LỐI NÓI KHOA TRƯƠNG TRONG TIỂU THUYẾT
“CHUYỆN LÀNG
CUỘI” CỦA LÊ LỰU
Nguyễn Ngọc Kiên
Lời dẫn: Nhà văn Lê Lựu sinh ngày 12 tháng 12 năm 1942 tại xã Tân Châu, huyện Khoái Châu - Hưng Yên, là một nhà văn Việt Nam, thành viên của Hội nhà văn Việt Nam từ năm 1974, chuyên về tiểu thuyết và truyện ngắn, tiêu biểu là Thời xa vắng . Ông hiện nay đang đảm nhiệm chức Giám đốc của Trung tâm Văn hóa Doanh nhân tại Hà Nội. “Chuyện Làng Cuội” là cuốn tiểu thuyết lớn thứ hai của đời văn Lê Lựu.
1.Khái niệm về khoa trương
Trong tiếng Việt, khi cần nhấn mạnh làm nổi bật đặc trưng, tính
chất của đối tượng, người ta cố tình nói quá sự thật; việc nói quá ở
đây có thể là phóng to hoặc thu nhỏ đối tượng cần miêu tả. Lối nói
này được gọi là khoa trương. Khoa trương không phải là nói
khoác hay nói dối để đánh lừa người nghe. Tác giả Đào Thản cho rằng, nó không
làm cho người ta tin vào điều nói ra, mà chỉ cốt hướng cho
ta hiểu được điều nói lên [2, tr.1].
Theo chúng tôi, khoa trương là cường điệu quy mô,
tính chất, mức độ của những sự vật, hiện tượng miêu tả. Tuy nói quá nhưng vẫn phản ánh được và
đúng bản chất của sự vật, hiện tượng. Khoa trương luôn
mang đậm phong cách và dấu ấn của cá nhân hoặc cộng đồng sử dụng
ngôn ngữ. Xét các ví dụ sau trong “Chuyện Làng Cuội”:
(1)Rồi các ông cứ nghiệm mà xem. Cái mắt và cái mồm của hắn
rất là chửi nhau. Cái mồm là cái mồm thằng tán gái thành thần. Con kiến trong
lỗ cũng phải chui ra với nó.
(2) Dù được đi đây đi đó nhưng lần nào đến ga Hàng Cỏ trông thấy con
“phe” đã thấy đẹp hơn vợ mình, huống hồ gặp lại Nho, con người có cái cười
“toàn dân”. Chị ta vừa mở quán nữa tháng trời, cả huyện đã biết “lai lịch, có
riêng gì anh.
2. Phân loại khoa trương trong tác phẩm “Chuyện Làng Cuội”
Căn cứ vào ý nghĩa,
lối nói khoa trương được chia thành ba loại như sau:
Khoa trương phóng to là cố ý làm cho sự vật to ra, đem đặc trưng, số
lượng, trạng thái, tính chất, đặc trưng của sự vật làm cho nhiều lên, nhanh
hơn, cao lên, dài ra, mạnh hơn. Ví dụ:
(3) Chị lành thật, nhưng nếu cần mang con lên kêu gào trước cổng huyện ủy,
tỉnh ủy hàng tháng, hàng năm chị cũng không quản ngại.
(4) Cả nhà công tác. Cả nhà phải gánh vác công việc hệ trọng như là quả
đất sắp sửa vỡ bửa ra ngày mai.
(5) Khi bần cố đã vùng lên thì sức mạnh kinh hoàng khủng khiếp của nó sẽ
làm rung chuyển cả trời đất, không có gì có thể cản nổi.
Khoa trương thu nhỏ là thu nhỏ sự vật; tức là cố ý đem số lượng,
đặc trưng, tác dụng, mức độ của sự vật làm cho nhỏ đi, ít đi, chậm lại, thấp
đi, ngắn lại hoặc yếu đi. Ví dụ:
(6) Làng nào xã nào cũng nhơn nhơn tuyên bố: “Bọn Tây bốt Thiệt có biến
thành những con chuột nhắt cũng không chui lọt hàng rào để vào đây”.
(7) Hai ngôi nhà của vợ chồng anh và của mẹ vợ trông như hai cái lều,
cách nhau một vườn chuối rộng hơn một sào mà anh vẫn tưởng cái gãi tai bên này
tiếng thì thầm của vợ chồng anh ở bên này bên kia đội vẫn nghe, vẫn biết.
