|
Lăng Trường Cơ của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng tại xã Hương Thọ- Thị xã Hương Thủy Ảnh: Báo Dân Trí. |
Cội nguồn quê hương của Nguyễn
Hoàng
Lê Quang Thái
Ngày sinh, nơi sinh, ngày mất, nơi
mất, nơi an táng, nơi cát táng là những mốc thời gian quan trọng, đáng nhớ của
đời người và con cháu vì dân gian coi đó là thể hiện hiếu đạo đối với người đã
mất, với tổ tiên, ông bà: Sống nhà thác mồ.
Trong các giấy tờ tùy thân thì giấy
khai sinh là văn bản gốc quan trọng nhất, trên giấy này ghi rõ họ và tên, ngày
tháng năm sinh, quê quán... Con cháu nhiều thế hệ sau phải ghi cho rõ, cho đúng
với quê quán của Tiền nhân đã khai sáng ra dòng tộc.
Tuổi tác, ngày sinh, nơi sinh được
ghi trong gia phả có khác với giấy khai sinh, sai chậy năm tháng với giấy khai
sinh của nhiều người. Nhưng tuyệt nhiên giấy khai sinh là văn bản pháp qui,
pháp định. Đối với tiền nhân thì người nghiên cứu tiểu sử và sự nghiệp đều dựa
vào bản gốc gia phả hoặc sắc phong, văn bằng, học vị, văn bia, khế ước giao
kèo.
I. NƠI SINH, NƠI MẤT CỦA NGUYỄN
HOÀNG
Nguyễn Hoàng sinh ngày 10 tháng 8
năm Ất Dậu (28/8/1525) tại Gia Miêu ngoại trang, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung,
trấn Thanh Hoa. Chúa Nguyễn Hoàng mất
ngày mồng 3 tháng 6 năm Quí Sửu (20/7/1613) tại Dinh Cát thuộc làng Ái Tử, huyện
Võ Xương, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa, thọ 89 tuổi. An táng ở vùng núi Thạch
Hãn gần sông Thạch Hãn thuộc địa phận làng cổ Thạch Hãn, làng này vào thời điểm
lịch sử ấy thuộc huyện Hải Lăng, phủ Triệu Phong. Xin lưu ý đơn vị hành chính
“phủ” Triệu Phong vào thời điểm năm 1613. Đời vua Duy Tân có phủ Triệu Phong
(nhưng phủ lúc này tương đương với huyện dẫu rằng phủ lớn hơn huyện về đất đai
và dân số cỡ bên 10, bên 8). Tiền thân của huyện Triệu Phong ngày nay là huyện
Đăng Xương, cải đổi thành Thuận Xương vào năm Kiến Phúc nguyên niên, 1884.
Hiện nay, chưa xác định được năm cải
táng mộ phần của Chúa Nguyễn Hoàng về thôn Hà Khê, huyện Hương Trà. Với tài
năng và đức độ của con người phi thường, Chúa Nguyễn Hoàng giữ chức Trấn thủ
Thuận Hóa vào tháng 10 năm Mậu Ngọ, 1558, rồi Tổng Trấn hai xứ Thuận – Quảng từ
tháng giêng năm Canh Ngọ, 1570 cho đến ngày 3 tháng 6 năm Quí Sửu, 1613. Trong
56 năm cai trị, nhà Chúa đã mất hơn 15 năm bình định vùng biên viễn của nước Đại
Việt từ ác địa trở thành thiện địa. Công lao khai hóa của Chúa thật lớn lao như
trời biển.
II. GIA MIÊU NGOẠI TRANG (嘉苗外莊):
Gia Miêu là danh từ riêng chỉ tên
“trang” tức trang trại, thôn ấp ở miền bán sơn địa của huyện Tống Sơn. Huyện
này có tên là Tống Giang vào triều nhà Trần. Đến đầu đời Hậu Lê được cải đổi
tên gọi là Tống Sơn. Huyện này gồm 31 xã, 2 bãi, 9 trang, 1 trại. Đất Gia Miêu
đã được phân chia thành 2 trang là Gia Miêu nội trang và Gia Miêu ngoại trang
theo làn ranh của chân dãy núi Thiên chạy dài từ phía Tây sang phía Đông. Năm
1803, vua Gia Long đổi tên Gia Miêu ngoại trang thành Quí Hương, huyện Tống Sơn
thành Quí Huyện.
