Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Tuesday, June 15, 2021

GÓI NẮNG QUÊ - Chùm thơ Phong Nguyễn

 

Nhà thơ Phong Nguyễn

Gói nắng quê

               Phong Nguyễn


Nếu em có về thăm quê cũ

Nhớ gói dùm anh chút nắng thừa

Gói trong áo lụa màu nắng sớm

Một ít tình quê buổi ban trưa

Gói thêm ít gió lào ran rát

Cho đủ.. mùi hương.. cái nắng quê

Xin em... chớ hỏi vì sao lại

Anh muốn.. tháng năm..nắng đem về

Nếu em có về thăm quê cũ

Tìm lại dùm anh góc nhớ xưa

Một chùm hoa khế.. rơi từ dạo

Trên mái tóc thề gió lay đưa

Tìm thêm sắc tím.. mùa sen nở

Để nắng.. pha thêm.. một chút nồng

Dù cho trong hạ.. trời đang chướng

Xin nhớ tìm cho.. chút nhớ thương

Bởi lòng anh đó! Ngu ngơ lắm...

Cứ mãi hoài mong... mãi vấn vương...

    -- 16-7- 2021 PN


Vết lăn trầm

             Phong Nguyễn

Mẹ về!!

Vai nặng gánh sầu

Gánh đêm thao thức

Gánh bầu tuổi thơ

Gánh cơn mưa nắng đôi bờ

Gánh lưng bát gạo

Gánh cờ lau reo

Mẹ về!!

Dốc gánh lưng đèo

Gánh mùa hạ trắng.

Gánh nghèo xác xơ

Triền đê gánh gió cồn trơ

Gánh bâu áo rách

Nghiêng bờ cát doi

Mẹ về!!

Kết sợi tao nôi

Gánh câu hò giữa đứng ngồi trăm năm

Đêm chong đèn gánh xa xăm

Gánh chân con cứng bóng râm đá mềm

Bây chừ thôi gánh mẹ nằm

Mà nghe!!

Rưng rức

Vết trầm thương đau

            6-5-2019 PN

  

Em có về quê

                   Phong nguyễn

Tết ni!

Em có về quê không...

Xem lại giùm anh nắng có hồng

Vườn trầu thuở ấy còn xanh lá

Cau trổ đài chưa... khế đơm bông

Mấy chùm dâm bụt lay đầu ngõ

Sắc đã hồng thêm nhụy có nồng

Bướm hoa dạo ấy còn bay tới

Thăm lại vườn xưa hoa cải ngồng

Tết ni!

Em có về quê không...

Mai già gốc đã kịp ươm bông

Lụa xanh áo ấy ai còn mặc

Guốc mộc... quần hoa buổi chợ đông

Em tìm coi thử... góc bên nớ

Lão có còn không... câu đối hồng

Chao ôi!! Đã biệt bao mùa vắng

Chẳng biết chừ đây có ai mong..

Tết ni!

Em có về quê không...

Từ dạo người đi với pháo hồng

Ta cũng xa quê ngần độ ấy

Áo sờn.. nhuộm bạc bước trầm phong

Bổng dưng nhớ lại mùa xa cũ

Tháng chạp bây chừ gió còn đông

Vườn xưa như thoảng hương bồ kết

Với dáng ai cười... đôi mắt trong...

Tết ni! em có về quê không?..

      10-1-2020 PN

READ MORE - GÓI NẮNG QUÊ - Chùm thơ Phong Nguyễn

ĐÁ DẾ NGÀY XƯA - Đinh Hoa Lư

 


ĐÁ DẾ NGÀY XƯA

Thuơng tặng tuổi thơ Quảng Trị

Đinh Hoa Lư 

 

  Tháng này Quảng Trị đang vào hè. Thầy cô cùng các em học trò chắc đang nao nức đón chờ mùa nghỉ hè đang tiến gần.

 

Tôi không bao giờ quên cái nắng quê nhà. Làm sao quên được  ngọn gió Lào  thổi qua  xứ mình.  Nắng nóng hầm hập, quay quắt, như "nung da đốt thịt"! Thế mà các cô cậu học trò Quảng Trị (cũng như tôi) ngày xưa nôn nao thu cặp, xếp vở, đón hè với bao háo hức mong đợi.

 

Người kể chuyện xin gác qua chuyện "cành phượng hồng" hay  ve sầu nỉ non, xin dành cho thời trung học - biết yêu, mơ mộng, tương tư, nhung nhớ...

 

Hai em trai tôi và lũ bạn 1968 phường Đệ Nhất QT


 Tôi viết để nhớ về tuổi nhỏ cùng những vui thú hồn nhiên mà đời người ai cũng qua một lần, không bao giờ có lại: lớp ba, lớp tư, nhảy dây "ù mọi", 'đánh căng', thả diều, đá lon cùng sau hết là... ĐÁ DẾ !

 

   Ôi chao! năm mươi năm, rõ ràng đúng nửa đời người. Thế mà tôi vẫn chưa quên con "dế nhất" ngày đó. Con dế này tôi kể với bạn nghe, không phải chỉ về bờ sông An Tiêm, phăng mấy dây dưa rồi kiếm ra dế. Tôi phải làm một chuyến "phiêu lưu" qua tận Thôn Ái Tử bên kia để đổi dế...

