Nếu có dịp đặt chân đến mảnh
đất thuộc xã Tam Lãnh, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam,
hỏi thầy Lê Quang Thái công tác tại trường THCS Chu Văn
An thì không ai mà không biết. Thầy được mọi người
biết đến không phải vì thầy làm “ông to ông lớn”
mà đơn giản gần mấy mươi năm trong nghề, đến cái
tuổi nghỉ hưu thầy đã dạy dỗ bao nhiêu thế hệ học
trò thành đạt, luôn sống một lối sống gần gũi với
bạn bè, đồng nghiệp đặc biệt là những học trò thân
yêu. Bên cạnh đó thầy còn là một trong những tấm
gương tiêu biểu của nhà trường trong việc thực hiện
phong trào: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”.
Tôi gặp thầy với một cái
“duyên kỳ ngộ”. Vì sao tôi lại gọi như thế? Bởi
lần đầu tiên tôi biết thầy là vào mùa xuân cách đây
ba năm về trước, lúc ấy tôi còn là một cô sinh viên
được phân công thực tập sư phạm về ngay ngôi trường
mà thầy đang công tác. Khi cái không khí sau tết vẫn còn
nhộn nhịp, cái cảm giác ấm cúng bên mâm cơm gia đình
vẫn vẹn nguyên thì tôi lại phải tiếp tục con
đường đi tìm cái chữ, đi tìm tương lai cho bản thân.
Ngày đầu tiên đến trường với biết bao bỡ ngỡ, rất
nhiều ánh mắt của các cô cậu học trò nhìn mình một
cách lạ lẫm, tôi cảm thấy hơi run. Rất may lúc ấy, từ
phòng Hội đồng, thầy bước ra đón chúng tôi với bộ
quần áo đã ngã màu, dáng người thấp bé, gương mặt
khắc khoải hiền từ, phúc hậu. Có lẽ trải qua nhiều
năm tháng gắn bó với nghề nên thầy hiểu được tâm
lí của tôi và lũ bạn đi cùng, thầy ôn tồn chỉ dẫn
từng li từng tí. Với cuộc gặp gỡ đầu tiên ấy thầy
đã nhanh chóng để lại cho tôi cũng như các bạn của
tôi một ấn tượng sâu sắc.
Để chuẩn bị cho công tác thực
tập - một cuộc hành trình quan trọng nhằm tích góp kinh
nghiệm cho bản thân trước khi bước vào nghề, sáng hôm
sau tôi đến trường thật sớm và ngỡ ngàng trong niềm
vui, sự hạnh phúc vô bờ khi biết tin thầy chính là
người hướng dẫn thực tập cho mình. Qua mấy buổi được
dự giờ học hỏi, tôi thấy đúng như lời mà mọi người
nhận xét về thầy, thầy rất gần gũi, thân thiện,
nhiệt tình trong công tác chỉ dẫn. Đặc biệt phong cách
giảng dạy của thầy chẳng giống ai. Trong khi các thầy
cô khác thì lỉnh kỉnh cặp sách, đồ dùng mỗi khi đến
lớp - còn thầy, tay chỉ cầm mỗi cuốn sách giáo khoa.
Khi giảng Văn thầy thường giảng nhiều nhưng ghi bảng
rất ít, chỉ mấy cái gạch đầu dòng ngắn gọn nhưng
lại giúp học sinh nhớ bài lâu. Giọng đọc bài của
thầy lên bổng xuống trầm, thay đổi ngữ điệu kết
hợp với những điệu bộ, cử chỉ một cách truyền cảm
khiến tôi ngồi dưới không khỏi rời mắt. Trong quá
trình giảng dạy thầy thường sử dụng những từ ngữ
cô đúc để diễn tả một cách ngắn gọn, biểu cảm
điều cần truyền đạt. Chính những điều này khiến
tôi ngưỡng mộ cách dạy của thầy. Hết một tuần thực
tập đầu tiên tôi học được biết bao nhiêu điều từ
thầy. Bên cạnh đó tôi cũng biết nhiều điều về thầy
qua lời kể của các thầy cô giáo trong trường.
Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất
Quảng Trị đầy lửa đạn, hơn ai hết thầy hiểu được
hoàn cảnh nước nhà đang trong thời kì chiến tranh ác
liệt. Với ý chí của một chàng thanh niên yêu nước,
thầy muốn góp một phần nhỏ của mình trong công cuộc
xây dựng đất nước bằng cách cố gắng phấn đấu học
tập để trở thành một chàng sinh viên trường Cao đẳng
sư phạm Đà Nẵng (nay là trường Đại học sư phạm Đà
Nẵng) chuyên ngành Ngữ văn. Tốt nghiệp ra trường với
thành tích học tập xuất sắc, thầy được phân công
công tác về giảng dạy tại xã Tam Trà – một xã miền
núi còn nhiều thiếu thốn của huyện Núi Thành, tỉnh
Quảng Nam. Trải qua một thời gian cống hiến không ngại
khó, không ngại khổ cho mảnh đất và con người Tam Trà,
khi Tam kỳ được tách ra làm hai trung tâm hành chính là
thành phố Tam Kỳ và huyện Phú Ninh, lúc này thầy được
thuyên chuyển công tác về huyện Phú Ninh. Qua lời kể
của các thầy cô tại trường, thầy bảo rằng không
biết tự bao giờ mảnh đất Quảng Nam đầy nắng và gió
này đã trở thành một phần máu thịt, một phần sự
sống, một phần hơi thở trong thầy và thầy quyết định
gắn bó với nó cho đến hôm nay:
“Tôi như con tàu khởi hành xa
bến
Vượt trùng dương vẫn khắc
khoải quê nhà
[…]
Biết khởi hành nặng nợ với
sông quê
Không gợn sóng sao thấy mình có
lỗi
Như Huyền Trân xưa ruột gan vò
trăm mối
Giấu niềm riêng về Chiêm quốc
làm dâu
Để cuộc đời có nghĩa đến
mai sau
Nề hà chi gừng cay muối mặn
Trên hành trình dẫu còn trái đắng
Vẫn nhận ra mùa hạnh phúc ngọt
ngào”.
(Khởi
hành – Lê Quang Thái)
Chính cái tình yêu bao la thầy
dành cho đất Quảng, chính sự gần gũi, thân thiện của
con người đặc biệt là học trò nơi đây đã níu bước
chân của thầy không thể rời xa “miền đất hứa”.
Rồi thầy lập gia đình, sinh được hai người con trai
khấu khỉnh, thông minh. Cuộc sống của thầy cứ thế
trôi qua, thầy vừa phải chăm con vừa phải đến lớp
với biết bao vất vả và gian truân. Mặc dầu phải bận
bịu lo cho gia đình nhưng thầy vẫn không quên nhiệm vụ
đối với “đàn con thơ”. Cứ như vậy cả cuộc đời
thầy vẫn cố gắng cống hiến cho sự nghiệp giáo dục.
Dường như với thầy ngày nào không được đứng trên
bục giảng thì ngày đó thầy cảm thấy cuộc sống của
mình trở nên trống vắng. Tôi nhớ rất rõ thầy từng
nói với tôi: Con biết không ra trường trong thời kì hòa
bình vừa lặp lại, đất nước còn nhiều khó khăn, thời
điểm đó lương giáo viên không đủ nuôi gia đình nên
nhiều người đã chuyển sang nghề khác để mưu sinh.
Nhưng với thầy, thầy luôn quan niệm đất nước lúc nào
cũng cần nhân tài mà nhân tài từ đâu ta phát hiện ra?
Đó là từ giáo dục. Thầy muốn góp một phần nhỏ của
mình trong việc này và hơn nữa thầy yêu cái nghề mà
mình đã chọn nên dù khó khăn, dù “Đầu củi đầu con
nhòe mờ trang giáo án/Xe đạp tròng trành chở hết nổi
truân chuyên”, dù cho cuộc sống có vất vả đến mấy,
dù cho một buổi đến lớp một buổi về vừa lo cho con
vừa đi bán củi để kiếm thêm thu nhập thầy vẫn quyết
tâm gắn bó với nghề. Nghe những lời tâm sự của thầy
mà lòng tôi như thắt lại. Nó như động lực khích lệ
tôi phải cố gắng nhiều hơn nữa. Có lẽ vì vậy mà
trong suốt quá trình giảng dạy mấy chục năm nay thầy
không ngừng tiếp thu, nổ lực, tìm tòi phương pháp mới,
nghiên cứu nhiều tài liệu nhằm đáp ứng nhu cầu học
tập của học sinh một cách tốt nhất. Với những người
trẻ tuổi việc tiếp cận công nghệ thông tin thì rất
dễ dàng còn với thầy đã mấy mươi năm cống hiến
trong nghề, tuổi cao mắt kém, sức khỏe cũng sa sút nên
việc tiếp thu có phần hạn chế. Nhưng không vì thế mà
thầy buông xuôi, hằng ngày thầy vẫn miệt mài rèn
luyện, mò mẫm tập gõ từng chữ cái một. Có những đêm
thầy thức trắng cùng trang giáo án của mình. Đáp lại
tấm lòng sự kỳ vọng của thầy, biết bao thế hệ được
thầy dìu dắt đã thành công. Và tôi cũng là một trong
số những người học trò ấy.
