11. Thiền định, tự tri, hơi-thở-thiền, mọi sự tu tập thăng hoa trí tuệ tâm
linh, sự cầu nguyện chân chính, đó là những hành động tích cực của tâm linh,
mang năng lượng cải thiện sức khoẻ tổng quát, thiện ích cho mình và tha nhân.
“Không còn hoài nghi gì
nữa về ảnh hưởng to lớn của năng lượng tâm thần tới cơ thể con người; mà có
được trạng thái xô-ma-chi chính là nhờ tham thiền đấy thôi.” (E. Mun-đa-sep).
“Các nhà khoa học cũng đang quay lại và hướng sự tập trung vào việc tìm
hiểu cách thức suy nghĩ và trạng thái của chúng ta thực sự ảnh hưởng đến lực từ
trường bên trong và xung quanh chúng ta. (…) Những phát hiện này có thể chứng
minh cho tuyên bố từ lâu của những người luyện thiền và những người tập luyện
yoga, rằng những sự rèn luyện này thực sự làm tăng sinh khí cho chúng ta và
tiếp thêm năng lượng cho ta.(…) Nhiều nghiên cứu khoa học đã khiến cho
melatonin ngày càng được biết đến với giá trị như một phân tử chống ung thư.
(…) Thú vị là việc luyện thiền được coi là một hành động kích thích tuyến tùng
và giúp tạo ra được đủ lượng melatonin cần thiết.” (Karen Nesbitt Shanor - tiến sĩ sinh học. “Trí tuệ nổi trội”; dịch giả:
Vũ Thị Hồng Việt).
Tác giả trên viết chung với John Spencer, tiến sĩ y học danh tiếng: “Các
phương pháp thiền khuyến khích sự thở sâu từ cơ hoành, được biết đến với chức
năng nuôi dưỡng các cơ quan cần thiết và làm tăng các mức độ năng lượng, tăng
tỉ lệ trao đổi chất và tái sinh các khu vực trì trệ của cơ thể.”
Đặc biệt, hai tác giả này viết trong tác phẩm “Trí tuệ nổi trội”: “Một
nghiên cứu xuất sắc đánh giá vai trò của sự cầu nguyện (cho người khác) trong
việc chữa bệnh do bác sĩ chuyên khoa tim Randolph Byrd tiến hành đã khích lệ
rất nhiều các nghiên cứu sau đó. (…) Các nhóm tôn giáo khác nhau được cử đến để
cầu nguyện cho các bệnh nhân trong nhóm được cầu nguyện (bệnh nhân không biết). (…) Các bệnh nhân trong nhóm được cầu
nguyện ở một số khu vực so sánh với những người trong nhóm không cầu nguyện: Họ
dùng thuốc kháng sinh ít hơn năm lần; họ ít bị mắc chứng phù ở phổi hơn ba lần;
không ai trong số họ cần đến ống thở (…); và có rất ít bệnh nhân trong nhóm
được cầu nguyện bị chết.”
Để dễ hiểu vấn đề hơn, chúng ta đọc thêm một đoạn, trong tác phẩm đã nêu,
của D.Chopra: “Những người nghi ngờ khả năng tâm linh đặc dị làm ngơ trước vô
số những nghiên cứu cho thấy ý nghĩ thông thường có thể thực sự tác động đến
thế giới. Điều này đặc biệt quan trọng nếu tâm trí là trường.”
12. Thiền là “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, là siêu vượt khái niệm-tướng trạng, là tự do tinh thần, là sống với ý-thức-mở; ý thức mở là tâm giải
thoát, là vô sư trí, là điều kiện để cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp cuộc sống, để Chân-Thiện-Mĩ hiện tiền trong cuộc sống của ta.
“Tự tri là thấy mình, nhìn
thấy tâm trí mình từ giây phút này đến giây phút khác trong lăng kính của
tương giao tương hệ của mình đối với tài sản, đối với những sự việc, đối với
con người, đối với những ý tưởng… (…) Đây là việc chính yếu: khi mà tôi chưa hiểu
được mình, tôi không thể có được căn bản để suy tư, và tất cả sự tìm kiếm của
tôi chỉ là vô vọng hão huyền. (…) Chính sự kiện ý thức trực tiếp về hiện thể
(cái đang là) là chân lí rồi. (…) Đừng phân tích tâm thức để tâm trí tĩnh lặng.”
