sành điệu” đều cần đến nhà sản xuất chính hiệu, nhưng họ đều không gặp nhau được, do có “anh” sản xuất hàng kém chất lượng đứng chắn ngang và trong quan hệ giữa người sản xuất hàng kém chất lượng với người tiêu thụ thì nhà sản xuất (bia và thơ)  luôn luôn “đầu độc” khách hàng làm suy yếu “khẩu vị”, khả năng  cảm thụ của họ, mỗi bên theo một kiểu khác nhau.
      Trở lên là nói chuyện thơ ca và bia,  bây giờ xin nói chuyện thơ ca và rượu. Từ đầu thập niên 30 của thế kỷ trước - khi phong trào thơ mới bột phát, các nhà phê bình và các nhà thơ thường sử dụng các từ “bình”- “rượu”- “cũ”- “mới” để chỉ hình thức thơ - nội dung cảm hứng thơ - truyền thống cổ điển- truyền thống hiện đại. Đang nói chuyện thơ ngày nay (mới) nên xin phép không nhắc đến từ “cũ” nữa mà chỉ vận dụng 2 cụm từ “bình mới” - “rượu mới” để chỉ thơ VN ngày nay. “Bình mới” - “rượu mới” trong thơ VN ngày nay có thể nói rất đa hệ với những trăn trở tìm tòi thử nghiệm sáng tạo của các nhà thơ đương đại thuộc nhiều lứa tuổi nên đã hình thành nhiều xu hướng, nhiều trào lưu sáng tác,  nhiều dòng thơ… rất đa dạng. Trong số đó thời sự nhất trong những năm gần đây là chủ nghĩa hậu hiện đại (Postmodernism) và tân hình thức (New Formalism). Chỉ nói về 2 phương pháp sáng tác nầy: nếu qui chụp vào “bình mới” - “rượu mới” thì có thể coi: “bình mới” = tân hình thức+ các thủ pháp nghệ thuật mà hậu hiện đại chấp nhận và dung hóa; “rượu mới”= cảm thức hậu hiện đại.
     Chủ nghĩa hậu hiện đại được một số văn nghệ sĩ VN tiếp nhận và thực tế nó đang trở thành một xu hướng sáng tác (xu hướng chứ chưa phải là trào lưu) trong thơ ca đương đại VN nhất là trong giới sáng tác trẻ. Có nhiều cây bút đã vận dụng thành công phương pháp sáng tác nầy và “đứng được” trên thi đàn. Nhưng cũng không tránh khỏi thực trạng lạm dụng cái mới cái lạ, “học chưa hết chiêu đã hành nghề”… gây ra một môi trường thơ hổ lốn đầy rượu dỏm bơm vào vỏ rượu Tây. Cho nên, có những bài thơ tắc tị nhưng ngụy trang bằng một cảm thức cao siêu kiểu như là một số người viết chữ xấu đọc không được lại thành nghệ thuật thư pháp tiếng Việt vậy. Phổ biến nhất là loại thơ dung tục, thông tục hóa tầm thường - cả nội dung lẫn hình thức mà có lẽ tác giả của nó chưa học hết chiêu “tục và thanh” trong thơ truyền thống…