Theo tôi được biết ngoài việc
sưu tầm sách thầy còn có một sở thích khác mà ai cũng
quý đó chính là công tác từ thiện. Mặc dù công tác xa
nhà nhưng mỗi khi Hội Văn học nghệ thuật thành phố
Tam Kì tổ chức thiện nguyện thầy liền tạm gác công
việc, bon bon chạy xe băng đường rừng núi, quanh co hiểm
trở để về tham gia. Bên cạnh đó thầy còn cất công
vận động thêm nhiều Mạnh Thường Quân cùng làm công
tác từ thiện với mình. Thầy không chỉ giúp đỡ trẻ
em cơ nhỡ, vô gia cư, nạn nhân chất độc màu da cam...mà
còn tận tình giúp đỡ những cô cậu sinh viên có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn. Bởi hơn ai hết thầy hiểu
được cuộc sống của những sinh viên nghèo là như thế
nào vì thầy cũng từng là một cậu sinh viên luôn khát
khao về mặt tinh thần và “thèm” sự sung túc của vật
chất. Thầy là vậy, lúc nào cũng chỉ nghĩ cho người
khác mà chưa một lần nghĩ cho bản thân mình. Luôn quan
tâm giúp đỡ người khác mà không cần nhận lại bất
cứ điều gì. Thầy quan niệm: “Sống là cho đâu chỉ
nhận riêng mình”.
Trở lại với kì thực tập sư
phạm của tôi, trải qua hai tháng được thầy chỉ dẫn
nhiệt tình, tôi tự tin hơn khi đã trang bị cho bản thân
một lượng kiến thức cũng như kinh nghiệm. Thầy luôn
sát cánh cùng tôi và các bạn trong suốt quá trình thực
tập. Thầy tận tình chỉ bảo, giải đáp mọi thắc mắc
một cách vui vẻ. Có những lúc lắng lòng thầy trò chúng
tôi ngồi trò chuyện, thầy đã chia sẻ nhiều điều bổ
ích với tư cách không còn là một người thầy nữa mà
là một người đi trước. Thầy tâm sự rất thật lòng:
- Thầy cảm thấy buồn cho xu
hướng xã hội bây giờ. Ngày xưa, các thầy cô vì yêu
văn chương mà chọn nghề sư phạm, muốn đem lời hay ý
đẹp đến học trò nên dù cuộc sống biêt bao vất vả,
khó khăn, dù đến được trường phải đi bộ hàng mấy
cây số, ăn sắn, ăn khoai nhưng vẫn quyết tâm đứng lớp
bằng mọi cách. Còn thế hệ về sau lại chọn văn chương
chủ yếu với mục đích mưu sinh. Cũng vì thế mà giáo
viên trẻ bây giờ ít ai yêu văn chương thực sự. Đây
cũng là điều mà thầy luôn trăn trở.
Nghe thầy tâm sự mà tôi ngẹn
lòng. Cách nhìn nhận của thầy rất sâu sắc. Không biết
nói gì miệng lí nhí tôi đáp:
- Thầy nói đúng ạ! Rồi thầy
tiếp lời tôi:
- Các con muốn dạy văn hay thì
không nên đưa bài học vào một khuôn mẫu. Dạy văn là
làm sao phải tạo được cảm hứng, phải biết chọn lọc
những gì quan trọng, cần thiết để giảng thật sâu,
thật kĩ thì học trò mới có hứng thú bởi bây giờ
không mấy ai yêu văn chương nữa. Viết văn cũng vậy,
chúng ta không nên quy định cho học sinh viết bao nhiêu
dòng, bao nhiêu trang hay thậm chí bao nhiêu từ. Cứ để
học sinh thỏa sức sáng tạo, tưởng tượng sau đó giáo
viên chúng ta sửa bài thì “những đứa con tinh thần”
của các em sẽ trở nên “tròn trịa”. Các con nhớ
nhé!.