(Jiddu Krishnamurti – danh nhân giác ngộ.
“Tự do đầu tiên và cuối cùng”; dịch giả: Phạm Công Thiện).
“Ngộ là ngộ bằng trí tuệ,
và trí tuệ phát ra từ ý chí – ý chí muốn tự tri tự giác, và tự thực hiện trong
chính nó. (…) Ta nên ghi nhận, cái bị huỷ diệt ở đây là cái già và cái chết,
chứ không phải cái sống; vì chính xuyên qua giác ngộ cái sống ấy, lần đầu tiên,
khôi phục lại tinh thần tự do và tinh lực sáng tạo nguyên thuỷ.” (Daizets Teitaro Suzuki. “Thiền luận-quyển
thượng”; dịch giả: Trúc Thiên).
“Theo Đạo học Đông Phương, tâm là một bản
thể tĩnh lặng. Tâm như bầu trời là một khoảng trống mênh mông, không màu sắc,
không tiếng động, không quá khứ, không tương lai. Trong khi đó tư tưởng như
những đám mây vần vũ, luôn luôn di chuyển, thay hình đổi dạng, và che khuất bầu
trời. Người chứa đầy tư tưởng trong trí óc cũng như bầu trời bị mây phủ dầy
đặc. Như vậy tâm vốn an tịnh, mọi rắc rối đều bởi trí óc mà ra. Chúng là tiến
trình của những chuỗi tư tưởng đến rồi đi. Do đó tư tưởng chỉ là cái nhất thời.
Chúng không phải là ta, nhưng là những kẻ bên ngoài tới rồi đi như những vị
khách. Ta đón nhận chúng, khách tốt lẫn khách xấu, nhưng không thay đổi vị thế
chủ nhà của mình. Có nghĩa là trí biến dịch nhưng ta vẫn tồn tại ở đây với tâm
thanh khiết và đơn thuần. Vén mây để nhìn vào bầu trời, đặc ngữ thiền gọi là
“quán tâm” (nhìn vào nội tâm). Nhìn ra sự thanh khiết của bầu trời (tâm) gọi là
“ngộ” (trực giác biết không qua trí thức). Muốn nhìn vào bên trong tâm, đơn
giản chỉ là ngồi im lặng gạt bỏ mọi tạp niệm, tức ngồi thiền. Thiền là đẩy
những đám mây mù đặc để bầu trời (tâm) yên tĩnh hiện ra.” (Đỗ Trân Duy – nhà nghiên cứu Kitô giáo. “Thiền Kitô giáo”).
“Nhược ngộ tịch vi lạc / Thử sinh
nhàn hữu dư.” (Nếu ngộ tịch là lạc / Đời này nhàn có dư). (Vương
Duy - thiền thi sĩ).
13. Tu tập thăng hoa trí tuệ tâm
linh mang năng lượng tích cực; thiện ích cho tất cả chúng sinh, cho toàn vũ trụ,
cho sự nghiệp giác ngộ chung.
E.Mun-đa-sep (“Chúng ta
thoát thai từ đâu”) cho chúng ta có ý niệm về vấn đề này. Nhà bác học này viết:
“Thế giới vi tế tức thế giới năng lượng tâm thần (thế giới tần số siêu cao)
phải có sự chuyển đổi qua lại, và có mối quan hệ tương hỗ với thế giới vật thể
theo kiểu năng lượng sóng chuyển sang dạng vật chất và ngược lại. Nói một cách
khác, phải có vật chất hoá ý nghĩ và phi vật chất hoá vật thể thành ý nghĩ. Các
nhà vật lí thường nhấn mạnh ý nghĩ có tính vật chất, và hình như điều đó đúng.”