2. Phân biệt thơ và cái không phải thơ: Xác định thế nào là thơ?
     Lại đụng phải một vấn đề lớn, khó khăn của lý luận văn học đây. Xưa nay, các bậc học giả đã thường tìm cách định nghĩa, nhưng có thể nói, đây là “một câu hỏi lớn không lời đáp” vậy. Hình như con số định nghĩa về thơ phải có đến hàng ngàn, có điều không có cái nào giống cái nào, điều đó chứng tỏ cái cụ thể đó (thể loại thơ) lại rất trừu tượng và khó nắm bắt. Chẳng hạn theo Voltaire: “Thơ là hùng biện du dương”, theo A.De Musset: “Thơ là tiếng nói nhẹ nhàng của tâm tình”. Ở VN ta cũng có hàng chục định nghĩa về thơ. Chẳng hạn, theo Tố Hữu: “Thơ là tiếng nói đồng tình, đồng ý, tiếng nói đồng chí”, còn Chế Lan Viên: “Thơ là gì? Là thơ lơ mơ …” Hai định nghĩa về thơ của hai danh nhân nước ngoài khác nhau hoàn toàn, thậm chí đối nghịch nhau và xác định đối tượng phản ánh của thơ cũng không giống nhau: là du dương của hùng biện, là nhẹ nhàng của tâm tình. Còn hai định nghĩa của hai nhà thơ VN cũng vậy: là tiếng nói đồng cảm, đồng điệu (Tố Hữu), là tâm hồn bảng lảng, bay bổng, mơ màng… (Chế Lan Viên)
     Nhà thơ dù lớn, vừa vừa, hay nhỏ, tự mình cũng phải xác định thơ là gì khi cầm bút sáng tác ra thơ, (dĩ nhiên là sự xác định này không ai giống ai).
      Nói theo dân gian: Trước khi làm phải biết mình làm cái gì thì mới làm được. Hơn nữa, thơ hiện đại luôn đòi hỏi là nhà thơ có tri thức, kể cả tri thức lý luận… Xác định “thơ là gì” theo lối thực tiễn thì có công thức 3T: Tình – Từ – và Tứ.
      Thơ trước hết phải có “Tình”, tức là nhà thơ phải có tình cảm mãnh liệt, chân thật và sâu sắc đối với đối tượng trữ tình; phải có rung động (cảm xúc) đột xuất, cao trào và bức xúc để tự “bức bách” mình phải “động thủ” thành thơ; đồng thời tình cảm và rung động này phải đủ để làm nảy sinh, hòa nhập “quấn quít” với một trí tưởng tượng phong phú, bay bổng.
      Thứ hai là “Từ”, tức là ngôn ngữ thơ. Thơ là nghệ thuật bậc cao của ngôn ngữ, mà là ngôn ngữ hình tượng. Ngôn ngữ thơ phải mới, phải sáng tạo không lặp lại người khác, không lặp lại mình, không ước lệ sáo mòn, nói theo ngôn ngữ hiện đại là không “lập trình sẵn”. Ngôn ngữ đó phải càng “lệch chuẩn” càng hay. Vì càng “lệch chuẩn” càng tránh được sự sáo mòn, lặp lại, lập trình sẵn ngôn ngữ, điều kiêng kị nhất trong thơ. “Lệch chuẩn” nghĩa là vừa giống mọi người (chuẩn), vừa khác mọi người (lệch). Vì cái “giống” tức là theo chuẩn mực chung về sử dụng ngôn ngữ để mọi người hiểu được. “Khác” tức là phải có cái mới, cái lạ mới thành thơ để mọi người thích, thấy thú vị. Chẳng hạn như Nguyễn Du viết: “Trăm năm trong cõi người ta” thì cái “giống” (chuẩn) là: cõi trời, cõi trên, cõi Phật, cõi trần gian … theo kết cấu cụm từ tiếng Việt, chứ chưa ai nói “cõi người ta” như Nguyễn Du cả.
         Khi Tố Hữu viết: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ (Từ ấy), thì cái “giống” (chuẩn) là: “từ đó, từ ngày ấy” chứ chưa ai nói: “từ ấy”cả. Gần đây, Hoàng Nhuận Cầm viết: “Hạ chưa về nhưng nắng đã Côn Sơn” (Sông Thương tóc dài)  thì thiệt là “quá đã”. Nếu viết theo “chuẩn” thì : sau phó từ (đã) và trước danh từ chỉ địa danh (Côn Sơn) lẽ ra phải là một động từ chỉ sự di chuyển: Không thể nói “đã Sài Gòn, đã Biên Hòa”, mà phải nói: “đã đi Sài Gòn, đã về Biên Hoà”. Nhưng ở đây Hoàng Nhuận Cầm lại nói được, mà người đọc thơ không những hiểu, chấp nhận mà còn thích thú nữa: “đã Côn Sơn”, thế thì có “đã đời” không? Cái “giống” (chuẩn) là Hoàng Nhuận Cầm vận dụng quy luật tiết kiệm của ngôn ngữ dựa trên điệp kết cấu các vế trong câu và nghĩa “hàm ngôn” của từ “nhưng”(để tạo ra cái “lệch”): “Hạ chưa về (1) nhưng nắng đã Côn Sơn”(2). Hai vế câu đều có thành phần chủ ngữ là biểu tượng thiên nhiên (Hạ và nắng), thành phần vị ngữ đều có hai phó từ chỉ thời gian đối lập nhau (chưa, đã), với quan hệ từ “nhưng” biểu thị quan hệ hai vế tương phản nhau về ý, vậy thì vế (1) là “chưa về” thì vế 2 theo logic câu phải là “đã về, đã tới Côn Sơn”, câu thơ do vậy đọc mới “sướng”!
       Hoàng Quý viết:  “Chớ cười hoang vu như thế nữa” (Thôi em về đi). Hoang vu là nói về nét hoang liêu, vắng vẻ của một vùng đất,  ở đây nhà thơ  dùng để chỉ nụ cười của cô gái: cười hoang vu là nụ cười trong trắng, vô tư, ngây thơ, hồn nhiên và… dại khờ. Thi sĩ đã  lắp ghép những từ  cũ kỹ để tạo thành từ ngữ mới mẻ, lạ  lẫm, táo bạo, tươi rói, đắt địa, biến ảo, có “hồn chữ cựa quậy”, có sức biểu nghĩa phong phú và sức biểu cảm lắng sâu làm  người đọc vừa sửng sốt, vừa  khoái cảm…
       Nếu như họ dụng từ theo kiểu  “Trăm năm trong số người ta”, “Từ đó, trong tôi bừng nắng hạ”, “Hạ chưa về nhưng nắng tới Côn Sơn”, “ Chớ cười ngây ngô như thế nữa” thì chưa chắc ngày nay chúng ta có thi hào Nguyễn Du, nhà văn hóa lớn của thế giới, Tố Hữu là thơ lớn, lá cờ đầu của thơ ca Cách mạng suốt ba thập niên rưỡi  (1930 -1975) và Hoàng Nhuận Cầm,  Hoàng Quý, hai  trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca VN đương đại.
        Thời gian gần đây, giới thơ ca đang xôn xao về bài thơ dài “Trăng ca” của tác giả trẻ Võ Thị Phương Thúy đăng trên nhiều diễn đàn văn chương. Thành công của bài thơ do nhiều yếu tố hợp lại: điêu luyện - cách tân - tứ thơ mới - cảm xúc, cái nhìn lạ lẫm về trăng… Nhưng có một yếu tố quan trọng đã biến câu lục bát thành thơ lục bát mà tác giả vận dụng rất có tay nghề là: ngôn ngữ thơ “lệch chuẩn” một cách rất có ý thức:
        “Em còn trăng lót vạt nằm
       Tôi còn em ngậm đóa rằm chưa bưa” (Trăng ca)
        Thứ ba là Tứ. Tứ thơ là một khái niệm có vẻ rất khái quát và trừu tượng nên rất khó diễn giải. Theo tôi, “tứ” được hiểu như là một phương thức nào đó để tổ chức liên kết các ý trong bài thơ và hệ thống các ý đó với “tình” của nhà thơ và biểu hiện chúng bằng yếu tố ngôn ngữ (từ). Cả ba yếu tố đó tổng hòa trong một thể thống nhất gọi là bài thơ – tác phẩm. Như thế, chất trí tuệ, năng lực hư cấu văn học và trí tưởng tượng của nhà thơ được vận dụng hết công suất để xây dựng tứ thơ mà giới chuyên ngành gọi là “cấu tứ”. Chính tứ thơ làm cho văn bản trở thành bài thơ, là yếu tố không thể thiếu của một bài thơ, nhất là thơ hiện đại. Thơ tứ tuyệt đường luật chỉ ngắn bốn câu, nhiều bài ta thuộc lòng mà vẫn thích đọc lại, thích ngâm vì tứ thơ quá hay, quá bất ngờ. Thơ Hai-ku của Nhựt Bổn, chỉ có ba câu, ta chỉ đọc qua bản dịch mà vẫn cảm được vì tứ thơ quá lạ, quá “siêu”.
    Bài thơ hai câu của Phan Thị Thanh Nhàn: “Người tôi yêu ở rất xa – Người yêu tôi ở gần nhà, chán không?” được rất nhiều người Việt Nam yêu thích vì tứ thơ quá thiệt, quá quen mà quá lạ. Ngày nay, nhiều bài thơ văn xuôi dài ngoằng, gần như không vần, không luật, rất khó nhớ mà có người vẫn thuộc lòng vì tứ thơ quá độc đáo. Dù có vần, có điệu mà không có tứ thơ thì không thành bài thơ mà chỉ là vè, văn vần, là “chơi thơ”, là khẩu hiệu tuyên truyền cổ động… mà thôi.