(8) Mong ngày mong đêm cái giây phút dắt đứa con đi cạnh chồng giữa
thanh thiên bạch nhật, rốt cuộc cứ phải trốn lủi cả người quen lẫn người lạ, cả
ánh mặt trời và giật mình với cả tiếng lá rơi. Để rồi sau khi ông tổng lên thăm
bà Nhớn, mấy chữ của ông như những lưỡi dao chém vào niềm hi vọng của cô về một
đứa con có bố.
Trong tiếng Việt, khoa trương thời gian hay khoa trương theo trật tự
nghịch là đem sự việc xuất hiện sau nói thành việc xuất hiện trước hoặc đồng
thời xuất hiện. Ý
nghĩa của câu là “chưa thế này thì đã
thế kia” hoặc “vừa mới thế này đã
thế kia”, chẳng hạn “ chưa ăn đã hết” “rượu chưa uống đã
say”. Tuy nhiên trong “Chuyện Làng Cuội”, chúng tôi không thấy lối nói
này, mà chỉ thấy ông khoa trương thời gian khi nói “trong chớp mắt” “trong
nháy mắt”, “thoắt cái”. Ví dụ:
(9) Đến bao giờ bà mới thoát được nỗi canh cánh lo
sợ hơn cả giặc giã. Chỉ chớp mắt một cái là nó đã gây ra cái tai họa tầy đình,
chứ lâu la gì.
(10) Luật pháp và những chuẩn mực nghìn đời cũng có thể thay đổi mười
lăm lần trong một ngày. Chỉ cần mình muốn. Con người đã muốn gì thì cái gì cũng
có thể làm được trong nháy mắt.
(11) Bằng cách đối xử của con vợ mình đêm hai vợ chồng đứng cạnh thằng
Lăng ở miếu ông Cuội và sau đấy anh biết những con đàn bà dù nhà quê nó cũng có
khả năng biến hóa như con yêu tinh, thoắt cái đã hiện ra nanh vuốt của quỉ dữ,
thoắt cái lại dịu hiền ngây dại như trẻ thơ.
2.2. Phân loại khoa trương theo hình thức
Căn cứ vào hình thức
có thể chia khoa trương thành hai loại: khoa trương trực tiếp và khoa trương
gián tiếp.
(1) Khoa trương trực tiếp:
Khoa trương trực tiếp là khoa trương không sử dụng bất cứ biện
pháp tu từ nào, còn được gọi là khoa trương thuần túy. Ví dụ:
(12) Hôm nay lại tưởng chết vì trận nôn tám ngày nay, không biết bao
nhiêu trận cứ móc họng lôi thốc cả ruột gan ra ngoài.
(13) Trong lúc cả làng sôi sục chạy đuổi “nhét cứt vào mồm con Xuyến”,
làm con bé xanh xám mặt mũi, cắt không còn hột máu, thằng Hiếu đứng ra chặn mọi
người ôm lấy vợ bảo: - Em cứ bình tĩnh, đừng sợ.
(14) Cô ôm lấy chồng. nước mắt ướt đẫm mặt anh: - Nếu được thế thì bảo
em liếm xuống đất mà lễ sống mẹ với các em, em cũng làm. Mẹ anh là mẹ em, đi
đâu mà thiệt hả anh.
(2) Khoa trương gián tiếp
Là khoa trương phải sử dụng các biện pháp tu từ
khác để thực hiện, còn được gọi là khoa trương dung hợp. Chẳng hạn:
+ so sánh có từ so sánh. Ví dụ:
(15)Từ cái nón mê, cái bị, bộ
quần áo thủng, rách buộc túm, cho đến tay, chân, mặt mũi đều chạt ghét và đất
có thể bóc ra như bóc vỏ sắn.
(16) Đêm đêm nhìn quầng lửa đỏ
cháy rực góc trời làng mình, nước mắt chảy ra như máu ứa từ ruột trào lên, hai
hàm răng cắn lại nuốt nước mắt như nuốt máu mình chảy vào miệng mình.
(17) Tao nói cho thằng lưu manh kia biết nhé.
Nếu tao là con đĩ, mày là cái gì. Ở đại hội nó phê bình chỉ như gãi
ghẻ cho mày.