Ông viết tiếp: “Trước mắt,
nền văn minh của chúng ta còn chưa biết sử dụng năng lượng vũ trụ. Mà năng
lượng đó lại rất to lớn. Một số nhà vật lí học hiện đại cho rằng, một mét khối
Tuyệt đối có tiềm lực năng lượng bằng công suất 40.000 tỉ quả bom hạt nhân.(…)
Mà chỉ có con người mới nắm được năng lượng này, bởi con người chính là tiểu vũ
trụ của đại vũ trụ. (…) Để nắm được năng lượng vũ trụ, người Lê-mu-ri đã sử
dụng các phương pháp vốn có ở Cõi kia. Cơ sở của các phương pháp đó (thời nay
nghe thật lạ tai) là các khái niệm giản đơn: “thiện” và “yêu thương”.
Tác giả “Trí tuệ nổi trội” nói: “Các nghiên cứu tại trường Đại học
Stanford đã chỉ ra rằng thông qua suy nghĩ, chúng ta có thể gây ảnh hưởng tới
huyết áp và nhịp tim của một người ở cách xa chúng ta. Còn các nhà khoa học tại
trường Đại học Princeton đã chứng minh được
quá trình trao đổi thông tin giữa hai người ở cách xa nhau hàng nghìn dặm.”
Những hiện tượng được trình
bày ở trên không khó hiểu, bởi vì cơ học lượng tử đã cho thấy rằng: “Thế nên
thuyết lượng tử trình bày cho thấy thể thống nhất của vũ trụ. Nó cho ta thấy
rằng không thể chia chẻ thế giới ra từng hạt nhỏ rời rạc độc lập với nhau. Khi
nghiên cứu sâu về vật chất, ta sẽ biết thiên nhiên không cho thấy những “hạt cơ
bản” riêng lẻ, mà nó xuất hiện như một tấm lưới phức tạp chứa toàn những mối
liên hệ của những phần tử trong một toàn thể. Những mối liên hệ này gồm luôn cả
người quan sát. Con người quan sát chính là mắt xích cuối cùng của một chuỗi
quá trình quan sát, và tính chất của một vật thể nguyên tử chỉ có thể hiểu được
trong mối quan hệ giữa vật được quan sát và người quan sát. Điều đó có nghĩa là
hình dung cổ điển về một sự mô tả khách quan thế giới tự nhiên không còn giá
trị nữa.” (Đạo của vật lí; F.Capra).
14. Tự tri là soi sáng, là thấy
biết cái “tôi”; thiền định tự tri là hành động tích cực để giải thoát khỏi trạng
thái bị khuôn đúc của trí não, để giải thoát khỏi tình trạng kiến chấp vô minh.
Để rõ hơn về tình trạng vô minh của trí não, xin nêu
một phát biểu trong Vật Lí Lượng Tử Và Ý Thức (tác phẩm Trí Tuệ Nổi Trội). Phát
biểu của ngài Deepak Chopra, tiến sĩ y khoa, từng giảng dạy ở Đại học Boston (Mĩ):
“Một vài năm
trước đây, một thí nghiệm với các con mèo con đã được các nhà khoa học tại
Trường y khoa Harward thực hiện. Ngay từ khi sinh ra, người ta đã nuôi một số
mèo trong một khu vực sơn bằng các vạch kẻ ngang; tất cả các tác nhân kích
thích thị giác trong môi trường của chúng đều nằm ngang. Một nhóm khác được
nuôi trong một khu vực với các vạch kẻ sọc thẳng, và đó là tất cả những gì mà
chúng có thể nhìn thấy. Khi những con mèo này lớn lên, trở thành những con mèo
già khôn ngoan; còn những con mèo chỉ tiếp xúc với những vạch ngang thì chỉ
nhìn thấy thế giới nằm ngang, ví dụ như chúng va đụng vào những chân đồ đạc như
thể những cái chân này không có ở đó. Những con mèo được nuôi dưỡng trong thế
giới thẳng đứng cũng gặp vấn đề tương tự với thế giới ngang. Lẽ đương nhiên
những điều này không có gì liên quan đến hệ thống lòng tin ở những con mèo này.
Khi người ta nghiên cứu trí não của chúng, một nhóm mèo sẽ không có sự nối kết
liên thần kinh để nhìn thấy thế giới ngang, còn nhóm kia cũng không có sự nối
kết liên thần kinh để nhìn thấy thế giới thẳng đứng. Sự trải nghiệm giác quan
ban đầu của những chú mèo này và cách thức chúng hiểu sự trải nghiệm đó theo
nhận thức của chúng ngay từ những ngày đầu mới sinh khi thị lực của chúng phát triển,
đã thực sự hình thành sự phân tách hệ thần kinh của chúng. Rốt cục, những chú
mèo này chỉ nhận biết được những gì mà người ta đã tạo ra cho chúng và chúng
nhận biết được lập tức.