 

CUỘC 'PHIÊU LƯU' ĐI ĐỔI DẾ

 

Có một ngày tôi bạo gan đi bộ một mình qua cầu Ga, rồi lần theo Quốc Lộ. Qua khỏi Cầu Ái Tử, tôi đi băng qua bãi cát Ái Tử để tới một thôn làng sau lưng Chùa Sắc Tứ. Từ bên này thành phố tôi đi như một chuyến "phiêu lưu mạo hiểm". Có một đứa bạn tiểu học của tôi ở bên thôn Ái tử nhưng giờ này tôi quên mất tên?  Thời này chưa có Căn Cứ Mỹ, tôi  vượt qua bãi cát mênh mông  lác đác vài đám mồ hoang. Những cồn cỏ nối tiếp, xa xa trong kia làng mạc thưa thớt. Có những con sơn ca thay nhau bay lên cao đập cánh đứng yên liên hồi kêu lảnh lót. Con này kêu xong từ từ hạ cánh, lạ thay! con khác tiếp tục bay lên, lại đập cánh đứng yên rồi hót liên hồi...

 

Một khung cảnh hoang sơ, vắng lặng khiến tôi cảm khoái vô cùng. Bao nhiêu cảm giác mệt mỏi, sợ sệt tan biến. Có một chuyến 'du ngoạn' một mình xa như thế thật thích thú biết chừng nào!

 

ĐỔI DẾ RA SAO?

 

Giờ tôi kể các bạn nghe chuyện "đổi dế" của tôi ra sao?

 

Tôi mang "vật phẩm, hàng hóa" từ thành phố qua chốn này đổi chác với đứa bạn bên làng Ái Tử này là những gì?

 

 Đứa bạn học bên này thích nhất là mấy cái thuớc màu cùng cán viết tất cả đều làm bằng nhựa. Chắc bạn đọc còn nhớ, một thời đồ nhựa 'lên ngôi' thay cho mấy cái thuớc  gỗ hay cong cùng lấm mực. Đó là là "thời đại ĐỒ NHỰA":  từ thước, cán viết, ê ke vẽ hình ...bằng nhựa. Phải kể đến bình mực không chảy cho đến cái bi đông học trò bới nước bỏ hạt é vào đã qua thời đại đồ  "CHAI NHÉM LÁ CHUỐI " ...tất cả đều làm bằng nhựa tuốt luốt !

 (Người viết xin giải thích thêm: đựng nước thì kiếm ra cái chai không, nhưng nắp đậy có khi phải lấy lá chuối cuốn lại nhém lại. Những chai đựng nước mắm trong bếp vào thời này có khi cũng nhém bằng lá chuối cuốn lại như đã tả trên.)

 

Ngang đây người viết xin lắng hồn tưởng niệm thầy Quảng. Nếu ai ở xóm Góc Bầu hẳn nhớ thầy Quảng dạy tiểu học. Thầy là con của ông Quản Hiệt. Cái nhà gạch xưa lợp ngói âm dương nằm ngay Ngã Ba Góc Bầu. Thầy Quảng là người yêu chị Đinh thị Biên tôi tha thiết. Những cái hộp thước, cán viết nhựa mới toanh này là do Thầy tặng tôi.

 

Tôi nhớ thời gian này tôi còn học lớp nhất chưa thi vào đệ thất trường Trung Học Nguyễn Hoàng. Tuổi nhỏ ham chơi nhất là đá dế, lại nhờ vào mấy cán viết nhựa, thước nhựa làm 'vật trao đổi' với mấy con dế bắt từ vùng đất ÁI TỬ thì làm sao tôi quên được?

 

 Tôi lại lan man mất, xin nói cho rõ vào đây cái bi đông  của tôi ngoài hạt é ra còn hòa nước đường nữa chớ!...và đứa bạn nào tôi thuơng thì cho nó một nắp bi đông. Đúng vậy tình cảm bạn nhỏ với nhau tính bằng nắp bi đông, dụng cụ 'đo lường' có sẵn trong tay lúc đó.

 

Như vậy thì đứa bạn bên thôn Ai Tử này mà tôi đang kể sao mà không mê mấy cái cán viết và thuớc nhựa của tôi còn "cáo cạnh" màu mới toanh !?. thế là hắn không tiếc gì mấy con rế nhất  liền đổi cho tôi ngay thôi. Hắn không quên bỏ vào trong cái lon vài ngọn rau lang , vài miếng dưa cho mấy con dế  "giải khát " trên đường tôi mang chúng về nhà.

 

CON DẾ NHẤT CỦA TÔI

 

Kể cũng lạ? trong mấy con dế tôi vừa kể có con dế than trông nó khác hơn những con rế thuờng ngày. Bụng dưới của nó dài không bình thuờng nên phần cánh càng trở nên cụt ngủn. Khi vừa mang ba con rế này về nhà được một ngày  tôi cho chúng 'chiến đấu' với mấy con trong xóm ngay. Dế hai anh em thằng thằng Nàng, thằng Sừng xóm trên kể cả con dế lửa của thằng Bốn ở tuốt xóm ngoài ruộng chúng cũng bị con dế than bụng dài của tôi hất văng "xiểng niểng"!

 

Tôi càng khoái, càng thấy mấy cái thuớc và cán viết nhựa của tôi đem đổi chẳng thiệt chút nào.

 

Càng đem con dế 'bụng dài' đi đá xa tận xóm thằng Lợi (em anh Nguyễn Lam), thằng Lép, thằng Mẹo gần Hồ Cá Phi, tôi càng 'chiến thắng vinh quang'! Con dế than tuy bụng dài cục mịch nhưng phải chăng lợi thế của nó nhờ vậy mới nặng ký hơn đối phương? Đặc biệt hai cái hàm của nó đi rất sát chẳng bao giờ nghểnh cao rồi từ đó:

 

 A lê hấp! hất một cái là đối phương té ngửa!

 

Kể cũng lạ? con dế  nhất này thắng xong nó 'chẳng thèm' rung cánh kêu vang như các con bình thường khác. Thường dế đá thắng, nó  hay rung cánh kêu vang nghe 'điếc'  cả tai!