+ so sánh không có từ so sánh
(18) Chó cắn và người kêu. Tóc gáy thằng Hiếu dựng lên, nó lo thon thót
không hiểu mẹ nó làm sao.
Ở đây, ta phải hiểu rằng, “tóc gáy thằng Hiếu như bị dựng lên”.
+ So sánh có hệ từ là
(19) Có rượu vào mà rủ nhau lẳng bà lão đi rồi. Đúng là họ
đóng đinh vào đầu mình.
+ Sử dụng hoán dụ để khoa trương
Tác giả Trần Vọng Đạo
trong Tu từ học phát phàm lần đầu tiên đã đưa ra định
nghĩa về phép hoán dụ: “Sự vật được nói tới tuy rằng không có điểm
tương tự với sự vật khác, giả sử khi giữa chúng còn có quan hệ không thể tách rời,
tác giả có thể mượn tên của sự vật có quan hệ đó thay cho sự vật được nói tới.
Cách mượn như vậy gọi là phép hoán dụ tu từ” [93]. Nghĩa là, không nói
thẳng ra tên người hoặc sự vật mà mượn tên của sự vật có quan hệ mật thiết với
nó thực hiện phép thay thế.
Phép hoán dụ tu từ được chia thành nhiều loại khác nhau. Theo quan sát
của chúng tôi, lời nói khoa trương trong “Chuyện Làng Cuội”, tác giả thường
dùng cái toàn thể để thay cho từng vật chứa trong đó. Ví dụ:
(20) Tên bác cả nước người ta còn biết. Chúng em ở xã bên cạnh, bác lại
không cho chúng em được vinh hạnh biết tên bác ư?
(21) Lại đồn: ông tổng Lỡi về kì này truy tìm xem ai là kẻ chủ mưu phá
kho thóc nhà ông ấy. “Kì này không khéo ông ta móc họng cả làng, cả tổng chứ
chẳng chơi”.
(22) Sao bà lại sinh ra vào cái thời buổi lạ lùng. Thoắt cái cả làng cả
tổng xô lại ai cũng như xé ruột xé gan cho bà.
Ở các ví dụ trên, “cả nước” “cả làng cả tổng” là
vật chứa đựng đại diện cho những người trong đó.
2.3. Phân loại
khoa trương theo mức độ
Căn cứ vào mức độ khoa trương (đã đến mức phi lí hay chưa đến
mức phi lí), khoa trương trong “Chuyện Làng Cuội” của Lê Lựu có thể thành
mấy loại:
(1) Khoa tương ở mức độ thấp
Khoa trương ở mức độ thấp là cách nói quá đi so với cái có thật
trong thực tế; tuy có thể nhân lên tới hàng trăm hàng nghìn lần, thậm chí hàng
vạn lần, nhưng vẫn chưa đến mức phi lí, vẫn có thể chấp nhận được. Sở dĩ như
vậy là vì, nghe mãi thành quen tai, cả người nói và người nghe không ai nghĩ
rằng mình đang khoa trương. Chẳng hạn, trong khẩu ngữ người ta vẫn hay sử dụng
các cụm từ sau để khoa trương: vô cùng vĩ đại, cực kì khó khăn, trăm
công nghìn việc, phục sát đất. Ví dụ:
(23) Anh buồn bã bảo bà: - Thì đúng thế còn gì nữa. người ta phổ biến,
tôi ngồi, mặt dầy như cái mặt mo ở trên huyện ấy.
(24) Nghe cháu nói bà quặn ruột lại .
(25) Ông thấy giận em gái. Nó không xui con nó làm cái việc khốn nạn ấy,
nhưng ông vẫn tím mặt lại khi nhìn thấy em.
(26) Cô bám vào cột quằn người kêu la tưởng là đứt ruột chết ngay.
(2) Khoa trương ở mức độ cao
Khoa trương ở mức độ cao là cách nói nói quá sự thật một cách quá đáng,
đến độ phi lí không thể tin được. Trong giao tiếp, người ta hay sử dụng các cụm
từ và các thành ngữ khoa trương sau: không cánh mà bay, một bước
lên giời, một chữ bẻ đôi cũng không biết, một ngày dài hơn thế kỉ, ngàn
cân treo sợi tóc, ba đầu sáu tay. Chẳng hạn, trong Chuyện Làng
Cuội:
(27) Khai được chuyện này ra, bao nhiêu chuyện khác sẽ gỡ ra được, chồng
mụ không phải bị buộc oan, không phải “ngàn cân treo sợi tóc” như bây giờ.