Một số nhà
tâm lí học đã có thuật ngữ rất thú vị về hiện tượng này - họ gọi nó là “sự cam
kết nhận thức sớm”. Sớm là vì chúng ta tiến hành việc này ngay từ giai đoạn đầu
cuộc sống của chúng. Nhận thức là vì nó ảnh hưởng đến sự phân tách hệ thần kinh
mà chúng ta nhận ra hay nhận biết về thế giới. Và sự cam kết là vì nó cam kết
với chúng ta một thực tế nhất định. Một số nhà khoa học có thể nói với bạn rằng
ngay lúc này hệ thần kinh bạn đang sử dụng sẽ tiếp nhận dưới một phần tỉ của
các tác nhân kích thích hiện hữu. Các tác nhân kích thích mà hệ thần kinh của
bạn tiếp nhận được là những tác nhân tăng cường sự vận động, ý tưởng, cách hiểu
của bạn về những gì mà bạn nghĩ là tồn tại ngoài kia. Nếu bạn đã có cam kết với
thực tế thì những thứ mà tồn tại bên ngoài khung cam kết sẽ bị hệ thần kinh của
bạn loại ra, hệ thần kinh mà bạn sử dụng để tạo ra sự quan sát. Tuỳ thuộc vào
loại cơ quan thụ cảm mà bạn có, tuỳ thuộc vào loại hình các sự quan sát mà bạn
muốn tạo ra và các câu hỏi mà bạn tự hỏi khi bạn tạo ra những quan sát này, tuỳ
thuộc vào tất cả những điều đó, bạn tiếp nhận một phần giới hạn nhất định của
thực tế. Rốt cục, hệ thần kinh của con người chỉ có thể tiếp nhận bước sóng ánh
sáng từ 400 đến 750 nanomet. Và nếu chúng ta ngẫu nhiên đồng ý với các quan sát
từ các giác quan của chúng ta và sự lí giải cho những quan sát này, thì chúng
ta đã tạo ra một khuôn khổ cho những lí giải mà chúng ta thống nhất.
Chúng tôi gọi
phương pháp này là “khoa học”. Chúng tôi thường coi khoa học như là một phương
pháp khám phá sự thật khi mà trên thực tế, khoa học - như cách nó được kết cấu
và hoạt động cho đến nay - thực sự cũng chẳng phải là một phương pháp để khám
phá sự thật. Nói đúng hơn, nó là một phương pháp khám phá khung khái niệm hiện
tại của chúng ta về những gì chúng ta cho là sự thật. (…)”.
Qua phát biểu
trên, có thể tin hiểu thêm về tình trạng vô minh của tâm trí. Càng vọng tưởng
thì càng củng cố kiến chấp vô minh.
Ngày nay nhiều công trình khoa học đã phát hiện rằng, thiền định và các
phương pháp tu tập chân chính làm thay đổi cấu trúc não theo chiều hướng tốt.
15. Sự chứng ngộ xuất sinh từ
khát vọng giác ngộ vì tự lợi-lợi tha
tối thượng; chứng ngộ là sự đột chuyển (chuyển y) ở tâm thức: ánh sáng tâm phi
thời gian (tâm thấy biết vô niệm vô ngôn) hiện tiền và soi sáng mọi tạo tác, mọi
sáng tạo.
Đọc trong Pháp Bảo Đàn Kinh (Lục
tổ Huệ Năng; dịch giả: Thích Thanh Từ):
“Ngài
Pháp Hải bạch rằng: Hoà Thượng để lại giáo pháp gì khiến cho những người mê đời
sau được thấy Phật tánh?
Tổ bảo: Các ông lắng nghe, những người mê đời sau nếu biết chúng sinh tức
là Phật tánh, nếu chẳng biết chúng sinh muôn kiếp tìm Phật cũng khó gặp. Nay tôi
dạy các ông: biết tự tâm chúng sinh, thấy tự tâm Phật tánh. Muốn cầu thấy Phật,
chỉ biết chúng sinh; chỉ vì chúng sinh mê Phật, chẳng phải Phật mê chúng sinh.