 

  Số phận mấy con dế "chiến bại" của mấy đứa bạn tôi thật thê thảm! Con nào không "tạo dựng được cơ đồ" hay  bị mấy đứa bạn ngứt đầu để chọc cho con dế khác "sực".  Có 'sực' cỡ nào cũng thua con dế nhất của tôi.  Thú thật, tôi chưa hề ngứt đầu con dế nào cả. Muốn dế sực tôi chỉ dùng tóc để quay. Có khi tôi dùng tóc quàng qua khe cổ của con dế, đây là cách quay thông thuờng. Có khi tôi lại quàng sợi tóc giữa ngách giữa chân sau và thân con dế, vừa xoay miệng tôi vừa thổi. Đứa nào cũng chúm miệng thổi vù vù. Mấy cái cánh dế bung ra tưởng chừng rụng hết đến nơi? Hai đối thủ bắt đầu sực, chúng rung cánh kêu lên vài tiếng 'thách thức' rồi lao vào quyết chiến.

 

Những ngày hè thú vị tiếp diễn, con dế nhất kia chưa hề 'chiến bại'? Tôi tin nhờ cái bụng dài quá cở dị đời, nó mới có nhiều "chiến công hiển hách" mang về cho chủ. Thật thế, con dế nhất từ đó nổi tiếng trong xóm và lan ra mấy xóm trên. Mấy đứa bạn xầm xì bàn bạc nhưng không biết tìm đâu ra con dế nào 'ngon' hơn để hất được con dế nhất của tôi?

 

Ba tôi đi làm về có một cái hộp mới bằng các-tông dùng đựng súng lục khá cứng cáp. Tôi còn nhớ bên ngoài cái hộp này có hình hai bàn tay bắt nhau, sau này tôi biết là của viện trợ Mỹ.  Tôi xin ba tôi để làm 'nhà ở'  cho con dế cưng.

 

 Ban đêm tôi để hộp dế trên thành cửa sổ ngoài trời cho dế hứng sương. Trong 'mái nhà' của dế, tôi không quên bỏ đầy đủ thức ăn vật uống cho nó. Hình như chú dế  cảm nhận sương đêm,  thỉnh thoảng nó kêu "rích rích " vài tiếng khiến bụng tôi sung sướng làm sao!

 

Ngày mai 'chú mầy'  sẽ còn đụng độ nhiều đối thủ khác...

 

Một ngày chiến đấu khác lại đến. Thật sướng làm sao! bất cứ con nào: từ con dế lửa thằng Nồng, dế dầm thằng Nàng, dế mọi thằng Sừng,  dế than của thằng Bốn và kể cả con dế kim nhanh nhất của thằng Tài đều bị con dế đen bụng dài của tôi 'đo ván' tuốt luốt!

 

CHỈ CÒN LÀ DĨ VÃNG TUỔI THƠ

 

Trưa hè, tiếng ve  kêu ing ỏi vang lên từ mấy tàng cây sầu đông. Tiếng ve trên cao cùng với tiếng ồn ào của chúng tôi phía dưới càng làm khuấy động thôn xóm thân yêu. Lạ một điều, bà con chẳng ai la rầy chi, ai nỡ phá đi niềm vui tuổi dại?

 

Đêm mùa hè khó ngủ, chúng tôi lại kêu nhau bắt cặp chơi trò đá lon, hay 'hô la manh' cho đến hơn mười giờ đêm chưa thôi. Cơn nóng ban ngày vẫn kéo dài cho tới tận khuya. Làn không khí nóng cứ day dứt mãi không thôi? Bà con chưa ai ngủ nổi! Tiếng quạt phành phạch, tiếng lũ trẻ chơi khuya,  thỉnh thoảng lại có tiếng rao bánh mỳ nghe đâu văng vẳng... 

  

Rồi cuộc chiến Mậu Thân 1968 ập đến gia đình tôi phải dời lên chợ Tỉnh trú tại Phường Đệ Nhất. Lớp em tôi như hình trên có thể không có thứ "hạnh phúc" như anh nó là dược đá dế thoả thích tại cái xóm mang tên Cửa Hậu thân thương muôn thuở. Lớp em tôi có thể có những thú vui riêng, khác lạ dành cho nơi phố thị.

 

Dù sao tôi cũng phải viết để nhắc lại một thời con nít, hồn nhiên vui thú chóng vếnh qua mau. Có khi chúng ta lại tiếc nuối vẩn vơ, nhưng thời gian làm sao trở lại? Ký ức hay trở về cho bao lớp tuổi già xế bóng. Dĩ vãng bàng bạc bay đi như đám mây  trời rong chơi, phiêu lãng. Càng già ta càng trân trọng những kỷ niệm ấu thơ, những tài sản tinh thần mà chúng ta thật lòng cất giữ trong một "ngăn tủ" nào đó trong lòng. Có những lúc trống vắng lại "lấy ra xem ". Trong ảo giác của một cuộc phiêu du ngược về quá khứ, văng vẳng đâu đây tiếng cười vui của lũ bạn trong mùa đá rế năm nào ./.

 

 

Nhớ về một thời tuổi nhỏ

Đinh Hoa Lư, 15/5/2013. 

Edit,  mùa Covid Hoa Kỳ, 15/6/2021 USA.