    Còn cấu tứ  của một bài thơ Đường luật thì nằm ngay trong kết cấu (bố cục) của bài thơ. Người làm thơ luật Đường nếu tuân thủ nghiêm nhặt theo những qui định mẫu mực của chủ nghĩa cổ điển trong bố cục chặt chẽ (bát cú: đề_ thực_ luận_ kết; tứ tuyệt: khai_ thừa_ chuyển_ hơp) của thể thơ đang sử dụng thì tứ thơ hình thành. Dĩ nhiên giá trị của bài thơ còn tùy thuộc vào những yếu  tổ còn lại: tình, từ, ý thơ.
     Không quan niệm thế, không chú trọng yếu tố “tứ” trong thơ, một quan niệm khá phổ biến hiện nay, mà tiêu biểu là trong một số sách giáo khoa, giáo trình… là thay thế yếu tố “tứ” bằng yếu tố “tính nhạc” của thơ. Ai làm thơ cũng biết câu: “Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc”, vậy thì tính nhạc nằm đâu trong 3 T? Xin thưa: Nó nằm trong “từ” (ngôn ngữ thơ). Ngôn ngữ thơ có hai mặt: ngữ nghĩa (có thể coi như thuộc về phạm trù tinh thần) như đã nói qua ở trên và tính nhạc (có thể coi như như phạm trù vật chất)
     Tính nhạc trong thơ bao gồm 4 yếu tố: âm, thanh, vần, nhịp của thơ, trong đó, theo tôi, thanh (nhóm thanh bằng, nhóm thanh trắc, nhóm thanh cao, nhóm thanh thấp) và nhất là nhịp (tiết tấu) là hai yếu tố quan trọng nhất, thiếu nó văn bản không thể thành thơ, Chính chúng đã góp phần làm cho thơ văn xuôi hội đủ điều kiện thành thơ, vì bài thơ có thể không vần, không cần có sự hài âm, nhưng không thể thiếu yếu tố hài thanh và tiết tấu. Ngoài ra, còn phải kể thêm nhạc điệu nội tại của bài thơ toát ra từ tình và tứ của bài thơ. Cũng có người ngược lại, coi nhẹ yếu tố nhạc tính trong thơ, vì xem đó chỉ là yếu tố hình thức, mà quên rằng: Hình thức trong thơ nói riêng và trong văn học nghệ thuật nói chung là hình thức đã được “nội dung hóa”, nói thẳng ra: hình thức thơ, trong đó có tính nhạc, cũng chính là nội dung thơ…