Theo tự điển Hán Việt của Thiều Chửu,
chữ trang (莊)
có đến 7 nghĩa; nghĩa thứ 6: lập riêng cơ sở ở ngoài thành thị cũng gọi là
trang. Làng gốc thường lập thêm trang trại ở vùng núi hoặc biển. Cả hai trang nội
và ngoại trước xưa được gọi tên là Bái Đáp . Ở tỉnh Ninh Bình ngày nay như xưa
kia Thanh Hoa ngoại trấn có địa danh Bái Đính nổi tiếng với nhiều danh lam thắng
cảnh.
Văn tế chiến sĩ trận vong của Tiền
quân Nguyễn Văn Thành, người làng Bác Vọng, từng giữ Tống Trấn Bắc Thành dưới
triều vua Gia Long có câu: “Ba nghìn họp con em đất Bái”. Đất Bái tức Bái Đáp,
đầu đời vua Minh Mạng có tên Bái Trang như Ngự chế bài Minh khắc vào văn bia
Triệu Tổ Nguyễn Kim ở núi Triệu Tường, trấn Thanh Hóa: “Nghĩa động quỷ thần,
công tuyền vũ trụ/ Cõi trần rời bỏ/ lăng ở Bái Trang”.
Ở Thừa Thiên có làng Bái Đáp thuộc
tổng Hạ Lang, huyện Quảng Điền. Phép dùng điển trong văn học thật thâm sâu và
thâm hậu, có dụng ý xa vời vợi mà ít người tra cứu cho tận ngọn nguồn lạch
sông. Thật đúng như lời cụ Huỳnh Thúc Kháng đã nói: “Học Sử nghĩa là sống với
người chết, học Địa là sống với non sông”.
Lê Quí Đôn viết xong sách Kiến Văn
Tiểu Lục vào tháng 5 năm Đinh Dậu, niên hiệu Cảnh Hưng tức năm 1777.
Sau 6 tháng ở Thuận Hóa giữ chức Hiệp
Trấn năm 1776, Lê Quí Đôn trở về Thăng Long lãnh chức Cơ Mật sự vụ kiêm Chưởng
Tài Phủ. Sách có đoạn viết:
“Tôi [Lê Quí Đôn] đã
được coi quyển gia phả của người cháu xa đời viên Chiêu Huân Công (昭勳公) xuất
trình. Trong phả có chép việc về năm Thuận Thiên năm thứ 2 (1429), cấp ruộng lộc
cho viên chỉ huy khai quốc công thần là Nguyễn Công Duẩn (阮公筍)
như sau:
“Chuẩn lấy Trang Xã ở
huyện Tống Sơn là ruộng của nhà thế gia triều trước, nay tuyệt, không người thừa
kế. Và ruộng đất bỏ hoang, cho Công Duẩn làm của riêng, cọng 470 mẫu”.
III. BÁI TRANG, BÁI ĐÁP
Chiêu Huân Công là gọi tắt tước hiệu
Vua Lê Trang Tôn ban tặng cho Nguyễn Kim (1468-1545) sau khi mất. Đúng ra đầy đủ
4 chữ Chiêu Huân Tĩnh Công. Vua Lê Trang Tôn (1533-1548) ban chiếu tặng Nguyễn
Kim làm Chiêu Huân Tĩnh Công, thụy là Trung Hiến. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư viết:
“[Vua Lê Trang Tôn]
sai người rước Linh cữu về Bái Trang, huyện Tống Sơn làm lễ chôn rất hậu. Phong
cho con trưởng là Uông làm Lãng Quận Công, con thứ là Nguyễn Hoàng làm Hạ Khê Hầu,
sai coi quân đánh giặc”.
Vậy thì tên gọi “Bái Trang” có trước
Gia Miêu ngoại trang mà phần dẫn ở bên trên chúng tôi đã tìm ra địa danh “Bái
Đáp”. Chưa biết rõ ràng địa danh Bái Trang có trước hoặc sau địa danh Bái Đáp.
Chúng tôi có tư kiến riêng cho tên gọi Bái Trang phải có sau Bái Đáp; và tên gọi
địa danh Bái Trang có trước tên gọi địa danh Gia Miêu ngoại trang mới thuận
nghĩa lý. Thiết nghĩ đó những địa danh cần được tra cứu và giải thích rạch ròi.
Năm 1545 tước của Nguyễn Hoàng là
Hà Khê Hầu; năm Mậu Ngọ Nguyễn Hoàng lãnh tước vua ban Đoan Quốc Công, lúc này
Nguyễn Hoàng tuổi đời 34 năm. Lúc Nguyễn Kim mất Nguyễn Hoàng đã 21 tuổi. Nguyễn
Uông đã lãnh tước Lãng Quận Công – Trịnh Kiểm giữ chức Thái sư cho vua Lê và được
ban tước Lạng Quốc Công.
Cụ Tôn Thất Hân chấp bút viết PHỔ HỆ
NHÀ NGUYỄN TRƯỚC GIA LONG bằng chữ Hán. Dịch ra tiếng Pháp là công của Thông
ngôn Tây Âu Bùi Thanh Vân nhờ sự hỗ trợ của nhà Nho Trần Đình Nghi. Dịch ra tiếng
Việt là hai dịch giả Bửu Ý và Phan Xưng. Nguồn sử liệu này rất quý giá. Cái đáng
bàn là văn phong bản dịch từ không nhuần nhuyễn của bản tiếng Pháp sang tiếng
Việt.
Theo Phổ hệ nói trên thì từ Chúa
Nguyễn Hoàng trở lên thêm được 14 đời:
Đời thứ 1: Nguyễn Bặc sinh ra Nguyễn Đạt
Đời thứ 2: Nguyễn Đạt là cha Nguyễn Phụng
Đời thứ 3: Nguyễn Phụng là cha của Nguyễn Nộn
Đời thứ 4: Nguyễn Nộn là cha của Nguyễn Thể Tứ
Đời thứ 5: Nguyễn Thể Tú là cha của Nguyễn Điền
Đời thứ 6: Nguyễn Điền là cha của
Nguyễn Luật
Đời thứ 7: Nguyễn Luật là cha của
Nguyễn Minh Du
Đời thứ 8: Nguyễn Minh Du là cha
của Nguyễn Biện
Đời thứ 9: Nguyễn Biện là cha của
Nguyễn Lữ
Đời thứ 10: Nguyễn Lữ là cha của Nguyễn Sự
Đời thứ 11: Nguyễn Sự là cha của Nguyễn Công Chuẩn
Đời thứ 12: Nguyễn Công Chuẩn là cha của Nguyễn Như Trác
Đời thứ 13: Nguyễn Như Trác là cha của Nguyễn Văn Hưu
Đời thứ 14: Nguyễn Văn Hưu (Hựu) là cha của Triệu Tổ tức Nguyễn Kim
Nhờ công trình biên khảo của cụ Tôn
Thất Hân, mà phần Thủy Tổ Phả của sách NGUYỄN PHÚC TỘC THẾ PHẢ của các tác giả
Vĩnh Cao, Vĩnh Dũng, Tôn Thất Hanh, Vĩnh Khánh, Tôn Thất Lôi, Vĩnh Quả, Vĩnh
Thiều trở nên có giá trị hơn về mặt sử học và gia phả. Xin liệt kê các thế hệ gồm
15 đời.
I Thủy
tổ NGUYỄN BẶC (924-979)
II Đệ
nhị tổ NGUYỄN ĐÊ (? - ?)
III Đệ
tam tổ NGUYỄN VIỄN (? - ?)
IV Đệ
tứ tổ NGUYỄN PHỤNG (? –
1150)
V Đệ
ngũ tổ NGUYỄN NỘN (? – 1229)
VI Đệ
lục tổ NGUYỄN THẾ TỨ (? - ?)
VII Đệ
thất tổ NGUYỄN NẠP HÒA (? –
1377)
VIII Đệ bát tổ NGUYỄN
CÔNG LUẬT (? – 1388)
IX Đệ
cửu tổ NGUYỄN MINH DU (1340
– 1390)
X Đệ
thập tổ NGUYỄN BIỆN (? - ?)
XI Đệ
thập nhất tổ NGUYỄN CHIẾM (? - ?)
XII Đệ
thập nhị tổ NGUYỄN SỪ (? - ? )
XIII Đệ thập tam tổ NGUYỄN
CÔNG DUẨN (? - ? )
XIV Đệ
thập tứ tổ NGUYỄN NHƯ TRÁC (? - ? )
XV Đệ
thập ngũ tổ NGUYỄN VĂN LỰU (? - ? )
Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả bằng tiếng
Việt đời nay là một công trình biên soạn từ nhiều năm trong hoàn cảnh đầy khó
khăn về tư liệu, về nhân sự... Các soạn giả đã làm sáng rõ thêm về nguồn gốc
triều đại các Chúa Nguyễn, vua Nguyễn, làm xích lại khoảng cách giữa nhân gian
với dòng tộc Nguyễn Phúc vì địa bạ và gia phả các làng xã, họ tộc một thời
trong quá khứ đã có những bậc tiên hiền, quan lại, danh tướng, phò mã, phủ thiếp
phụng sự quốc triều Nguyễn trong việc khai hóa quốc dân, mở mang bờ cõi đất nước
bằng con đường hòa bình và nhân ái. Ngoài dân gian, dù cho là người bình dân đã
kết tình thông nghị với hậu duệ dòng tộc Nguyễn Phúc đúng nghĩa với quan niệm:
“thông gia là bà con tiên”.
Đối chiếu hai bản của Tôn phả chép
về các thế hệ trước Triệu Tổ Nguyễn Kim và Thái Tổ GIA DŨ HOÀNG ĐẾ húy Nguyễn
Hoàng (1525-1613) thì dễ thấy những khuyết nghi mà đời sau đã bổ sung cho đời
trước.
Định Quốc Công húy Nguyễn Bặc
(924-979) được xem như Thủy Tổ của dòng tộc Nguyễn Phúc. Chữ lót giữa họ và tên
này còn được đọc là “Phước” ở ngoài dân gian. Ngày xưa, những ai là họ Nguyễn
thuộc bách tánh đã nghiêm túc kiêng tránh chữ lót này. Phụ chính Đại thần Nguyễn
Văn Tường, người làng An Cư, huyện Thuận Xương (Triệu Phong ngày nay) do nhầm lẫn
lấy tên họ Nguyễn Phước Tường bị buộc phải cải đổi từ Nguyễn Phước Tường thành
Nguyễn Văn Tường. Có rất nhiều sĩ phu, quan lại, danh tiếng, thí sinh được các
vua Nguyễn cho đổi tên, đổi chữ lót. Cụ thể là Phụ chính Đại thần Trần Tiễn
Thành lúc đi thi đỗ Tiến sĩ dưới triều vua Tự Đức được nhà vua cho đổi tên cũ
Trần Thời Mẫn thành họ tên mới là Trần Tiễn Thành và họ Trần ở thôn Minh Thanh,
huyện Hương Trà lấy tên “họ Trần Tiễn”. Người Nam Kỳ lục tỉnh rất biết ơn sâu của
các chúa Nguyễn và vua Nguyễn nên đã nghiêm cẩn trong việc gọi tên làng, tên họ,
tên người.
Sách NGUYỄN PHÚC TỘC THẾ PHẢ đã dẫn
ở bên trên đã chép và xếp NGUYỄN CÔNG DUẪN (? - ?), Đệ thập tam tổ (trước Nguyễn
Kim 4 đời, trước Nguyễn Hoàng 5 đời). Ở trang 78 sách vừa nói trên có viết:
Ngài [Nguyễn Công Duẫn] được thăng làm Phụng Trực Đại Phu Đô Đốc thiêm sự, Đô
kiểm sự, lãnh việc quân dân ở huyện Tống Sơn và được vua ban cho gần 500 mẫu ruộng.
Ngài được xếp vào làng Khai quốc Công thần bình Ngô và được ban quốc tính Lê”.
Nay chúng tôi tra lại sách ĐẠI VIỆT
SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập 2, Nxb Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, tr.102 viết: “Năm Kỷ Dậu
thứ 2 niên hiệu Thuận Thiên [tức năm 1429]: Tháng 5, ngày mồng ba ban biển ngạch
công thần cho 93 viên: Huyện thượng hầu 3 người là Lê Vấn, Lê Sát, Lê Văn Xảo,
Thượng hầu 1 người là Lê Ngân; Hương thượng hầu 3 người là: Lê Lý, Lê Văn Linh,
Lê Quốc Hưng; Đình thượng hầu 14 người là: Lê Chích, Lê Văn An, Lê Liệt, Lê Miễn,
Lê Lễ, Lê Chiến, Lê Khôi, Lê Đính, Lê Chuyết, Lê Lỗi, Lê Nhữ Lâm, Lê Sao, Lê Kiệm,
Lê Lật; Huyện hầu là 14 người là Lê Bi, Lê Bì, Lê Bĩ, Lê Náo, Lê Thu, Lê Lôi,
Lê Khả, Lê Bôi, Lê Khả Lang, Lê Xí, Lê Khuyển, Lê Bí, Lê Quốc Trinh, Lê Bật; Á
hầu 26 người là bọn Lê Bạn, Lê Trãi; Quan nội hầu 16 người là bọn Lê Cuống, Lê
Dao. Thượng trí tước phục hầu 4 người là bạn Lê Khắc Phục, Lê Hài”
Trong Quốc sử đời Hậu Lê, không ghi
đầy đủ tên họ 93 viên được phong khai quốc công thần và ban quốc tính mà chỉ
ghi tên 42 viên. Chúng tôi tin rằng tên của bậc tiền bối Nguyễn Công Duẫn còn đọc
là Nguyễn Công Chuẩn (viết dấu hỏi).
Từ điển Hán Việt của Thiều Chửu cho
biết: Chữ Duẫn (viết có dấu ngã (~):
(tr.560) và chữ duẩn (viết dấu hỏi (?) 筍 (tr.563) được dùng nghĩa như chữ 筍(duẩn)
có nghĩa là măng tre, cái xà ngang để treo chuông khánh. Chữ 筍 còn đọc
là tấn: cái xe bằng trúc.
Chữ chuẩn (tr. 56, 369, 425, 585,
924) viết dấu hỏi có đến 5 chữ đều có mặt chữ không giống với chữ của Lê Quí
Đôn đã viết trong sách Kiến Văn Tiểu Lục. Lần lượt ghi lại 5 nghĩa: định đúng,
gọt gỗ cho ngàm vào đúng mộng, bằng phẳng, thành thực, một loài chim cắt.
Tôi chọn chữ Duẫn (viết dấu ngã)
như Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả, không đồng tình với dịch giả Lê Mạnh Liệu bởi lẽ cụ
Liệu không phải là “người trong cuộc” như hậu duệ nhà Nguyễn hôm nay đã thấm chữ
nghĩa của tên húy tận máu thịt. Chỉ tiếc một điều là do hạn chế của nhà in sách
năm 1995, đã viết giúp chữ Hán sai thiếu nét ngang dài. Tôi viết ra hai chữ: chữ
đúng của chữ Duẫn ( ) chữ Duẫn do in sai
. Chữ vừa viết thiếu nét ngang dài 一 . Một việc nhỏ mà bỏ qua là có tội!
Vua Lê đã phong cho Nguyễn Uông làm Lãng Quận Công, Nguyễn Hoàng làm Hà Khê Hầu
vào năm 1545 (lúc này Nguyễn Hoàng đã hơn 20 tuổi) vào năm 1545 dưới thời vua
Lê Trang Tôn mà sách Từ Điển Nhà Nguyễn của Võ Hương An xuất bản năm 2012 tại
nước ngoài cụ thể là Mỹ Quốc cho rằng năm 1545 Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng
“đang còn nhỏ”.
Tìm về quê hương nhà Nguyễn, trước
tiên và cũng là bước đầu là tìm hiểu về tiểu sử của Nguyễn Công Duẫn được xem
như Thủy tổ của Gia Miêu ngoại trang nay là thôn Gia Miêu thuộc xã Hà Long, huyện
Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Nhưng tiểu sử của Nguyễn Công Duẫn còn nhiều khuyết
nghi, ngay cả năm sinh và năm mất vẫn còn là hai dấu hỏi.
Lê Quí Đôn phanh phui ra cái chìa
khóa là ruộng lộc của ông được nhà vua cấp 470 mẫu là ruộng bỏ hoang do triều trước.
Cụ Tôn Thất Hân đã tìm ra nguồn tư
liệu gốc rất tôn quý là “Biên bổn Gia Miêu Ngoại Trang công tính chính chi khai
trần phổ hệ”, để khẳng định: “Vị tổ đầu tiên là Nguyễn Công Chuẩn, phong hàm
Thái Bảo Hoàng Quốc Công, con trai thứ tư của Chiêu Quang Hầu. Ông được phong
Công Thần Khai Quốc và họ của ông được đổi thành Lê do Lê Thái Tổ (1428-1433).”
Như trên đã nói trong Đại Việt Sử
Ký Toàn Thư cho biết trong 93 viên được phong Khai quốc Công thần thì chỉ ghi
rõ họ và tên 42 viên, trong đó không có tên Nguyễn Công Chuẩn. Danh sách 42 vị
được kê tên là Khai quốc Công thần và đổi họ gốc sang quốc tính họ Lê. Đó là một
nghi án lịch sử. 51 vị còn lại trong tổng 93 viên không được nhà Lê cho đổi họ
sang họ Lê không có tên ông Chuẩn. Khai quốc công thần có 2 loại: đổi họ, không
đổi họ.
Ở sách Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả, Sđd
xuất bản năm 1995 lại hé lộ cho tôi một hướng đi tìm ở cho ra cái mà mình đang
bí. Ở phần chú thích ở trang 78 có chú thích (1) như sau: “Trích chiếu tuyên
dương công trạng năm Thuận Thiên thứ 2”. Trình độ của tôi hạn chế, tôi lại tìm
đọc Đại Việt Sử Lý Toàn Thư, đặc biệt chú ý đến niên hiệu Thuận Thiên thứ 2 tức
năm Kỷ Dậu 1429, cho nên mới phát hiện ra điều này. Tôi đọc biên niên sử 3 triều
vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tôn, Lê Nhân Tông nhưng không tìm thấy danh xưng Thái Bảo
Hoàng Quốc Công Nguyễn Công Chuẩn.
Căn cứ vào sổ bộ của Gia Miêu Ngoại
Trang thì từ Nguyễn Bặc cho đến Nguyễn Văn Lưu là cha của Triệu Tổ hay Nguyễn Kim
là 14 đời. Còn theo Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả là 15 đời. Chúng tôi tin là có ông
NGUYỄN CÔNG DUẪN (trước phiên âm là Chuẩn); đời vua Gia Long phiên âm là Chuẩn,
như sổ bộ của Gia Miêu ngoại trang; còn chức tước và phẩm hàm Thái Bảo Hằng Quốc
Công thì tra cứu chưa ra ở sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Có thể phẩm hàm ấy được
chép từ một nguồn sử liệu nào thì chúng tôi chưa biết. Đó là một nghi án, cần
rà soát lại để dễ thuyết phục người đọc thì càng quý giá.
IV. QUÊ HƯƠNG VIỄN XỨ CỦA CHÚA NGUYỄN
HOÀNG
Tìm chữ chưa ra, tạm dùng chữ “Tiền
thân” của Gia Miêu ngoại trang nghĩa là trước đời Nguyễn Công Chuẩn (đời thứ 13
theo Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả năm 1995; đời thứ 11 theo Sổ bộ của Gia Miêu ngoại
trang) thì đời Nguyễn Sự ở sơn động như các vị đời trước. Sách này lấy Thủy Tổ
của dòng họ Nguyễn Phúc là Quốc Công Nguyễn Bặc (阮匐), có quê hương Đại Hoàng, Gia Viễn,
Ninh Bình. Về quê hương của Nguyễn Bặc vẫn chưa khẳng định, người thì bảo là
Gia Miêu ngoại trang, người thì là làng Đại Hữu, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
Đây lại thêm một khuyết nghi lịch sử nữa, cần được khai tỏ.
Đến đây, chúng tôi phải tra cứu Dư
Địa Chí của Nguyễn Trãi: “Phủ Trường Yên (Tràng An) có 3 huyện, xưa phủ này có
tên là Đại Hoàng, có 3 huyện, 263 xã. Huyện Gia Viễn có 73 xã, 4 trang, 1 trại,
2 phường, 1 tuần. Thời nhà Lý thì Gia Viễn, Trường Yên (Tràng An) thuộc phủ
THANH HOA”.
Năm 2008 chúng tôi gồm nhà báo
Dương Phước Thu, thầy Châu Trọng Ngô, anh Trần Viết Điền đi Ninh Bình tham dự Hội
thảo tại Văn Miếu, Hà Nội năm 2008 về chủ đề Phật hoàng Trần Nhân Tông đã đến
thăm mộ tổ của họ Châu, họ Lê ở Ninh Bình. Chúng tôi đã khảo cứu Tràng An (tức
Trường Yên) đầy đủ, đăng trên Tập san Hội nhà báo Thừa Thiên - Huế, cuối năm
2008 nhân dịp Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Đó là cớ sự tôi đi ngược
dòng lịch sử để tìm hiểu về Tây Đô, về Tràng An. Nay có duyên tôi viết tham luận
này. Gia Viễn tức tên mới Đại Hoàng có từ đời nhà Lý. Đại Hoàng là tên huyện chứ
không phải tên làng như một số người đã nhầm lẫn.
**
*
Tìm về quê hương viễn xứ của Chúa
Tiên Nguyễn Hoàng thật là lý thú dẫu rằng rất mệt, tổn hao nhiều công sức.
Nhưng lý thú là tìm ra được một cầu nối mà chúng tôi thường hay nói là “cầu
không vận” giữa ÁI TỬ - TRÀ BÁT – DINH CÁT với THANH HÓA, NINH BÌNH.
Khởi nguồn cho việc Chúa Nguyễn Hoàng
mang gươm đi mở nước và giữ nước bằng đường lối hòa bình, ÁI TỬ (Quảng Trị) trở
thành bệ phóng, mà nguồn gốc phát tích là TRÀNG AN – GIA MIÊU thuộc Thanh Hoa
ngoại trấn và Thanh Hoa nội trấn.
Thật là hưng phấn tinh thần khi tìm
ra cội nguồn quê hương của Nhà Nguyễn. Xin trình một số nghi án cần được cẩn án
làm sáng tỏ thêm lên về quá trình giữ nước và mở nước của nước Việt oai hùng mà
giặc ngoại bang không hiểu, không nghiên cứu sâu xa cho nên đành đầu hàng, cuốn
cờ mà chạy thục mạng về nước.
Huế, tháng 8 năm 2013
L.Q.T
Nguồn: lieuquanhue.vn, 17/10/2013