READ MORE - ĐÁ DẾ NGÀY XƯA - Đinh Hoa Lư

PHAN PHỤNG THẠCH (4) - Thơ Chu Vương Miện

 


PHAN PHỤNG THẠCH (4)

Chu Vương Miện

-

những thiên tài

thường chết ở tuổi 30

bạn cũng vậy

chết vào năm 32


giấc Nam Kha khéo bất bình

bừng con mắt dậy thấy mình tay zero

còn em tay chụp tay vồ

chồng em tay dắt đổ xô xuống tàu

mà đi đâu? hở về đâu?

tang thương chạy hết bến tàu chờ đi

em đi tôi chả còn gì?


cvm


READ MORE - PHAN PHỤNG THẠCH (4) - Thơ Chu Vương Miện

CON VỀ… - Thơ Đoàn Vũ

 

Nhà thơ Đoàn Vũ

                                             

 

CON VỀ…

Đoàn Vũ  

 

Con về

Mẹ

thổi cơm chiều

gió sau, trước

giật

đìu hiu tứ bề

 

hương đồng

sực nức

hồn quê

tiếng con dế gáy

ven đê

thưở nào

 

Chậm chân

rón rén

cầu ao

bỗng dưng chạm

khúc ca dao

xót lòng

 

Con thuyền Bố gối

bờ sông

trống không phận lưới

long đong phận người

Mẹ ngồi vá lại mãnh đời

nghe chừng trong Mẹ

“mệnh trời” có, không?!

 

rạ, rơm nhen lửa

trời đông

con về đối mặt - long đong

con về!...

 

Ðoàn Vũ – Hội viên hội Văn Nghệ Bình Thuận

Email: vudoan0102@gmail.com.

READ MORE - CON VỀ… - Thơ Đoàn Vũ

CỘI NGUỒN QUÊ HƯƠNG CỦA NGUYỄN HOÀNG - Lê Quang Thái

 

Lăng Trường Cơ của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng
 tại xã Hương Thọ- Thị xã Hương Thủy
Ảnh: Báo Dân Trí.

Cội nguồn quê hương của Nguyễn Hoàng

Lê Quang Thái

 

Ngày sinh, nơi sinh, ngày mất, nơi mất, nơi an táng, nơi cát táng là những mốc thời gian quan trọng, đáng nhớ của đời người và con cháu vì dân gian coi đó là thể hiện hiếu đạo đối với người đã mất, với tổ tiên, ông bà: Sống nhà thác mồ.

 

Trong các giấy tờ tùy thân thì giấy khai sinh là văn bản gốc quan trọng nhất, trên giấy này ghi rõ họ và tên, ngày tháng năm sinh, quê quán... Con cháu nhiều thế hệ sau phải ghi cho rõ, cho đúng với quê quán của Tiền nhân đã khai sáng ra dòng tộc.

 

Tuổi tác, ngày sinh, nơi sinh được ghi trong gia phả có khác với giấy khai sinh, sai chậy năm tháng với giấy khai sinh của nhiều người. Nhưng tuyệt nhiên giấy khai sinh là văn bản pháp qui, pháp định. Đối với tiền nhân thì người nghiên cứu tiểu sử và sự nghiệp đều dựa vào bản gốc gia phả hoặc sắc phong, văn bằng, học vị, văn bia, khế ước giao kèo.

 

I. NƠI SINH, NƠI MẤT CỦA NGUYỄN HOÀNG

 

Nguyễn Hoàng sinh ngày 10 tháng 8 năm Ất Dậu (28/8/1525) tại Gia Miêu ngoại trang, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hoa.  Chúa Nguyễn Hoàng mất ngày mồng 3 tháng 6 năm Quí Sửu (20/7/1613) tại Dinh Cát thuộc làng Ái Tử, huyện Võ Xương, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa, thọ 89 tuổi. An táng ở vùng núi Thạch Hãn gần sông Thạch Hãn thuộc địa phận làng cổ Thạch Hãn, làng này vào thời điểm lịch sử ấy thuộc huyện Hải Lăng, phủ Triệu Phong. Xin lưu ý đơn vị hành chính “phủ” Triệu Phong vào thời điểm năm 1613. Đời vua Duy Tân có phủ Triệu Phong (nhưng phủ lúc này tương đương với huyện dẫu rằng phủ lớn hơn huyện về đất đai và dân số cỡ bên 10, bên 8). Tiền thân của huyện Triệu Phong ngày nay là huyện Đăng Xương, cải đổi thành Thuận Xương vào năm Kiến Phúc nguyên niên, 1884.

 

Hiện nay, chưa xác định được năm cải táng mộ phần của Chúa Nguyễn Hoàng về thôn Hà Khê, huyện Hương Trà. Với tài năng và đức độ của con người phi thường, Chúa Nguyễn Hoàng giữ chức Trấn thủ Thuận Hóa vào tháng 10 năm Mậu Ngọ, 1558, rồi Tổng Trấn hai xứ Thuận – Quảng từ tháng giêng năm Canh Ngọ, 1570 cho đến ngày 3 tháng 6 năm Quí Sửu, 1613. Trong 56 năm cai trị, nhà Chúa đã mất hơn 15 năm bình định vùng biên viễn của nước Đại Việt từ ác địa trở thành thiện địa. Công lao khai hóa của Chúa thật lớn lao như trời biển.

 

II. GIA MIÊU NGOẠI TRANG (嘉苗外莊):

 

Gia Miêu là danh từ riêng chỉ tên “trang” tức trang trại, thôn ấp ở miền bán sơn địa của huyện Tống Sơn. Huyện này có tên là Tống Giang vào triều nhà Trần. Đến đầu đời Hậu Lê được cải đổi tên gọi là Tống Sơn. Huyện này gồm 31 xã, 2 bãi, 9 trang, 1 trại. Đất Gia Miêu đã được phân chia thành 2 trang là Gia Miêu nội trang và Gia Miêu ngoại trang theo làn ranh của chân dãy núi Thiên chạy dài từ phía Tây sang phía Đông. Năm 1803, vua Gia Long đổi tên Gia Miêu ngoại trang thành Quí Hương, huyện Tống Sơn thành Quí Huyện.

