ĐỌC BÀI THƠ “QUÊ NGHÈO” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
QUÊ NGHÈO
Quê
tôi nghèo lắm
Vẫn
lác đác nhà tranh
Vẫn
tiếng thở dài những chiều giáp hạt
Vẫn
bát cơm chan mồ hôi mặn chát
Cha
cả đời lam lũ
Mẹ
một đời chắt chiu
Khoai
sắn vẫn len vào giấc ngủ
Tuổi
thơ tôi đói ngủ
Thương
cánh cò bấu bíu lời ru.
Quê
tôi nghèo lắm
Phiên
chợ còn èo ợt nghèo hơn
Dăm
ba nải chuối
Vài
mớ rau tươi
Mẹt
sắn, mẹt ngô
Í
ới mời chào cao hơn mời cỗ
Lèo
tèo dăm người bán
Lẻ
tẻ mấy người mua
Ế
bán
Chán
mua
Phiên
chợ quê xác xơ già cỗi.
Quê
tôi nghèo lắm
Lũ
trẻ gầy như con cá mắm
Lũ
trai mặt mũi mốc meo
Gặm
nhấm nỗi đau nghèo khó
Nơm
nớp âu lo đời như chiếu bạc
Thương
con cò con vạc
Mỏi
cổ chồn chân trên đồng đất của mình.
Quê
tôi nghèo lắm
Nước
mắt rơi từ thời chị Dậu
Tiếng
oan khiên từ thời Giáo Thứ
Âm
ỉ bủa quanh
Bám
đeo đặc quánh
Chiếc
cổng làng dựng lên thật đẹp
Sừng
sững bê tông cốt thép
Ngạo
nghễ tượng đài
Ngạo
nghễ trần ai
Chiếc
cổng làng thành tai hại
Giam
hãm đời người
Tù
túng giấc mơ.
Quê
tôi nghèo
Nghèo
cả giấc mơ...
Hưng
Yên, chiều 29 tháng 12 năm 2014
ĐẶNG
XUÂN XUYẾN
LỜI BÌNH:
Là người
Việt Nam không ai không biết tới cảnh nghèo, cái đói đã đeo bám dân
tộc ta từ những ngàn đời. Cảnh đói ăn, thiếu mặc, bán vợ, đợ con đã in đậm vào
những trang văn, những bài thơ từ thuở ông cha biết dùng chữ viết ghi lại cùng
con cháu hôm nay. Nhiều câu thơ, trang văn đã làm rơi lệ người đọc, thương cho
số phận người xưa, lại thương cho phận số chính mình. Cuộc cách mạng năm 1945
giành lấy chính quyền từ chế độ vua quan phong kiến, thực dân cai trị, người
nghèo làm chủ lấy vận mệnh của mình với bao hy vọng đẹp tươi, xây dựng một xã
hội ấm no, công bằng, người không còn bóc lột người… nhưng con đường ấy chưa
biết bao giờ tới đích. Sau những bộ mặt đô thị, thành phố tập trung được xây
dựng khang trang đẹp đẽ, vẫn còn những làng quê chưa thoát khỏi cảnh nghèo:
Vẫn lác đác nhà
tranh
Vẫn tiếng thở dài
những chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan
mồ hôi mặt chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt
chiu
Khoai sắn vẫn len
vào giấc ngủ…
Bộ mặt đời sống
mỗi vùng quê mỗi nơi tuy có khác nhau nhưng nhìn chung vẫn chưa nhấc nổi bàn
chân thoát khỏi cái vòng nghèo khó. Bây giờ không còn đói dài đói rạc, không
còn quần mảnh áo manh, sự nghèo khó lại mang bộ mặt khác. Nhìn từ bên ngoài
Chiếc cổng làng
dựng lên thật đẹp
Sừng sững bê tông
cốt thép
Ngạo nghễ tượng
đài…
Chiếc cổng làng
thành
Giam hãm đời
người
Tù túng giấc mơ!
Còn đời sống thật
bên trong, văn hóa, hiểu biết, kiến thức, khoa học, tục lệ, lễ nghi… vẫn chưa
nâng con người thêm lên là bao. Thật buồn cười, hàng ngày qua đài báo ta cứ
nghe ra rả những lời nói đẹp: “cán bộ là đầy tớ của nhân dân!” nhưng nhìn vào
anh chị cán bộ nhỏ bé nhất của làng ai cũng quần là áo lượt, còn nhân dân thì
áo đẫm mồ hôi, quần quật nắng sương lại được tiếng là ông chủ của đất nước.
