Tác giả Nguyễn Ngọc Kiên
MỘT SỐ
PHƯƠNG TIỆN VÀ BIỆN PHÁP TU TỪ BIỂU THỊ KHOA TRƯƠNG TRONG TÁC PHẨM CỦA MẠC NGÔN
1.
Khái niệm về khoa trương
Khoa trương (hyperbole) là một từ có xuất xứ từ
tiếng Hi Lạp, được giải thích trong từ điển Oxford : “Lời nói cường điệu nhằm một tác động
đặc biệt và không để được hiểu theo đúng nghĩa đen. Ví dụ: I’ve invited millions of people to my party: Tôi đã mời hàng triệu người
đến dự bữa tiệc tôi thết”.[7, 828]
2. Các quan điểm về
khoa trương
2.1.
Quan điểm của một số học giả về khoa trương
Theo các
tác giả Hoàng Bá Vinh và Liêu Tự Đông thì: “Trong thực tế sử dụng ngôn ngữ, khi cần nhấn mạnh một ý nào đó,
người ta cố ý nói quá sự thật; cái việc nói quá ở đây có thể là phóng to
hoặc thu nhỏ đối người, sự vật hoặc hiện tượng, tức đối tượng cần miêu
tả. Lối nói này được gọi là khoa trương; nghĩa là, trên cơ sở hiện thực
khách quan đối với đặc trưng của sự vật, hiện tượng, người ta tô vẽ một cách
hợp tình hợp lí làm cho người đọc cảm thấy cái điều nói ra có một ấn
tượng sâu sắc nhưng vẫn chân thực có thể tin cậy được”.[8,154]
Tác giả
Vương Hy Kiệt thì cho rằng: “Khoa
trương là cố ý nói quá sự thật, hoặc phóng to hoặc thu nhỏ sự
thật. Mục đích của khoa trương là làm cho người nghe/ đọc có một ấn
tượng càng thêm sâu sắc đối với nội dung biểu đạt của người nói/
viết. Chẳng hạn,“天无三日晴/地无三尺平” (Trời không có ba ngày nắng / Đất không
có ba thước bằng phẳng) nói về đặc điểm thời tiết và địa hình của
Qúy Châu, là lối nói khoa trương. ” [215, tr. 296]
Tác giả
Trương Huy Chi thì cho rằng: “Khoa trương là nói quá sự thật, là
phương thức biểu đạt mà vì một yêu cầu nào đó người ta cố ý phóng
to hoặc thu nhỏ hình tượng, đặc trưng, tác dụng, mức độ, số lượng
của các sự vật. Khoa trương có vẻ như không phù hợp với thực tế,
nhưng nếu vận dụng hợp lý có thể miêu tả sâu sắc bản chất sự vật,
làm tăng thêm sức hấp dẫn của ngôn ngữ.” [9, tr.320]
Như vậy
có thể thấy, quan điểm của các nhà Hán ngữ về khoa trương là tương đối thống nhất: nói quá sự thật trong đó
có thể phóng to hoặc thu nhỏ sự vật, hiện tượng, tức là đối tượng cần miêu tả
nhằm gây ấn tượng đối với người nghe, người đọc.
Tác giả Đào Thản cho rằng, phóng đại (còn gọi: khoa trương, thậm xưng, ngoa ngữ, cường
điệu) là dùng từ ngữ hoặc cách diễn đạt để nhân lên gấp nhiều
lần những thuộc tính của khách thể hoặc hiện tượng nhằm mục đích
làm nổi bật bản chất của đối tượng cần miêu tả, gây ấn tượng đặc
biệt mạnh mẽ. Khác hẳn với nói điêu, nói khoác về tính chất, động
cơ và mục đích, phóng đại không phải là xuyên tạc sự thật để lừa
dối. Nó không làm cho người ta tin vào điều
nói ra, mà chỉ cốt hướng cho ta hiểu được điều nói lên. [2, tr. 2]
2.2. Quan điểm của người viết về khoa
trương
Theo chúng tôi thì, khoa
trương hay còn gọi là nói quá, là cường điệu quy mô, tính chất,
mức độ của những sự vật, hiện tượng miêu tả. Khoa trương có tác dụng làm nổi bật những ý cần diễn
đạt. Tuy nói quá nhưng vẫn phản ánh được và đúng bản chất của sự
vật hiện tượng. Khoa trương luôn
mang đậm phong cách và dấu ấn của cá nhân hoặc cộng đồng sử dụng
ngôn ngữ. Chẳng hạn, Mạc Ngôn viết:
(1)女人们抱怨着, 弓着腰, 拉着大石磨, 轰隆轰隆, 急一阵慢一阵, 汗水滴落, 湿了磨道, 肚里噜噜响, 满腹的气体, 肚皮膨胀, 当着麻邦连屁都不敢放。麻邦的鼻子灵光如警犬, 嗅着屁味便能断定谁偷吃粮食。 《牛》
(Mồ hôi ròng
ròng, bụng sôi ùng ục đầy những hơi là hơi, bụng trương lên, không dám
đánh trung tiện nếu Mặt Rỗ có ở đấy. Mũi Mặt Rỗ thính như chó
nghiệp vụ, ngửi mùi rắm là biết người nào ăn vụng thứ gì.)