 

Theo tự điển Hán Việt của Thiều Chửu, chữ trang (莊) có đến 7 nghĩa; nghĩa thứ 6: lập riêng cơ sở ở ngoài thành thị cũng gọi là trang. Làng gốc thường lập thêm trang trại ở vùng núi hoặc biển. Cả hai trang nội và ngoại trước xưa được gọi tên là Bái Đáp . Ở tỉnh Ninh Bình ngày nay như xưa kia Thanh Hoa ngoại trấn có địa danh Bái Đính nổi tiếng với nhiều danh lam thắng cảnh.

 

Văn tế chiến sĩ trận vong của Tiền quân Nguyễn Văn Thành, người làng Bác Vọng, từng giữ Tống Trấn Bắc Thành dưới triều vua Gia Long có câu: “Ba nghìn họp con em đất Bái”. Đất Bái tức Bái Đáp, đầu đời vua Minh Mạng có tên Bái Trang như Ngự chế bài Minh khắc vào văn bia Triệu Tổ Nguyễn Kim ở núi Triệu Tường, trấn Thanh Hóa: “Nghĩa động quỷ thần, công tuyền vũ trụ/ Cõi trần rời bỏ/ lăng ở Bái Trang”.

 

Ở Thừa Thiên có làng Bái Đáp thuộc tổng Hạ Lang, huyện Quảng Điền. Phép dùng điển trong văn học thật thâm sâu và thâm hậu, có dụng ý xa vời vợi mà ít người tra cứu cho tận ngọn nguồn lạch sông. Thật đúng như lời cụ Huỳnh Thúc Kháng đã nói: “Học Sử nghĩa là sống với người chết, học Địa là sống với non sông”.

 

Lê Quí Đôn viết xong sách Kiến Văn Tiểu Lục vào tháng 5 năm Đinh Dậu, niên hiệu Cảnh Hưng tức năm 1777.

 

Sau 6 tháng ở Thuận Hóa giữ chức Hiệp Trấn năm 1776, Lê Quí Đôn trở về Thăng Long lãnh chức Cơ Mật sự vụ kiêm Chưởng Tài Phủ. Sách có đoạn viết:

 

“Tôi [Lê Quí Đôn] đã được coi quyển gia phả của người cháu xa đời viên Chiêu Huân Công (昭勳公) xuất trình. Trong phả có chép việc về năm Thuận Thiên năm thứ 2 (1429), cấp ruộng lộc cho viên chỉ huy khai quốc công thần là Nguyễn Công Duẩn (阮公筍) như sau:

 

“Chuẩn lấy Trang Xã ở huyện Tống Sơn là ruộng của nhà thế gia triều trước, nay tuyệt, không người thừa kế. Và ruộng đất bỏ hoang, cho Công Duẩn làm của riêng, cọng 470 mẫu”.

 

III. BÁI TRANG, BÁI ĐÁP

 

Chiêu Huân Công là gọi tắt tước hiệu Vua Lê Trang Tôn ban tặng cho Nguyễn Kim (1468-1545) sau khi mất. Đúng ra đầy đủ 4 chữ Chiêu Huân Tĩnh Công. Vua Lê Trang Tôn (1533-1548) ban chiếu tặng Nguyễn Kim làm Chiêu Huân Tĩnh Công, thụy là Trung Hiến. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư viết:

 

“[Vua Lê Trang Tôn] sai người rước Linh cữu về Bái Trang, huyện Tống Sơn làm lễ chôn rất hậu. Phong cho con trưởng là Uông làm Lãng Quận Công, con thứ là Nguyễn Hoàng làm Hạ Khê Hầu, sai coi quân đánh giặc”.

 

Vậy thì tên gọi “Bái Trang” có trước Gia Miêu ngoại trang mà phần dẫn ở bên trên chúng tôi đã tìm ra địa danh “Bái Đáp”. Chưa biết rõ ràng địa danh Bái Trang có trước hoặc sau địa danh Bái Đáp. Chúng tôi có tư kiến riêng cho tên gọi Bái Trang phải có sau Bái Đáp; và tên gọi địa danh Bái Trang có trước tên gọi địa danh Gia Miêu ngoại trang mới thuận nghĩa lý. Thiết nghĩ đó những địa danh cần được tra cứu và giải thích rạch ròi.

 

Năm 1545 tước của Nguyễn Hoàng là Hà Khê Hầu; năm Mậu Ngọ Nguyễn Hoàng lãnh tước vua ban Đoan Quốc Công, lúc này Nguyễn Hoàng tuổi đời 34 năm. Lúc Nguyễn Kim mất Nguyễn Hoàng đã 21 tuổi. Nguyễn Uông đã lãnh tước Lãng Quận Công – Trịnh Kiểm giữ chức Thái sư cho vua Lê và được ban tước Lạng Quốc Công.

 

Cụ Tôn Thất Hân chấp bút viết PHỔ HỆ NHÀ NGUYỄN TRƯỚC GIA LONG bằng chữ Hán. Dịch ra tiếng Pháp là công của Thông ngôn Tây Âu Bùi Thanh Vân nhờ sự hỗ trợ của nhà Nho Trần Đình Nghi. Dịch ra tiếng Việt là hai dịch giả Bửu Ý và Phan Xưng. Nguồn sử liệu này rất quý giá. Cái đáng bàn là văn phong bản dịch từ không nhuần nhuyễn của bản tiếng Pháp sang tiếng Việt.

 

Theo Phổ hệ nói trên thì từ Chúa Nguyễn Hoàng trở lên thêm được 14 đời:

 

    Đời thứ 1: Nguyễn Bặc sinh ra Nguyễn Đạt

    Đời thứ 2: Nguyễn Đạt là cha Nguyễn Phụng

    Đời thứ 3: Nguyễn Phụng là cha của Nguyễn Nộn

    Đời thứ 4: Nguyễn Nộn là cha của Nguyễn Thể Tứ

    Đời thứ 5: Nguyễn Thể Tú là cha của Nguyễn Điền

    Đời thứ 6: Nguyễn Điền  là cha của Nguyễn Luật

    Đời thứ 7: Nguyễn Luật  là cha của Nguyễn Minh Du

    Đời thứ 8: Nguyễn Minh Du là cha của Nguyễn Biện

    Đời thứ 9: Nguyễn Biện  là cha của Nguyễn Lữ

    Đời thứ 10: Nguyễn Lữ là cha của Nguyễn Sự

    Đời thứ 11: Nguyễn Sự là cha của Nguyễn Công Chuẩn

    Đời thứ 12: Nguyễn Công Chuẩn là cha của Nguyễn Như Trác

    Đời thứ 13: Nguyễn Như Trác là cha của Nguyễn Văn Hưu

    Đời thứ 14: Nguyễn Văn Hưu (Hựu) là cha của Triệu Tổ tức Nguyễn Kim

 

Nhờ công trình biên khảo của cụ Tôn Thất Hân, mà phần Thủy Tổ Phả của sách NGUYỄN PHÚC TỘC THẾ PHẢ của các tác giả Vĩnh Cao, Vĩnh Dũng, Tôn Thất Hanh, Vĩnh Khánh, Tôn Thất Lôi, Vĩnh Quả, Vĩnh Thiều trở nên có giá trị hơn về mặt sử học và gia phả. Xin liệt kê các thế hệ gồm 15 đời.

 

I         Thủy tổ                    NGUYỄN BẶC    (924-979)

II        Đệ nhị tổ                 NGUYỄN ĐÊ        (? - ?)

III       Đệ tam tổ                NGUYỄN VIỄN    (? - ?)

IV      Đệ tứ tổ                 NGUYỄN PHỤNG  (? – 1150)

V       Đệ ngũ tổ              NGUYỄN NỘN      (? – 1229)

VI      Đệ lục tổ               NGUYỄN THẾ TỨ (? - ?)

VII     Đệ thất tổ              NGUYỄN NẠP HÒA        (? – 1377)

VIII    Đệ bát tổ               NGUYỄN CÔNG LUẬT    (? – 1388)

IX      Đệ cửu tổ              NGUYỄN MINH DU         (1340 – 1390)

X       Đệ thập tổ             NGUYỄN BIỆN      (? - ?)

XI      Đệ thập nhất tổ      NGUYỄN CHIẾM   (? - ?)

XII     Đệ thập nhị tổ       NGUYỄN SỪ        (? - ? )

XIII    Đệ thập tam tổ       NGUYỄN CÔNG DUẨN   (? - ? )

XIV    Đệ thập tứ tổ        NGUYỄN NHƯ TRÁC     (? - ? )

XV     Đệ thập ngũ tổ      NGUYỄN VĂN LỰU         (? - ? ) 

Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả bằng tiếng Việt đời nay là một công trình biên soạn từ nhiều năm trong hoàn cảnh đầy khó khăn về tư liệu, về nhân sự... Các soạn giả đã làm sáng rõ thêm về nguồn gốc triều đại các Chúa Nguyễn, vua Nguyễn, làm xích lại khoảng cách giữa nhân gian với dòng tộc Nguyễn Phúc vì địa bạ và gia phả các làng xã, họ tộc một thời trong quá khứ đã có những bậc tiên hiền, quan lại, danh tướng, phò mã, phủ thiếp phụng sự quốc triều Nguyễn trong việc khai hóa quốc dân, mở mang bờ cõi đất nước bằng con đường hòa bình và nhân ái. Ngoài dân gian, dù cho là người bình dân đã kết tình thông nghị với hậu duệ dòng tộc Nguyễn Phúc đúng nghĩa với quan niệm: “thông gia là bà con tiên”.

 

Đối chiếu hai bản của Tôn phả chép về các thế hệ trước Triệu Tổ Nguyễn Kim và Thái Tổ GIA DŨ HOÀNG ĐẾ húy Nguyễn Hoàng (1525-1613) thì dễ thấy những khuyết nghi mà đời sau đã bổ sung cho đời trước.

 

Định Quốc Công húy Nguyễn Bặc (924-979) được xem như Thủy Tổ của dòng tộc Nguyễn Phúc. Chữ lót giữa họ và tên này còn được đọc là “Phước” ở ngoài dân gian. Ngày xưa, những ai là họ Nguyễn thuộc bách tánh đã nghiêm túc kiêng tránh chữ lót này. Phụ chính Đại thần Nguyễn Văn Tường, người làng An Cư, huyện Thuận Xương (Triệu Phong ngày nay) do nhầm lẫn lấy tên họ Nguyễn Phước Tường bị buộc phải cải đổi từ Nguyễn Phước Tường thành Nguyễn Văn Tường. Có rất nhiều sĩ phu, quan lại, danh tiếng, thí sinh được các vua Nguyễn cho đổi tên, đổi chữ lót. Cụ thể là Phụ chính Đại thần Trần Tiễn Thành lúc đi thi đỗ Tiến sĩ dưới triều vua Tự Đức được nhà vua cho đổi tên cũ Trần Thời Mẫn thành họ tên mới là Trần Tiễn Thành và họ Trần ở thôn Minh Thanh, huyện Hương Trà lấy tên “họ Trần Tiễn”. Người Nam Kỳ lục tỉnh rất biết ơn sâu của các chúa Nguyễn và vua Nguyễn nên đã nghiêm cẩn trong việc gọi tên làng, tên họ, tên người.