3. Làm sao tránh được tình trạng… lạm phát thơ như hiện nay?
       “Cái không phải thơ” nhưng lại “giống thơ” đã gây bao ngộ nhận. Công chúng ngộ nhận là thơ, còn người làm thơ ngộ nhận về tài làm thơ của mình. “Cái giống thơ” lại dễ làm. Khi học cấp THCS đã được học các thể thơ rồi, bây giờ lập trình, ráp chữ, đúng luật bằng trắc thì thành “cái giống thơ” thôi. Nên có rất nhiều người làm thơ, in ra hàng loạt để… tặng và để… “thành” nhà thơ. Do đó, người làm thơ phải tự kiểm định thơ mình trước khi đưa thơ ra mắt công chúng, nhưng mà khó lắm, vì “văn mình, vợ người” mà. Xin mượn câu nói của nhà thơ Inrasara để tạm kết luận: “Nhà thơ cần biết sợ thơ… để người đọc còn cần đến thơ” (*)


  LÊ THIÊN MINH KHOA (Bà Rịa-Vũng Tàu)

(*) Văn nghệ BRVT số 76 (trong bài: “Nhà thơ cần biết sợ thơ… để người đọc còn cần đến thơ”- Inrasara).

Đc: Lê Thiên Minh Khoa
117, CMT8, P. Long Hương. TP Bà Ria. , tỉnh BR-VT
Tel: 0908.274.494

Email: lethienminhkhoavn@yahoo.com
READ MORE - Trao đổi: LẠI NGHĨ VỀ THƠ *Lê Thiên Minh Khoa

Nguyên Lạc - BÌNH THƠ NGUYỄN ĐỨC TÙNG: THƠ TÌNH: NHỮNG CON RỆP



Nguyên Lạc
     BÌNH THƠ NGUYỄN ĐỨC TÙNG
          THƠ TÌNH: NHỮNG CON RỆP

BÀI THƠ TÌNH THỨ BẢY NĐT

NHỮNG CON RỆP
Ngày thứ hai của tuần trăng mật
Chúng ta ngủ trong một khách sạn rẻ tiền
Những con rệp cắn anh suốt đêm

Bây giờ đây anh nhớ chúng khôn xiết  
Khi mỗi lần đi ngang mộ em
(Nguyễn Đức Tùng)

Bài thơ "ấn tượng" này đã được một "dàn đồng ca" gắn "vương niệm"  (Ghi chú dưới.)