Trong khi mảnh đất hẹp của chính mình vẫn cày cuốc, người tà có thể lấy đi để
mua bán đầu từ cho những tập đoàn tư sản nước ngoài năm, bảy chục năm, lấy tiền
bỏ túi nhà nước thì ít, còn túi những ông bà đầy tớ, chỉ một hai khóa nắm quyền,
là có thể tậu nhà mặt phố, thị trấn, thành người của lớp giàu sang. Còn dân đen
thì phải rời nhà, rời cả mồ mả tổ tiên và được cái tiếng là người có quyền làm
chủ… Trong một bài thơ Đặng Xuân Xuyến khó nói hết điều này nên sau những câu
thơ khắc họa cái nghèo rất thực:
Quê tôi nghèo lắm
Lũ trẻ gầy như
con cá mắm
Lũ trai mặt mũi
mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau
nghèo khó
Mà cuộc sống khổ
nghèo trì trệ, tù đọng ấy cũng đâu yên ổn:
Nơm nớp âu lo
Đời như chiếu bạc
Nay hãy biết nay,
còn mai chưa biết thế nào.
Hình ảnh trong
bài thơ của Đặng Xuân Xuyến viết là những làng quê của vùng khoai lúa cây trồng
nơi những vùng đồng bằng ít biến động bởi thiên tai bão tố. Nước ta với hơn ba
nghìn cây số biển dài còn bao làng quê sống nghề chài lưới. Mỗi gia đình ở đây
còn nơm nớp bao nhiêu khi đặt cược đời mình nơi những chiếc phao nổi nênh mặt
nước. Dù không giàu có nhưng sống nhờ con tôm, con cá …qua ngày. Bỗng nhiên
người ta bán đất đầu tư cho nước ngoài gần cả trăm năm. Công nghiệp đem được
lợi ích gì cho những người dân chài lưới chưa thấy đâu, đã gây nên vụ ngộ độc
suốt dải biển bắc miền Trung cá chết, đã hơn hai tháng nay chưa tìm được nguyên
nhân. Tuy được cho cơm gạo cầm hơi để sống, để nhìn ra biển. Nỗi đau dân chài,
tự dựng rơi lại vào cái bẫy khó nghèo, so với nỗi sợ, nỗi lo ở những làng quê
đời sống dân chài còn nơm nớp bấp bênh hơn. Đúng là “Đời như chiếu bạc” mình
không đánh bạc mà bị trắng tay… Nỗi buồn lo đến vậy cả một dải đất miền biển,
nhưng trên báo chí truyền thông ta chỉ được đọc một hai bài thơ đồng cảm với
biển, chứng tỏ còn một nỗi đáng sợ hơn là lòng người bây giờ, tuy vẫn cười vẫn
nói cùng nhau nhưng thứ tình nghĩa quê kiểng xóm làng sống không còn ấm áp “Tắt
lửa tối đèn” như xưa.
Giữa không khí
thơ như thế bài thơ của Xuyến như đốm lửa tình người vẫn còn lửa hồng than đỏ,
hàng ngày sống giữa những cạnh tranh giành giật phố phường mà còn gửi được hồn
mình ở nơi tình người và cảnh vật lẻ loi là thật đáng quý:
Phiên chợ quê còn
ẽo ợt nghèo hơn
Răm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn mẹt ngô
Í ới mời chào…
Ế bán
Chán mua
… Chợ quê xác xơ
già cỗi
Bài thơ “Quê
nghèo” của Đặng Xuân Xuyến cho ta cái tình, tình người muôn thuở. Làng thơ
Việt Nam bây giờ có nhiều người giàu có, quyền tước ngất trời muốn
mượn thêm thơ để làm phật đạo, rằng mình cũng hiền, cũng triết, cũng thanh cao,
đã mượn cả danh của hội nhà văn Việt Nam để in sách, mời những nhà
thơ có tiếng để hội thảo, in song ngữ, tam ngữ, quảng bá rùm beng như đám rước
hội làng, nhưng thơ nhạt thếch, bởi lòng họ còn đâu thứ tình người lửa khói.
Tình người đã cạn kiệt còn lấy gì để rung ngân… Trái tim không còn nhói đau khi
chạm phải “cái nghèo” cái bất công hàng ngày vây bủa thì còn đâu thơ phú…
Hà Nội, ngày
16 tháng 6 năm 2016
Nhà thơ CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì,
Hà Nội.
Điện thoại:
01658818263