 

Sách NGUYỄN PHÚC TỘC THẾ PHẢ đã dẫn ở bên trên đã chép và xếp NGUYỄN CÔNG DUẪN (? - ?), Đệ thập tam tổ (trước Nguyễn Kim 4 đời, trước Nguyễn Hoàng 5 đời). Ở trang 78 sách vừa nói trên có viết: Ngài [Nguyễn Công Duẫn] được thăng làm Phụng Trực Đại Phu Đô Đốc thiêm sự, Đô kiểm sự, lãnh việc quân dân ở huyện Tống Sơn và được vua ban cho gần 500 mẫu ruộng. Ngài được xếp vào làng Khai quốc Công thần bình Ngô và được ban quốc tính Lê”.

 

Nay chúng tôi tra lại sách ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập 2, Nxb Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, tr.102 viết: “Năm Kỷ Dậu thứ 2 niên hiệu Thuận Thiên [tức năm 1429]: Tháng 5, ngày mồng ba ban biển ngạch công thần cho 93 viên: Huyện thượng hầu 3 người là Lê Vấn, Lê Sát, Lê Văn Xảo, Thượng hầu 1 người là Lê Ngân; Hương thượng hầu 3 người là: Lê Lý, Lê Văn Linh, Lê Quốc Hưng; Đình thượng hầu 14 người là: Lê Chích, Lê Văn An, Lê Liệt, Lê Miễn, Lê Lễ, Lê Chiến, Lê Khôi, Lê Đính, Lê Chuyết, Lê Lỗi, Lê Nhữ Lâm, Lê Sao, Lê Kiệm, Lê Lật; Huyện hầu là 14 người là Lê Bi, Lê Bì, Lê Bĩ, Lê Náo, Lê Thu, Lê Lôi, Lê Khả, Lê Bôi, Lê Khả Lang, Lê Xí, Lê Khuyển, Lê Bí, Lê Quốc Trinh, Lê Bật; Á hầu 26 người là bọn Lê Bạn, Lê Trãi; Quan nội hầu 16 người là bọn Lê Cuống, Lê Dao. Thượng trí tước phục hầu 4 người là bạn Lê Khắc Phục, Lê Hài”

 

Trong Quốc sử đời Hậu Lê, không ghi đầy đủ tên họ 93 viên được phong khai quốc công thần và ban quốc tính mà chỉ ghi tên 42 viên. Chúng tôi tin rằng tên của bậc tiền bối Nguyễn Công Duẫn còn đọc là Nguyễn Công Chuẩn (viết dấu hỏi).

 

Từ điển Hán Việt của Thiều Chửu cho biết: Chữ Duẫn (viết có dấu ngã (~):   (tr.560) và chữ duẩn (viết dấu hỏi (?) 筍 (tr.563) được dùng nghĩa như chữ 筍(duẩn) có nghĩa là măng tre, cái xà ngang để treo chuông khánh. Chữ 筍 còn đọc là tấn: cái xe bằng trúc.

 

Chữ chuẩn (tr. 56, 369, 425, 585, 924) viết dấu hỏi có đến 5 chữ đều có mặt chữ không giống với chữ của Lê Quí Đôn đã viết trong sách Kiến Văn Tiểu Lục. Lần lượt ghi lại 5 nghĩa: định đúng, gọt gỗ cho ngàm vào đúng mộng, bằng phẳng, thành thực, một loài chim cắt.

 

Tôi chọn chữ Duẫn (viết dấu ngã) như Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả, không đồng tình với dịch giả Lê Mạnh Liệu bởi lẽ cụ Liệu không phải là “người trong cuộc” như hậu duệ nhà Nguyễn hôm nay đã thấm chữ nghĩa của tên húy tận máu thịt. Chỉ tiếc một điều là do hạn chế của nhà in sách năm 1995, đã viết giúp chữ Hán sai thiếu nét ngang dài. Tôi viết ra hai chữ: chữ đúng của chữ Duẫn ( ) chữ Duẫn do in sai  . Chữ vừa viết thiếu nét ngang dài 一 . Một việc nhỏ mà bỏ qua là có tội! Vua Lê đã phong cho Nguyễn Uông làm Lãng Quận Công, Nguyễn Hoàng làm Hà Khê Hầu vào năm 1545 (lúc này Nguyễn Hoàng đã hơn 20 tuổi) vào năm 1545 dưới thời vua Lê Trang Tôn mà sách Từ Điển Nhà Nguyễn của Võ Hương An xuất bản năm 2012 tại nước ngoài cụ thể là Mỹ Quốc cho rằng năm 1545 Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng “đang còn nhỏ”.

 

Tìm về quê hương nhà Nguyễn, trước tiên và cũng là bước đầu là tìm hiểu về tiểu sử của Nguyễn Công Duẫn được xem như Thủy tổ của Gia Miêu ngoại trang nay là thôn Gia Miêu thuộc xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Nhưng tiểu sử của Nguyễn Công Duẫn còn nhiều khuyết nghi, ngay cả năm sinh và năm mất vẫn còn là hai dấu hỏi.

 

Lê Quí Đôn phanh phui ra cái chìa khóa là ruộng lộc của ông được nhà vua cấp 470 mẫu  là ruộng bỏ hoang do triều trước.

 

Cụ Tôn Thất Hân đã tìm ra nguồn tư liệu gốc rất tôn quý là “Biên bổn Gia Miêu Ngoại Trang công tính chính chi khai trần phổ hệ”, để khẳng định: “Vị tổ đầu tiên là Nguyễn Công Chuẩn, phong hàm Thái Bảo Hoàng Quốc Công, con trai thứ tư của Chiêu Quang Hầu. Ông được phong Công Thần Khai Quốc và họ của ông được đổi thành Lê do Lê Thái Tổ (1428-1433).”