Thầy là vậy đó, luôn sống
thật, nói những điều cũng thật và gần gũi. Thầy
không ngần ngại chia sẻ với chúng tôi những kinh nghiệm
trong giảng dạy mà còn chia sẻ kinh nghiệm trong cuộc
sống. Cứ như vậy qua hai tháng thực tập không chỉ tôi
mà cả lũ bạn của tôi đã học hỏi ở thầy rất nhiều
điều. Giữa chúng tôi dường như không còn là khoảng
cách thầy – trò, thay vào đó thầy giống như một người
cha, một người cha của biết bao thế hệ trong đó có
tôi, luôn ôn tồn dạy bảo mọi điều hay lẽ phải cho
con của mình. Có lẽ vì thế mà khi kết thúc chuyến thực
tập năm ấy thầy đã thực sự trở thành người cha thứ
hai của chúng tôi. Chúng tôi gọi thầy với một cái tên
thân mật – ba Thái. Thầy vui vẻ đón nhận và mỉm cười
một cách mãn nguyện.
Rồi thời gian trôi qua, mới đó
mà chúng tôi cũng đã trở thành những thầy cô giáo được
ba năm nay. Trong suốt khoảng thời gian ấy mối quan hệ
cha con giữa thầy và chúng tôi ngày càng được bồi đắp
qua những lần tôi cùng lũ bạn ghé nhà thăm thầy. Cứ
mỗi lần như thế tôi lại cảm nhận thầy như trẻ ra
vì niềm vui và sự hạnh phúc.
Cả cuộc đời của thầy đã
cống hiến cho sự nghiệp giáo dục nước nhà nói chung
và sự nghiệp giáo dục tỉnh Quảng Nam nói riêng. Vì vậy
bây giờ cũng là lúc thầy phải được nghỉ ngơi sau mấy
mươi năm cống hiến. Thầy về hưu ở cái tuổi xế
chiều. Thầy nghỉ hưu không phải vì hết yêu học trò
mà vì vai trò, trách nhiệm với người cha ở quê –
Quảng Trị. Bởi mấy mươi năm phục vụ cho sự nghiệp
giáo dục tỉnh nhà thầy không có thời gian để về quê
chăm sóc cha già những lúc ốm đau, trái gió trở trời.
Chính vì vậy mà giờ đây thầy muốn dành khoảng thời
gian ngắn ngủi còn lại để toàn tâm toàn ý lo cho ông.
Cùng với đó thầy cũng muốn dành thời gian cho niềm đam
mê viết văn, làm thơ và đặc biệt thực hiện những
chuyến thiện nguyện của mình cho quãng đời còn lại:
“Những buồn vui cùng lúc bỗng
ùa về
Khi tôi biết mình sắp rời bục
giảng
Buồn biết mấy khi xa lớp đầu
xanh, bè bạn
Và cả tuổi già sức đuối phải
về hưu!
Trong nỗi buồn chợt khấp khởi
niềm vui
Có chút thảnh thơi bên cháu con
đoàn tụ
Được chăm sóc cha già đã bao
năm ấp ủ
Phút lắng lòng mài dũa thú văn
chương
[…]
Mỗi sớm mai trống trường khua
dồn dã
Biết lòng mình cất nỗi nhớ vào
đâu…?
(Ngày
về - Lê Quang Thái)
Và rồi những nguyện vọng của
thầy cũng được thực hiện. Thầy xứng đáng là một
đứa con hiếu thảo, một người thầy giáo mẫu mực, là
tấm gương sáng để nhiều thế hệ học trò noi theo. Xin
cho phép tôi được gọi thầy bằng sự tôn kính, bằng
cả trái tim một lần nữa– ba Thái!.
Châu Thị Hoàng Long
Trường THCS Huỳnh Thúc Kháng,
Thôn Dương Trung, xã Trà Dương, huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.
Email: chaulong91@gmail.com
No comments:
Post a Comment