BÌNH BÀI THƠ NHỮNG CON RỆP
I. PHẢI LÀ THƠ KHÔNG?
Trước hết phải xét xem bài này có phải là "thơ" không?
Với thơ thì cảm xúc là cốt yếu; nếu thiếu cảm xúc thì thơ sẽ không còn là thơ nữa, mà thành thể loại khác.
Có hai đặc tính để nhận ra một “Bài thơ” không phải là "thơ":
-- Nó hoàn toàn là sản phẩm của lý trí.
-- Tác giả đã bước vào khung cảnh của “Bài Thơ” nhưng chưa có những câu Sinh Tình.
Đối với tôi, bài thơ "Những con rệp" chỉ gồm 4 câu (NĐT có ý so sánh với Tứ tuyệt truyền thống): - Hai câu cuối thật ra chỉ là một rồi ngắt dòng ra:  "Bây giờ đây anh nhớ chúng khôn xiết khi mỗi lần đi ngang mộ em".
Ba câu đầu không tạo một cảm xúc nào cả. May mắn thay , chinh nhờ câu cuối mà "bài thơ" mới là THƠ, nếu không, nó là thể loại khác. Chính câu cuối này mới mang cảm xúc cho bài (đi ngang mộ em buồn nhớ).
Sẳn nói luôn: Cái tình này quá hời hợt, không đậm đà. Vì sao?_  Chỉ đi ngang qua, không ghé vào cắm hoa tưởng niệm: Thật vô tình và hời hợt quá, đâu có chí tình với người chết đâu?
Tóm lại, đây là bài THƠ, hay dở bàn sau.
II. Ý CỦA BÀI THƠ
Mỗi lần đi ngang qua ngôi mộ của người vợ, chàng nhớ lại (hồi ức) kỷ niệm, tâm tư đêm "trăng mật" trong khách sạn rẻ tiền đầy rệp, ngày thứ hai của tuần trăng mật. (Ngày thứ nhất làm lễ Tân Hôn nên đêm "Động Phòng" tại nhà cha mẹ). Hình ảnh rệp cắn đưa đến kỷ niệm tình "tới bến"  (cảm xúc về TÌNH của đời thường), hoặc suy tư về nhân sinh (TRIẾT LÝ của những người TRÍ THỨC) tùy theo tâm trạng  hoặc "hệ quy chiếu" người đọc. Tôi chỉ căn cứ vào hai chữ THƠ TÌNH của Nguyễn Đức Tùng nên chỉ chú trọng vào TÌNH đời thường, bình thường; còn vấn để TRIẾT LÝ (THƠ TRIẾT LÝ) thì xin nhường cho các cao nhân khác.
III. ƯU ĐIỂM
1. Đúng với thủ pháp Show Do Not Tell
Tác giả chỉ "hiển thị"  cảnh người nam đi ngang qua mộ người vợ' gợi nhớ những con rệp cắn trong căn phòng khách sạn rẻ tiền đêm trăng mật. Tự độc giả khám phá, hiểu ra sự kiện trong đêm đó:  Một đêm không ngủ, một đêm tuyệt vời, một đêm đầy kỷ niệm đáng nhớ, "ghi đậm vào ký ức".v.v... Độc giả cảm thấy thích thú vì không chỉ đọc một cách thụ động, mà còn được tham dự một cách tích cực vào tiến trình tìm gặp điểm đến của tứ thơ.
2. Đúng theo nguyên tắc “mạch kỵ lộ"
Nhà thơ  để đến câu cuối cùng, điều mình muốn nói, muốn nhắn nhủ mới lộ ra  gây bất ngờ cho người đọc. Chinh câu cuối này (Bây giờ đây anh nhớ chúng khôn xiết khi mỗi lần đi ngang mộ em) mới nói ra cái quan trọng của "rệp cắn": Rệp cắn người gây cảm giác khó chịu, đặc biệt là mất ngủ vào ban đêm. Chính nhờ mất ngủ nên trong đêm "trăng mật" anh đã thức cho cuộc tình "tới bến", để "Giấc ngủ mồ côi"  (24 Giờ Phép - nhạc Trúc Phuơng) bàn ở phần phụ chú dưới. Đêm kỷ niệm này khắc sâu vào não bộ, hình ảnh " đêm trăng mật" sẽ không bao giờ phôi phai.
Xin nhắc lại, tôi chỉ bình THƠ TÌNH, thơ đời thường cho NGƯỜI BÌNH THƯỜNG,  "viễn nhi" THƠ TRIẾT LÝ
3. Ngôn ngữ dễ hiểu
Trong bài thơ này dùng chữ bình dị, dễ hiểu không "hàn lâm" rắc rối. Thơ cũng "nén" ý. CON RỆP nhiều nghĩa, gợi đến nghèo khổ, bần hàn, dơ bẩn...và không may mắn (Số con rệp)
IV. KHUYẾT ĐIỂM
1. Ngôn ngữ thô ráp
Theo tôi, trong văn chương, bài thơ bài viết sẽ hỏng nếu dùng từ hoa mỹ mà vô nghĩa, sáo rỗng. Đâu bằng dùng từ bình thường, binh dị mà đủ nghĩa. Tuyệt nhất là dùng từ rất bình thường mà tạo được nghĩa dị thường.
[...Theo Nguyễn Anh Khiêm (Ký Ức Sơ Sài) thi tiến trình ngôn ngữ như sau: Đủ từ / đủ ý (thoại)  –> đủ từ / nhiều ý (văn)  –> it từ / nhiều ý (thơ). Do vậy trong thơ càng ít từ mà càng nhiều nghĩa (NÉN) thì thơ càng hay; không cần phải ầu ơ ví dầu ,”hoa lá cành” cho dài ra, làm bài thơ loãng, dễ chán.](1)
Đừng dùng từ thô ráp, ý nghĩa bình thường quá.
Dùng từ "rệp cắn" để dẫn đến "đêm tình" đầy kỷ niệm thì cũng được; tuy nhiên đôi khi nó cũng tạo nghĩa tiêu cực: Rệp là loài côn trùng đốt hút máu, gây phiền hà cho con người trong sinh hoạt hàng ngày. Vai trò truyền bệnh của rệp, cũng như muỗi, qua đốt hút máu đã được các nhà khoa học xác định. Nên khi gặp tử "rệp", người ta cảm thấy "ơn ớn", khiến cảm nhận bài thơ giảm xuống.
Sao không dùng những từ khác để đưa đến cuộc tình?  Ví dụ như "ngôn ngữ tình làm bằng dấu đôi tay", hoặc "giấc ngủ mồ côi" hay "anh cho em tất cả, ta đưa nhau đến vùng tuyệt vời" như Trúc Phương trong lời nhạc"24 Giờ Phép".
2. Ngôn từ diễn tả sự thương nhớ quá hời hợt, không đậm đà:
Câu "Khi mỗi lần đi ngang mộ em": Chỉ đi ngang qua, không ghé vào cắm hoa tưởng niệm... Thật vô tình và hời hợt quá, đâu có chí tình với người chết đâu?
3. Câu thơ chưa diễn tả sự đau khổ đến tột cùng:
Sự đau khổ về tử biệt, sinh ly nhiều đấy, nhưng niềm khổ đau càng tăng thêm khi mình đang đau khổ mà thấy người mình thương đang vui cười hạnh phúc, đang sống xa hoa sang trọng bên người giàu có khác, nhất là người mà mình đánh giá thấp.
Nếu ai cũng nghèo khổ như mình thì cái khổ đó cảm thấy bình thường. Nhưng rất đau khổ trong khi mình nghèo khổ mà thấy người khác đang sung sướng trong xa hoa phung phí.
Câu cuối cùng của bài thơ NĐT diễn tả sự đau khổ mà mọi người "hít hà khen thưởng" theo tôi, nó cũng bình thường thôi. Nó sẽ tuyệt nếu không phải đi ngang qua mộ, mà đứng thấy người vợ xưa thân thương của mình đang tươi cười hạnh phúc, đang trong vòng tay ôm trong xe sang trọng của tên đàn ông giàu có mà mình đánh giá thấp, mình ghét.
4. Câu thơ không có vần, nhạc và họa
Theo tôi, thơ hay là phải có vần điệu, nhạc diệu và hình ảnh (họa). Nhờ những điều này thơ mới dễ đi vào hồn người.
 Đọc (cảm nhận) thơ như LÀM TÌNH, gặp được GIAI NHÂN (thơ hay) sẽ đạt tới thống khoái. THƠ không có vần, nhạc và họa cũng giống như BỘ XƯƠNG (thịt da đã mất hết). Ai có thể ôm ấp, LÀM TÌNH với BỘ XƯƠNG?
Đọc bốn câu thơ, tôi không tìm thấy được vần, cũng như bóng dáng của nhạc và hoạ!
Ngôi mộ ít nhất phải có hương đốt, cỏ phủ, lá lẻ loi rơi hay ánh chiều tà.v.v...và .v.v... Căn phòng lặng vẳng tiếng gió lay hoặc tiếng rên tinh.v.v... Chỉ thô ráp thì thơ sao vào được hồn người.
Xin nói lại lần nữa tôi chỉ bàn về THƠ TÌNH như đã xác định ở tựa bài.
5. Hơi  vụng về trong bố cục.
Chú ý của tác giả ở đây là muốn dùng tân hình thức, hậu hiện đại để thay thế cho tứ tuyệt truyền thống. Nhưng theo thôi thì là điêu chưa thể.
Nếu tác giả đừng dùng tân hình thức, đừng hậu hiện đại mà dùng ngay dạng tuyệt cú, tứ tuyệt hình thức quy ước, rồi đục kết đau thương vào câu cuối thì bài thơ này người đọc dễ cảm hơn.
Thể thơ tân hình thức có những sức mạnh riêng nó, nhưng có lẽ "nó sẽ khác với giòng "thơ nén" trong văn cổ . (Thơ nén tôi có bàn trong bài viết THƠ HAY TỨ TUYỆT -xem phụ chú1 )