 

Như trên đã nói trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cho biết trong 93 viên được phong Khai quốc Công thần thì chỉ ghi rõ họ và tên 42 viên, trong đó không có tên Nguyễn Công Chuẩn. Danh sách 42 vị được kê tên là Khai quốc Công thần và đổi họ gốc sang quốc tính họ Lê. Đó là một nghi án lịch sử. 51 vị còn lại trong tổng 93 viên không được nhà Lê cho đổi họ sang họ Lê không có tên ông Chuẩn. Khai quốc công thần có 2 loại: đổi họ, không đổi họ.

 

Ở sách Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả, Sđd xuất bản năm 1995 lại hé lộ cho tôi một hướng đi tìm ở cho ra cái mà mình đang bí. Ở phần chú thích ở trang 78 có chú thích (1) như sau: “Trích chiếu tuyên dương công trạng năm Thuận Thiên thứ 2”. Trình độ của tôi hạn chế, tôi lại tìm đọc Đại Việt Sử Lý Toàn Thư, đặc biệt chú ý đến niên hiệu Thuận Thiên thứ 2 tức năm Kỷ Dậu 1429, cho nên mới phát hiện ra điều này. Tôi đọc biên niên sử 3 triều vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tôn, Lê Nhân Tông nhưng không tìm thấy danh xưng Thái Bảo Hoàng Quốc Công Nguyễn Công Chuẩn.

 

Căn cứ vào sổ bộ của Gia Miêu Ngoại Trang thì từ Nguyễn Bặc cho đến Nguyễn Văn Lưu là cha của Triệu Tổ hay Nguyễn Kim là 14 đời. Còn theo Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả là 15 đời. Chúng tôi tin là có ông NGUYỄN CÔNG DUẪN (trước phiên âm là Chuẩn); đời vua Gia Long phiên âm là Chuẩn, như sổ bộ của Gia Miêu ngoại trang; còn chức tước và phẩm hàm Thái Bảo Hằng Quốc Công thì tra cứu chưa ra ở sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Có thể phẩm hàm ấy được chép từ một nguồn sử liệu nào thì chúng tôi chưa biết. Đó là một nghi án, cần rà soát lại để dễ thuyết phục người đọc thì càng quý giá.

 

IV. QUÊ HƯƠNG VIỄN XỨ CỦA CHÚA NGUYỄN HOÀNG

 

Tìm chữ chưa ra, tạm dùng chữ “Tiền thân” của Gia Miêu ngoại trang nghĩa là trước đời Nguyễn Công Chuẩn (đời thứ 13 theo Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả năm 1995; đời thứ 11 theo Sổ bộ của Gia Miêu ngoại trang) thì đời Nguyễn Sự ở sơn động như các vị đời trước. Sách này lấy Thủy Tổ của dòng họ Nguyễn Phúc là Quốc Công Nguyễn Bặc (阮匐), có quê hương Đại Hoàng, Gia Viễn, Ninh Bình. Về quê hương của Nguyễn Bặc vẫn chưa khẳng định, người thì bảo là Gia Miêu ngoại trang, người thì là làng Đại Hữu, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Đây lại thêm một khuyết nghi lịch sử nữa, cần được khai tỏ.

 

Đến đây, chúng tôi phải tra cứu Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi: “Phủ Trường Yên (Tràng An) có 3 huyện, xưa phủ này có tên là Đại Hoàng, có 3 huyện, 263 xã. Huyện Gia Viễn có 73 xã, 4 trang, 1 trại, 2 phường, 1 tuần. Thời nhà Lý thì Gia Viễn, Trường Yên (Tràng An) thuộc phủ THANH HOA”.

 

Năm 2008 chúng tôi gồm nhà báo Dương Phước Thu, thầy Châu Trọng Ngô, anh Trần Viết Điền đi Ninh Bình tham dự Hội thảo tại Văn Miếu, Hà Nội năm 2008 về chủ đề Phật hoàng Trần Nhân Tông đã đến thăm mộ tổ của họ Châu, họ Lê ở Ninh Bình. Chúng tôi đã khảo cứu Tràng An (tức Trường Yên) đầy đủ, đăng trên Tập san Hội nhà báo Thừa Thiên - Huế, cuối năm 2008 nhân dịp Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Đó là cớ sự tôi đi ngược dòng lịch sử để tìm hiểu về Tây Đô, về Tràng An. Nay có duyên tôi viết tham luận này. Gia Viễn tức tên mới Đại Hoàng có từ đời nhà Lý. Đại Hoàng là tên huyện chứ không phải tên làng như một số người đã nhầm lẫn.

 

**

*

 

Tìm về quê hương viễn xứ của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng thật là lý thú dẫu rằng rất mệt, tổn hao nhiều công sức. Nhưng lý thú là tìm ra được một cầu nối mà chúng tôi thường hay nói là “cầu không vận” giữa ÁI TỬ - TRÀ BÁT – DINH CÁT với THANH HÓA, NINH BÌNH.

 

Khởi nguồn cho việc Chúa Nguyễn Hoàng mang gươm đi mở nước và giữ nước bằng đường lối hòa bình, ÁI TỬ (Quảng Trị) trở thành bệ phóng, mà nguồn gốc phát tích là TRÀNG AN – GIA MIÊU thuộc Thanh Hoa ngoại trấn và Thanh Hoa nội trấn.

 

Thật là hưng phấn tinh thần khi tìm ra cội nguồn quê hương của Nhà Nguyễn. Xin trình một số nghi án cần được cẩn án làm sáng tỏ thêm lên về quá trình giữ nước và mở nước của nước Việt oai hùng mà giặc ngoại bang không hiểu, không nghiên cứu sâu xa cho nên đành đầu hàng, cuốn cờ mà chạy thục mạng về nước.

 

Huế, tháng 8 năm 2013 

L.Q.T

Nguồn: lieuquanhue.vn, 17/10/2013 

READ MORE - CỘI NGUỒN QUÊ HƯƠNG CỦA NGUYỄN HOÀNG - Lê Quang Thái