(28) Kẻ khác đụng đến là thấy đứt ruột ra làm năm, làm bảy.
(29) Khi bần cố đã vùng lên thì sức mạnh kinh hoàng khủng khiếp của nó
sẽ làm rung chuyển cả trời đất, không có gì có thể cản nổi.
2.1. Khoa trương ở mức độ cực cấp
Là khoa trương ở mức độ cao nhất.
Khái niệm “cực cấp” chúng tôi dùng ở đây là khoa trương được xếp vào mức
độ cao nhất. Loại này thường dùng cho những tính từ “thang độ”. Ví dụ:
(30) Bao nhiêu vất vả gian truân, bao nhiêu đau đớn tủi nhục người mẹ
nuốt hết vào trong lòng cốt để trở thành bất tử, thành người hạnh phúc nhất
trần gian lúc đứa con bập bẹ tập nói.
2.2. Khoa trương về điều phi thực tế
Kiểu khoa trương này là khoa trương về những điều không có thực hoặc
trái với thực tế. Ví dụ:
(31) Nghĩa là, nếu chạy lên trời chị cũng cầm chân kéo xuống, mà chui
xuống đất thì chị túm tóc lôi lên. Có mà thoát đằng trời.
(32) Mẹ con cô đột ngột trở về như người chết tự nhiên sống lại, như từ
trên trời rơi xuống.
(33) Đã chắc gì ông thiết. nhưng chúng bay cũng không được phép quên
ông, bắt ông nằm suông bẹp dí ở đây mãi gần trưa mới được bát ngô bung thì vẫn
trợn trạo rắn như cái đầu lâu con mẹ mày, ai nhai được. Chúng mày ác với ông
thì trời đánh thánh vật chúng bay.
(34) Đêm ấy cô lại thức trắng, nhớ lại lúc ngồi với bà Nhớn, bà mắng cô:
“Ăn nói độc mồm, độc miệng, hổ báo nó bắt mày đi”.
3. Kết luận
Khoa trương là một
thủ pháp nghệ thuật hết sức độc đáo trong các tác phẩm của Lê Lựu. Nó luôn tạo
sự mới mẻ, kích thích trí tưởng tượng và lôi cuốn người đọc.
Trong tiếng Việt mà tiêu biểu là trong tiểu thuyết “Chuyện làng Cuội”
cũng như trong tiếng Anh, khoa trương hết sức đa dạng và phong phú. Căn cứ vào
ý nghĩa có thể chia thành khoa trương phóng to, khoa trương thu nhỏ và khoa
trương thời gian. Căn cứ và hình thức, có thể chia thành khoa trương trực tiếp
và khoa trương gián tiếp. Căn cứ vào mức độ lại có thể chia thành khoa trương ở
mức độ thấp và khoa trương ở mức độ cao. Người Việt và người Anh mặc dù có hai
nền văn hóa khác nhau nhưng họ thích nói khoa trương và trong cách khoa trương
của họ có nhiều điểm tương đồng. Bài báo trên đã lý giải những điểm tương đồng
ấy.
Thông qua lối nói
khoa trương, lời ăn tiếng nói của quần chúng vào “Chuyện Làng Cuội” của Lê Lựu
hết sức tự nhiên như cuộc đời thực vốn có của nó. Đây là một trong những cuốn
tiểu thuyết lớn của nhà văn Lê Lựu và ông xứng đáng được mọi người mến mộ.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1.
Hữu Đạt (2001), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, NXB ĐH Quốc Gia
HN.
2.
Huỳnh Ái Nguyên (2005), Phương tiện nhấn mạnh trong tiếng Anh và tiếng
Việt, Luận văn Tiến sĩ Ngữ văn, ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN
2.
Đào Thản (1990), Lối nói phóng đại trong tiếng Việt, Tạp chí
Ngôn ngữ.
3. Cù Đình Tú (2007), Phong cách học và đặc
điểm tu từ tiếng Việt, NXB Giáo dục.
4.
Viện Ngôn ngữ học (1997), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng
NGUỒN
TƯ LIỆU TRÍCH DẪN
5.
Lê Lựu (2003), Chuyện Làng Cuội, NXB Văn học.