Tôi xin được dẫn một trích đoạn "Thơ Hay Tứ Tuyệt" để so sánh "bố cục" giữa bài thơ mẫu với bài thơ "Những Con Rệp" của NĐT.
[...Làm thế nào viết được một bài Tứ Tuyệt?
Người ta hỏi một thi sĩ Nhật nổi danh rằng làm thế nào viết được một bài thơ tứ tuyệt của Trung Hoa. Thi sĩ giảng giải: Câu đầu chứa phần khởi nhập; câu hai là phần chuyển tiếp của câu đầu; câu ba chuyển từ đề mục và bắt đầu một ý mới; và câu bốn gồm ba câu trước hợp lại với nhau. Một khúc dân ca Nhật minh họa ý này:
“Hai cô con gái của một người bán lụa ở Kyoto,
Cô chị hai mươi, cô em mười tám.
Một anh lính có thể giết người với lưỡi kiếm của anh ta,
Nhưng hai cô gái này giết đàn ông với đôi mắt của các nàng.”
Thử ví dụ phân tích một bài thơ:
Nào! ta hãy thử phân tích bài thơ sau đây dựa theo hướng dẫn của thiền sư Muju.
Con sông Vàm Cỏ Tây trong vắt [1]
Trong vắt như đôi mắt lá răm  [2]
Chiến trường trăm trận chưa hề bại  [3]
Mà chết vì em tuổi nguyệt rằm.  [4]
(thơ Phạm Hồng Ân)
Ta thấy:
[1] là khởi nhập,  
[2] là chuyển tiếp của [1]
[3] chuyển từ đề mục và bắt đầu ý mới
[4] gồm ba câu trước lại với nhau đưa tới chủ ý...]
(THƠ HAY TỨ TUYỆT - Nguyên Lạc)(2)
......
Ta nhận xét bố cục mạch lạc từ trên chạy xuống dưới như dòng thác.
Bài thơ  'Những con rệp" thì ngược lại, từ dưới lên: " Mỗi lần đi ngang qua ngôi mộ của người vợ, chàng nhớ lại (hồi ức) kỷ niệm, tâm tư thông qua hình ảnh đêm "trăng mật" trong khách sạn rẻ tiền đầy rệp, ngày thứ hai".
Dòng nước ngược làm sao mà không trắc trở? Làm sao chạy thấm xuôi nhanh vào hồn người được?
PHÁ BỎ KỶ CƯƠNG CŨ
Riêng về chuyện phá bỏ những kỷ cương cổ hủ, những rào cản .v.v..tôi có ý kiến này.
Sự phá bỏ một căn nhà cũ, u ám là việc phải làm. Nhưng một điều cũng rất quan trọng, cần phải quan tâm là phải có phuơng hướng xây dựng một căn  nhà mới tốt đẹp hơn. Nếu căn nhà mới mà tệ hơn nhà cũ thì đừng nên đập phá. Hoặc đập phá căn nhà cũ rồi bỏ đi, không xây dựng nhà mới, lúc đó con người phải gom góp lại những mảnh vụn để cất một cái "nhà chòi" tồi tàn, hoặc homeless (không nhà ở) thì tội quá.
Đập phá (hay đốt bộ) căn nhà cũ ta nên nhớ giữ lại những bức tượng, tranh quý... chứ đừng phá (đốt) bỏ hết thì uổng lắm. Con người quý là có TÍNH KẾ THỪA như tui đã nói. Đừng bỏ phí thời gian vô ích để phát minh, phát kiến lại những gì người xưa đã. Cái hay, cái đẹp là tài sản chung của nhân loại, không thuộc riêng nước nào, người nào. Con người khác hơn ở con vật là TÍNH THỪA KẾ, thiếu nó chúng ta cũng giống CON VẬT thôi.
Căn nhà mới nầy sao tôi thấy hình như trống trải quá, vì bao nhiêu vật quí báu đã mất bóng, vì "tính kế thừa" đã bị bỏ quên, bị khinh miệt.  Đâu rồi vần điệu, nhạc, họa... trong căn nhà văn chương gọi là mới này!
Căn nhà mới tồn tại lâu không theo luật đào thải?