Tự tánh nếu ngộ chúng sinh là Phật, tự tánh nếu mê Phật là chúng sinh; tự tánh
bình đẳng chúng sinh là Phật, tự tánh tà hiểm Phật là chúng sinh. (…)”.
16. Nguyện hạnh Đại thừa xuất
sinh năng lực gia trì cho tha nhân; năng lực gia trì mang công năng ý giáo nhiệm
mầu.
Một trích dẫn về năng lực
gia trì:
“Được gia trợ bởi năng lực
của chư Phật, chư Bồ-tát Ma-ha-tát đang ở cấp độ thứ nhất của mình (sơ địa) sẽ
đạt đến Bồ-tát Tam-ma-địa gọi là Ánh sáng đại thừa (phát quang địa), thuộc về
chư Bồ-tát Ma-ha-tát.” (Kinh Lăng Già).
17. Hiện thực giác ngộ mang phẩm
tính “tam thân nhất thể” (pháp thân-báo thân-hoá thân); vì thế chứng ngộ Tánh Không không phải là ở trong trạng thái
của sự trống rỗng vô dụng, mà chính là Tâm Không-diệu dụng (Chân Không-diệu hữu).
Chúng ta thưởng thức một đoạn
trong Thiền Luận (quyển hạ):
“Khi quan niệm về “Hoá thân” đó trải qua một cuộc biến thái nữa, Bồ tát đích
thực là láng giềng của chúng ta. Ngài Bồ tát ông hay Bồ tát bà cũng đi chợ mua đồ,
ngài bửa củi, ngài chép kinh, ngài làm việc trong công xưởng, ngài làm thư kí
trong văn phòng; thời xưa bà Bồ tát thậm chí còn làm kĩ nữ.
Diễn tả theo cách khác, điều này có nghĩa rằng Phật tính (Buddhata) có
trong mỗi người chúng ta, trong mọi chúng sinh. Chỉ khi nào nhìn thấy, chúng ta
trực nhận Bồ tát trong một hoá thân nào đó của ngài. Khi một Văn Thù, hay một
Phổ Hiền, hay một Quan Thế Âm hiện thân trong đẳng cấp xã hội của chúng ta theo
kiểu đó, chúng ta gặp ngài Bồ tát ông hay ngài Bồ tát bà mỗi ngày và mỗi nơi
trong mỗi bước đường thường nhật của đời sống. (…) Điều cần thiết để ý thức được
sự kiện đó, để thấy phải thực hiện ra sao, chính là việc mở ra con mắt Bát Nhã
của riêng chúng ta.” (D.T.Susuki; dịch
giả: Tuệ Sỹ).
18. Giác ngộ (ở kiếp này hoặc vào
các kiếp sau) là trở về với quê hương tâm linh (tức là trở về với tự tánh nhiệm
mầu, ngộ nhập pháp giới); gặp lại vô số bạn lữ giác ngộ; tiếp tục con đường sự
nghiệp tối thượng tự lợi-lợi tha.