Trong số trước chúng tôi đã phân tích khoa trương trong một
số tác phẩm của Mạc Ngôn ở cấp độ từ, ngữ (số 2/ 2018). Trong số này chúng tôi
tiếp tục giới thiệu khoa trương của Mạc Ngôn ở cấp độ câu gồm câu phức giả thiết,
câu phức điều kiện, và các biện pháp, phương tiện tu từ biểu thị khoa trương.
3. Một số cách biểu
thị khoa trương ở cấp độ câu
3.1. Sử dụng câu phức điều kiện (条件复句) biểu thị khoa trương
Câu phức điều kiện không phải là loại câu chuyên biệt để biểu thị khoa
trương. Nhưng trong lối nói khoa trương có thể sử dụng câu phức điều kiện như một
phương thức biểu đạt hữu hiệu. Trong loại câu này, phân câu phụ biểu thị điều
kiện, phân câu chính biểu thị kết quả.
Biểu thức: 只要 … ,就…
Tiếng Việt: Chỉ cần…. thì….
Trong loại câu này, 只要 (chỉ
cần) chỉ ra điều kiện cần và đủ, chỉ có điều kiện như
vậy thì mới có kết quả hoặc hậu quả nêu trong câu chính; trong phân câu chính
thường có sự tham gia của phó từ 就 (thì). Ý nghĩa khoa trương của câu nằm ở cả hai vế. Ví dụ:
(2) 母亲道:正是正是,只要她的手在病人身上一摸,十分病就去了七分。姑姑差不多被乡里的女人们神化 了。《蛙》
(Mẹ nói: “Đúng là như
thế, chỉ cần cô con đưa tay sờ vào
người bệnh là bệnh mười phần đã giảm đi bảy phần! Gần như cô tôi
đã được thần thánh hóa trong mắt người dân quê tôi.)
(3) 我的心被人用刀子戳伤过,只要一干活,心上的疤痕就会崩 裂,那样我就会七窍流血而死。《蛙》
(Tim tôi đã bị người ta dùng dao đâm xuyên qua, chỉ cần làm một việc nhẹ, vết thương
trong tim sẽ vỡ ra, thế là tôi sẽ hộc máu mà chết) (Ếch)
(4)
我立刻想起奶奶说过的话,她说,人只要感到骨头缝里发冷就 隔着阴曹地府不远了。《牛》
(Tôi thường nghĩ đến những
lời bà tôi thường nói rằng, ai mà cảm thấy những khớp xương của
mình lạnh cóng là người ấy chỉ
còn cách cổng vào âm tào địa phủ một vài bước chân nữa mà thôi.) (Trâu
thiến)
(5)
他十条狗命也不值小珍子一条命,只要小珍子平安无事,要我身上的肉我也割。《枯河》
(Mười cái mạng chó của nó cũng
không đáng giá bằng một mạng của cô nhà, chỉ
cần cô nhà bình an vô sự thì nếu có cần thịt trên người tôi cũng cắt.) (Sông cạn)
Lưu ý: Một số trường hợp只要 trong phân câu phụ có thể lược bỏ. Ví dụ:
(6) 你一笑,我就感到头晕目眩,恨 不得跪在地上,抱住你的双腿,仰望你的笑脸。。。《蛙》
(Chỉ cần em cười là tôi đã cảm thấy đầu óc mình choáng váng,
tiếc là không được quì xuống đất để ôm lấy chân em, ngước lên và
nhìn khuôn mặt đang cười của em.) (Ếch)
Trong câu phức giả thiết nói chung, phân câu phụ nêu ra một giả thiết,
phân câu chính nói rõ trong tình huống như thế này thì kết quả mới xuất hiện.
Trong khẩu ngữ thường có các từ nối.
Biểu thức: 要(是)…,(就)…
如 果… ,(就)…
Tiếng Việt: Nếu ….thì….
Cấu trúc này dùng nhiều để thề nguyền, cam kết. Ví dụ:
(7)
从那一刻起,直到现在,直至永远,我这颗心,就全部属于你了。你如果想吃我的心,我就会毫不犹豫 地扒给你。《蛙》
(Từ đó cho đến bây giờ và
có lẽ là vĩnh viễn, trái tim tôi đã hoàn
toàn thuộc về em. Nếu như em
muốn nhai muốn nuốt nó, tôi sẵn sàng móc nó ra mà không có chút do
dự nào.) (Ếch)
(8) 好,我发誓:如果我泄露了王肝的秘密,就让我掉到河里淹死。《蛙》
(Được! Tôi thề – Nếu tôi mà làm lộ bí mật của
Vương Can thì tôi sẽ rơi xuống sông chết đuối.) (Ếch)
(9)
最亲爱的,如果我为你吐血而死,你如果能开恩,到我坟头前看一眼,我 就心满意足了。 《蛙》
(Em yêu, nếu
tôi vì em hộc máu chết thì em có thể khai ân đến phần mộ tôi nhìn
thoáng qua thôi. Như thế là tôi đã toại nguyện lắm rồi.) (Ếch)
(10) 五十岁女人的脖子如果不像一截臃肿的大肠便像一段腐朽的枯木。《丰乳肥臀》
(Nói đàn bà
năm mươi tuổi cái cổ nếu không bùng
nhùng như một khúc dồi thì cũng khô như một củi mục.) (Báu vật của đời)
Cần lưu ý là, nếu sau “要是” là động từ “是” thì một chữ “是” phải được lược bỏ theo qui
luật tiết kiệm của ngôn ngữ. Ví dụ, một người đàn bà trong “Trâu thiến” khi chồng
hỏi “nhà còn trứng không” đã dùng cấu trúc này để nhấn mạnh phủ định:
(11)
麻婶道:“鸡蛋?我要是母鸡,就给你们现下几个。” 《牛》
(Trứng à? Nếu tôi là gà mái , tôi
sẽ cố rặn ra cho ông mấy quả ngay bây giờ – Thím Quản cong
cớn.) (Trâu
thiến)
Trong vế phụ, từ nối “要是”/ “如 果”
(nếu/ nếu như) có thể lược bỏ. Ví dụ:
(12) 无论如何, 你娘不能再生了, 再生她的*就拖到地上了。《蛙》
(Cho dù thế
nào thì mẹ cháu cũng không thể sinh nở được nữa, sinh nữa thì e là
tử cung của bà ấy sẽ tòi ra ngoài luôn đấy.) (Ếch)
Trong nhiều trường hợp, vế chính cũng có thể lược bỏ từ nối 就 (thì) và thay bằng động từ năng nguyện. Ví dụ:
(13)
我要娶她做老婆, 弄不好会被她打死。《牛》
(Tôi mà cưới cô ta làm vợ,
nếu làm không tốt vai trò của
người chồng chắc là tôi bị cô ta đánh chết.) (Trâu
thiến)
Nói chung, trong loại câu phức
giả thiết biểu thị khoa trương, hai vế được nói tới là hai
việc tương quan, nếu thừa nhận sự việc nói tới ở vế trước là xảy ra thì cũng thừa
nhận sự việc nói ở vế sau sẽ xảy ra. Như vậy, ý nghĩa khoa trương nằm ở vế
chính hoặc cả hai vế. Ví dụ:
(14) 计划 生育不搞不行,如果放开了生,一年就是三千万,十年就是三个亿,再过五十年,地球都要被中国人给压偏啦。 《蛙》
(Sinh đẻ có kế hoạch không thể không
thực hiện, cứ đẻ thoái mái mỗi năm tăng ba mươi triệu nhân khẩu, mười
năm là ba trăm triệu, cứ thế năm mươi
năm nữa trái đất này bị người
Trung Quốc đè cho biến dạng méo mó mất thôi.) (Ếch)
(15) 胎儿的性别, 怎么 能转换呢?我如果有这神通, 早就得了诺贝尔医学奖了是不是?《蛙》
(Giới tính của thai nhi làm sao có thể
thay đổi được? Nếu ta có phép thần
thông như vậy e rằng ta đã nhận giải Nobel y học từ lâu rồi!) (Ếch)
Trong
trường hợp mệnh đề phụ đã được đề cập tới, có thể dùng “否则” (bằng không / nếu không thì) để thay thế
cho mệnh đề phụ biểu thị ý nghĩa nếu
không như vậy thì. Ví dụ:
(16) 中队长说,也幸亏了他这本日记,才让你姑姑得到了解脱, 否则,她就是跳进黄河也洗不清楚了。《蛙》)
(Trung đội trưởng nói: - May mà có cuốn nhật
kí này nên cô của cháu mới được giải cứu. Nếu không cô ấy có nhảy xuống Hoàng Hà cũng
không tẩy hết được vết nhơ!)
(Ếch)
4. Sử dụng các phương tiện và biện pháp tu từ biểu thị
khoa trương
4.1. Sử dụng nhân cách hóa biểu thị khoa trương
Nhân cách hóa là một biện
pháp tu từ lấy vật bao gồm vật thể, động vật, tư tưởng hoặc khái niệm trừu tượng
làm cho chúng có diện mạo, cá tính, tính cách, hoặc tình cảm.
Nhân cách hóa là một
biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta lấy những từ ngữ biểu thị
thuộc tính, dấu hiệu của con người để biểu thị thuộc tính, dấu
hiệu không phải con người, nhằm làm cho đối tượng được miêu tả trở nên
gần gũi dễ hiểu hơn, đồng thời làm cho người nói có khả năng bày
tỏ kín đáo tâm tư thái độ của mình. Nhân cách hoá biểu thị khoa trương của
Mạc Ngôn có mấy loại chính sau:
4.1.1. Nhân cách hóa động vật, thực vật
Là biến động thực vật cũng
có tâm tư tình cảm như con người. Ví dụ:
(17) 鱼儿欢快又感动地啄着你的乳头,你的双乳照亮了幽暗的水面。《丰乳肥臀》
(Đàn cá nhỏ
vui vẻ và cảm động đụng vào vú chị. Hai gò vú làm sáng bừng mặt
nước.) (Báu vật của đời)
4.1.2. Nhân cách hóa sự vật.
Là biến sự vật, những vật vô
tri vô giác cũng có tâm tư tình cảm như con người. Ví dụ:
(18) 老金终于筋疲力尽地被他摆平了, 他不顾一切地把头扎到她的怀里, 深深地把 她的乳头吸进口腔, 那股贪婪的劲头儿, 似乎要把她的整个乳房生吞掉一样。《丰乳肥臀》
(Lão
Kim cuối cùng cũng kiệt sức …, cái vẻ
tham lam ấy dường như muốn nuốt chửng cả bộ ngực của cô.) (Báu vật của
đời)
(19) 他看到张牙舞爪的大栏市正像个恶性肿瘤一样迅速扩张着,一栋栋霸道蛮横的建筑物疯狂地吞噬着村庄和耕地。《丰乳肥臀》
(Anh thấy thành phố Đại Lan giơ nanh múa
vuốt, phát triển với tốc độ ung thư ác tính. Những ngôi nhà cao tầng ngỗ ngược, điên cuồng nuốt chửng thôn
xóm và đất trồng trọt.)
(Báu vật của đời)
(20) 杜大爷背靠着铁门,浑身哆嗦,哆嗦得很厉害,哆嗦得铁门都哆嗦。《牛》
(Ông Đỗ vẫn ngồi im, dựa lưng
vào cổng sắt, toàn thân đang run, không phải run nhẹ mà run lên bần
bật, run đến nỗi cái cổng bằng sắt
cũng run theo.)
Trong những
câu trên, tác giả nhân cách hóa sự vật “cái vẻ tham lam muốn nuốt chửng”, rồi
“cái cổng sắt cũng run lên”.
4.2. Sử dụng phép hoán dụ biểu thị khoa trương
Tác giả Trần Vọng Đạo trong
“修辞学发凡” (Tu từ học phát phàm) lần đầu tiên đã đưa ra định nghĩa về phép
hoán dụ: “Sự vật được nói tới tuy rằng
không có điểm tương tự với sự vật khác, giả sử khi giữa chúng còn có quan hệ
không thể tách rời, tác giả có thể mượn tên của sự vật có quan hệ đó thay cho sự
vật được nói tới. Cách mượn như vậy gọi là phép hoán dụ tu từ” [93]. Nghĩa
là, không nói thẳng ra tên người hoặc sự vật mà mượn tên của sự vật có quan hệ
mật thiết với nó thực hiện phép thay thế.
Phép hoán dụ tu từ được chia
thành nhiều loại khác nhau. Theo quan sát của chúng tôi, trong tác phẩm của
mình Mạc Ngôn thường dùng hoán dụ kiểu “cái bộ phận thay cho cái toàn thể”. Ví
dụ:
(21)
我知道陈鼻这样说是出于对我 ái的嫉妒,他生在我们 村长在我们村,连条苏联狗都没见着,如何知道苏联飞行员比中国飞行员技术好呢?(莫言《牛》)
(Tôi biết nó nói như vậy là vì nó đang đố kị
với tôi. Nó sinh trong thôn, lớn lên trong thôn, ngay cả một con chó Liên Xô cũng chưa gặp thì làm thế nào
mà biết được kĩ thuật của phi công Liên Xô hơn phi công Trung Quốc?)
(22) 你休想, 王仁美把一面镜子摔在地上,大声喊叫着,孩子是我的,在我的肚子里, 谁敢动他一根毫毛,我就吊死在谁家门槛上。《蛙》
(Con là của tôi, nó nằm trong bụng tôi.
Ai dám động đến một sợi lông của
nó tôi sẽ treo dây lên xà nhà của người đó thắt cổ chết.)
Ở ví
dụ (23), “con
chó Liên Xô” thay cho “cả nước Liên Xô”; ở (24) “một sợi lông của nó” thay cho “cơ
thể nó”. Cũng như vậy ta có thể kể ra một số ví dụ khác:
(24) 那时候我正处在爱热闹的青春前期,连村子里的狗都讨厌我。《牛》
(Thời ấy tôi còn là một
đứa trẻ, chỉ thích xem những trò vui, thích tham gia vào những chuyện
ồn ào, ngay cả chó trong thôn cũng
chẳng ưa gì tôi.)
Ở đây, “chó trong thôn” cũng là bộ phận
thay cho “cả thôn” là toàn thể; ý nghĩa của câu là “cả thôn đều ghét tôi”. Lại
nữa:
(25) 信中说如果他敢伤万六府三位亲人一根毫毛,胶东军区将集合全部兵力攻打平度城。《蛙》
(Trong thư nói, nếu Sugutani dám động đến một sợi lông ba người
thân của Vạn Lục Phủ thì quân khu Giảo Đông sẽ tập hợp lực lượng
toàn quân khu để san thành Bình Độ thành bình địa)
(26) 王脚说:肖下唇你个小杂种,你要敢动王肝一指头我就挖出你的眼珠儿!《蛙》
(Vương Cước nói: “Mày là đồ tạp chủng.
Mày dám động đến một sợi tóc của Vương Can là tao móc đôi mắt mày
ra!”)
Ở đây (25) và
(26), Mạc Ngôn đã hoán dụ “một sợi lông”, “một sợi tóc” thay cho cả “cơ thể”.
Ngoài ra chúng
tôi còn nhận thấy, Mạc Ngôn còn sử dụng hoán dụ những việc bình thường nhất
thay cho những công to việc lớn hay những việc lớn lao. Ví dụ, ông miêu tả dân
quân đi chăm sóc cả những việc như “tiểu, đại tiện”:
(27) 于是大喇叭里不停地广播,让各村的 贫下中农提高警惕,防止阶级敌人的破坏活动。各个村就把所有的“四类分子”关到一起看守起来,连大小便都有武装民兵跟随。(莫言《牛》)
(Loa phóng thanh
trong trong toàn bộ công xã mở hết công suất suốt ngày đêm chỉ phát đi một nội dung duy
nhất là yêu cầu bần hạ trung nông khắp các thôn trong toàn công xã
phải đề cao âm mưu chống phá cách mạng của kẻ địch, yêu cầu các thôn
phải quản thúc thật chặt bốn thành phần phản động trong thôn mình, ngay cả chuyện đi đái đi ỉa cũng phải
có dân dân quân đi kèm.)
4.3. Sử dụng so sánh tu từ “X 是 Y”
(X như Y) biểu thị khoa trương
Trong văn Mạc Ngôn, hệ từ
“是”
(là) có thể được thay thế cho những từ
so sánh, và đó là câu biểu thị so sánh thuần túy.
Biểu thức : X 是 Y. Ví dụ:
(28) 无论从哪个部位看她都不像一个五十多岁的女人, 她是一朵冷藏了半个世纪的花朵。(莫言《丰乳肥臀》)
(Dù nhìn ở góc độ nào thì chị ta cũng không
giống một phụ nữ ngoài 50. Chị là một bông hoa ướp lạnh suốt một phần hai thế kỉ.)
(29) 她是南极最高峰上未被污染的一块雪。雪肌玉肤,冰清玉洁,真正的,不搀假的。《丰乳肥臀》
(Chị là khối tuyết
trên đỉnh núi ở châu Nam cực, không hề vẩn bụi. Trong ngọc trắng
ngà, hoa nhường nguyệt thẹn, một cái đẹp đích thực.)
Ở đây, ta phải hiểu là: 她如一朵冷藏了半个世纪的花朵 (Chị như một bông hoa ướp lạnh suốt một phần
hai thế kỉ.) và她如南极最高峰上未被污染的一块雪 ((Chị như khối tuyết trên đỉnh núi ở châu Nam cực,).
Trong câu, (就)是vốn là một động từ phán đoán, cho nên khi được sử dụng trong
cấu trúc này, cả cấu trúc còn mang sắc thái khẳng định vốn có của động từ. Tuy nhiên, hình thức so sánh tu từ dùng “(就)是” cũng khác với phán đoán
logic có công thức “S是 P” (S là P).
Chính vì vậy, có người không cho rằng “是” là thành tố trong phép so
sánh. Tuy nhiên căn cứ vào ngữ nghĩa chúng tôi cho rằng “是” không những có khả năng biểu
đạt so sánh mà còn có khả năng biểu đạt khoa trương. Ví dụ:
(30) 姑姑感慨地说,那时所有的人都疯了,想想真如一场噩梦,姑姑说,黄秋雅是个伟大的妇科医生,即便是上午被打得头破血 流,下午上了手术台,她还是聚精会神.《蛙》
(Nhưng
Hoàng Thu Nhã vẫn là một bác sĩ sản phụ vĩ đại, thậm chí buổi sáng bị đánh cho sứt đầu mẻ trán
thì buổi chiều bà ấy vẫn đứng trên bàn mổ, bà ta vẫn tập trung tinh
thần.) (Ếch)
Ông
có lần dùng cấu trúc này để gọi bà cô trong “Ếch” là “bác sản phụ thiên tài”;
ví dụ:
(31)
姑姑是天才的妇产科医生,她干这行儿脑子里有灵感,手上有感觉。《蛙》
(Phải
thừa nhận cô tôi là một bác sĩ sản
phụ thiên tài, khi làm việc này hình như trong đầu cô luôn luôn có
linh cảm, tay cô có cảm giác.) (Ếch)
5. Kết
luận
Khoa trương trong các tác phẩm của Mạc
Ngôn hết sức đa dạng và phong phú. Chính vì vậy nó làm tác phẩm của Mạc Ngôn
thêm hấp dẫn lôi cuốn người đọc.
Hầu hết các lớp từ loaị cơ bản tạo
nên từ vựng tiếng Hán như động từ, danh từ, số từ, đại từ và thành ngữ…. đều có thể sử dụng để khoa trương.
Không chỉ ở cấp độ từ mà Mạc Ngôn còn
khoa trương ở cấp độ câu. Ngoài bổ ngữ trình độ ông còn dung câu có cấu trúc cường
điệu và thủ thuật nhân cách hóa để khoa trương và tạo nên nét độc đáo trong văn
chương. Bài viết này giới thiệu tổng quan về khoa trương ở cấp độ câu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cù Đình Tú (2007), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb Giaó
dục.
2.
Đào Thản (1990), Lối nói phóng đại
trong tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ.
3. Đinh Trọng Lạc (2005), Phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb Giaó dục.
4.
Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa (2006), Phong cách học tiếng Việt, Nxb
Giaó dục.
5. Hữu Đạt (2001), Phong
cách học tiếng Việt hiện đại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Nguyễn như Ý (2002), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
7. Viện Ngôn ngữ học, Từ
điển Anh Việt, NXB Khoa học Xã hội
8. 黄伯荣,廖序东 (2002)“现代汉语”,高等教育出版社。
9. 王希杰 (2007)“汉语修辞学”,商务印书馆。
10.张挥之(2002)“现代汉语” 高等教育出版社。