Nguyên Lạc
-----------------------------------
Phụ chú:
1.
[...THƠ NÉN:
Thử phân tích tiếp hai câu THƠ NÉN này:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi (ca dao)

Độc giả sẽ suy nghĩ và nhớ đến các câu thơ khác:

Thuyền ai thấp thoáng sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay !
(Thất ngôn của Hàn Mặc Tử )

Hoặc hai câu cuối của bài thơ “Xuân giang hoa nguyệt dạ”
(Đêm trăng hoa trên sông xuân  – Trương Nhược Hư) (1)

Bất tri thừa nguyệt kỷ nhân qui,
Lạc nguyệt dao tình mãn giang thụ...]
..........
2.
Để làm giảm bớt sự nghiêm túc, ý nghĩ hơn thua, tôi xin thêm phụ chú này. Mong các bạn tìm thấy nơi đây một nụ cười nhờ đó tâm hồn thoải mái thêm chút
GIẤC NGỦ MỒ CÔI - 24 GIỜ PHÉP -nhạc sĩ  Trúc Phuơng.
Để giải thích rõ câu này, Nguyên Lạc tui xin phép giải thích cụm từ " Đêm lạc loài giấc ngủ mồ côi" trong bài nhạc tuyệt vời cửa cố nhạc sĩ  Trúc Phuơng:  "24 Giờ Phép"
Trước hết xin nói về hai chữ MỒ CÔI:
-  “mồ côi” là “(trẻ) đã mất mẹ, đã mất cha” (orphan -orphelin)  
- “mồ côi” (từ mới) chữ “mồ” vô nghĩa và chữ “côi” là cô đơn.(An Chi).
Vậy mồ côi là cô đơn, một mình dùng trong bài nhạc .
"Giấc ngủ mồ côi" một mình chẳng ai chú ý tới, vi "người ta" còn bạn phải lo "mần việc quan trọng " khác phải không?
Đây này nhé:
Từ xa về,"lòng đầy yêu thương", đâu cần "gụ",  mồi lòng cũng thấy phừng phừng rồi!
Em thân yêu đang đợi từ ngõ, anh liền xông vào:  " Anh cho em chết!" rồi... "ngôn ngữ tình làm bằng dấu đôi tay" Thấy chưa, đâu cần phải "ný nẻ" chỉ cho rối việc.
Rồi anh và em trở về thời "nguyên thuỷ loài người" (thì không có quần áo í mà), xong... "ta đưa nhau đến vùng tuyệt vời" nguyên đêm luôn phải không? Thì rõ ràng đó "giấc ngủ mổ côi", giấc ngủ mày ngủ đi con, còn chúng tao thức để đi đến "vùng tuyệt vời"!
- "Bao nhiêu thương nhớ anh dành cho em"  " anh (xả) cho em tất cả em ơi"
Bái phục ông thần nhạc sĩ  Trúc Phuơng!
Chưa hết nhé, đi đường và "mần việc" quá sức,chàng thiếp ngủ... Rồi nàng nhẹ nhàng đánh thức chàng!  "Anh ơi thức dậy chúng ta gầy sòng" cú chót,  trước khi trời sáng anh phải ra đi ("người đi chưa đợi sáng")
Vâng, chàng phải "xả" hết yêu thương cho em, kẻo khi trở về "đơn vị"chàng sẽ không "an giấc" được vì nhớ em thân "iu"!  (Xạo,nhớ Thần Bà thì có!, và không ngủ được là vì tức .. !)
........
Đúng là bài nhạc "tới bến" của người nhạc sĩ tài hoa (nhưng bị tai họa) Trúc Phuơng phải không các bạn.Ôi,"Chữ tài liền với chữ tại một vần"  (Nguyễn Du)
Về cái chuyện RỆP CẮN trong đêm trăng mật khiến hai người phải thức suốt đêm và... Khỏi cần giải thích các bạn cũng biết SUỐT ĐÊM và nó sẽ là KỶ NIỆM không bao giờ quên. Đơn giản vậy mà cũng ghép TRIẾT LÝ , nầy nầy nọ nọ vào, vô tình làm giảm cái đẹp TUYỆT VỜI của TỈNH. Tỏ vẻ mình TRÍ THỨC tót vời chi vậy?
------------------------
 Lời nhạc: 24 GIỜ PHÉP - Trúc Phuơng
Từ xa tôi về phép hai mươi bốn giờ tìm người thương trong người thương,
chân nghe quen từng viên sỏi đường nhà,
chiều nghiêng nghiêng nắng đổ và người yêu đứng chờ ngoài đầu ngõ bao giờ.
Cửa tâm tư là mắt nên khi đối mặt chuyện buồn dương gian lẩn mất
đưa ta đi về nguyên thủy loài người
mùa yêu khi muốn ngỏ vụng về ngôn ngữ tình làm bằng dấu đôi tay
Bốn giờ đi, dài thêm bốn giờ về thời gian còn lại anh cho em tất cả em ơi ta đưa ta đến vùng tuyệt vời.
Đêm lạc loài giấc ngủ mồ côi.
Người đi chưa đợi sáng đưa nhau cuối đường sợ là đêm vui rũ xuống.
Thương quê hương và bé nhỏ tình này.
Ngẩng trông đôi mắt đỏ vì mình mười sáu giờ bỏ trời đất bơ vơ
----------------------------------
Ghi chú:
(1) Nguyên Lạc: BÀN VỀ THỦ PHÁP SHOW, DO NOT TELL
(2)Nguyên Lạc: THƠ HAY TỨ TUYỆT


READ MORE - Nguyên Lạc - BÌNH THƠ NGUYỄN ĐỨC TÙNG: THƠ TÌNH: NHỮNG CON RỆP

TRỘM NHÌN EM... *Thơ Như Thu


TRỘM NHÌN EM...

Nhìn em quảy gánh triền đê
Tim nồng xao xuyến trở về ngẩn ngơ!
Giận mình sao quá dại khờ
Làm quen chẳng dám còn mơ tưởng gì?
Tần ngần trước cổng rồi đi
Bao năm nuối tiếc xuân thì chóng qua
Giờ đây hai đứa đã già
Trên đường tay nắm hỏi bà nhớ không?
Bà cười tui chẳng biết ông
Ngỡ ngàng tủi phận, khiến lòng đớn đau
Bởi vì ta chẳng quen nhau
Ngỏ lời xin lỗi vội chào bước nhanh
Chim uyên lẻ bạn xa cành
Triền đê một bóng thôi đành...quên em!


Như Thu
READ MORE - TRỘM NHÌN EM... *Thơ Như Thu