Trích dẫn sau đây không phải
là nêu lên đúng đắn nội dung giác ngộ, cũng không phải nhằm mục đích nuôi dưỡng
vọng tưởng siêu hình, nhưng để có chút cảm hứng giải thoát bớt trạng thái tâm
chấp thân-chấp cảnh kiên cố. Đây là trích dẫn về một hiện tượng tâm linh kì bí
mà Eduard Sagalayev, một nhà khoa học lớn của Nga, đã trải nghiệm:
“… Và đột nhiên, trong một khoảnh khắc không ngờ, tôi thấy chính bản thân
mình từ một góc độ bên ngoài (như nhìn một người khác). Tôi thấy tôi đang ngồi ở
ghế và nghe nhạc. Sau đó, tôi bắt đầu thấy rộng ra. Thấy rõ ràng tất cả những gì
xảy ra trong các căn phòng khác, ở các căn hộ khác của toà nhà chung cư ấy, rồi
thấy rõ tất cả mọi thứ trên một đường phố gần đó. Tôi nhận thấy mình ở một kích
thước hoàn toàn khác của thực tại. (…)
(…) Tôi vẫn tiếp tục “bay đi”. Tâm
trí của tôi đã mở rộng ra rất nhiều và tôi cảm thấy mình không chỉ trong một số
không gian đa chiều, mà hiện hữu trong một thế giới đặc biệt – nơi mà thiên hà
của chúng ta trở nên ít bụi tinh vân hơn nhiều, so với các vùng khác. Tôi cảm
thấy cõi đó rất tốt, thật ấm áp và chính tại nơi đó, tôi đã gặp lại người mẹ quá
cố từ lâu của mình. Tôi không nhìn thấy rõ khuôn mặt của bà, nhưng chúng tôi đã
nói chuyện với nhau – không phải bằng những từ ngữ, mà bằng thông điệp trong
tim. Tuy nhiên, tôi vẫn cảm thấy rõ rệt cùng lúc có hai nơi: trong căn hộ của
người bạn và đồng thời, trong một thế giới chứa đầy năng lượng tốt lành và tràn
ngập các thông tin – nơi có hàng tỉ linh hồn con người đang bình an cư trú. Tới
lúc chợt nhận ra mình đã “Trở về bản thân mình” thì thời gian ước tính đã qua mười
lăm phút… Sau sự kiện đó tôi đã từ bỏ thói hư tật xấu không chút khó khăn mà nếu
như trước kia, tôi vẫn không đủ nghị lực để từ bỏ. (…)” (T/c Tài Hoa Trẻ số 616/2010; Hoa Cương dịch theo Pravda).
19. Khi không ý thức cái “tôi”,
khi vô minh và ảo tưởng ngã chấp còn làm chủ hoàn toàn tâm trí, thì không thể có
nhãn quan minh triết và đạo đức nhân văn đích thực.
“Muốn
chuyển hoá thế giới, chuyển hoá sự khốn khổ, chiến tranh, nạn thất nghiệp, nạn
đói, sự phân chia giai cấp và tất cả sự hỗn loạn khắp nơi thì chúng ta phải
chuyển hoá chính bản thân mình. Cuộc cách mạng phải bắt đầu được nhóm dậy trong
chính tâm tư mình, chứ không phải lệ thuộc vào bất cứ tín ngưỡng hay ý thức hệ
nào (…)”. (J.Krishnamurti; “Tự do đầu
tiên và cuối cùng”).
20. Không có người nào không chất
chứa phiền não, không có người nào không có tâm xấu ác, vì thế rất cần có Ngày quốc tế “tự tri-tỉnh thức-vô ngã” để
định hướng cho văn hoá-giáo dục, để đánh
thức tâm trí con người, để xây dựng mẫu số chung cho ý nghĩa cuộc sống.
Tham khảo tác phẩm danh tiếng
Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu: “Thầy Đa-ram nói: Năng lượng linh hồn là năng lượng
ở ngoài electron và ngoài proton. Nhưng tâm năng mạnh mẽ vô cùng, nó có khả
năng tác động lên lực hấp dẫn. Năng lượng của nhiều tâm có một sức mạnh lớn
lao. Có tâm năng tích cực và tâm năng tiêu cực, chúng gắn liền với nhau.(…) Tâm
năng tiêu cực (xấu ác) có thể thu hút các đối tượng phá phách của vũ trụ, tác
động lên thiên nhiên. Bởi vậy, cùng với xung đột và chiến tranh, khá thường
xuyên xảy ra động đất, rơi thiên thạch…
(…) Chúng ta cần nhớ rằng, lòng
thiện và tri thức sẽ thúc đẩy quá trình hiện
thực hoá dự báo tích cực về sự phát triển của loài người; còn cái ác và
thói hám quyền có thể dẫn đến thảm hoạ toàn cầu trong tương lai, kể cả ngày tận
thế, hoặc tạo điều kiện phát triển yếu tố thụt lùi, dẫn đến hoá hoang.
(…) Tôi tin rằng, trong tương
lai, những lực lượng tích cực trên Trái đất sẽ áp đảo lực lượng tiêu cực và sẽ
không có thảm hoạ toàn cầu.” (E.Mun-đa-sép).
4/7/2012
Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn)