|
Tác giả Phạm Đức Nhì |
Phạm Đức Nhì
THƠ/ HAY
KHÔNG PHẢI THƠ?
Đã từng đọc khá
nhiều thơ và cũng võ vẽ làm đước mấy bài, tôi có lần tự hỏi:
Đâu là sự khác biệt giữa văn và thơ?
Tôi thấy nhiều
người làm thơ, đọc thơ, mê thơ đã thử làm công việc định nghĩa thơ, nhưng hình
như chưa ai đưa ra được định nghĩa nào có thể nhận diện dung mạo của thơ một
cách đầy đủ, chính xác. Tuy nhiên, có một nhà phê bình văn học, theo tôi, đã
bắt được cái ‘thần sắc” của thơ, đã nắm được cái cốt lõi của thơ với định nghĩa
như sau:
Thơ là cảm xúc đi tìm một đồng cảm.
Người đó là Nguyễn
Hưng Quốc.
Vâng! Yếu tố để
phân biệt văn với thơ chính là cảm xúc. Mục đích chính của văn là chuyển tải
thông tin. Kiến thức của người viết càng rộng, lượng thông tin càng lớn, lập
luận càng khúc chiết thì bài văn càng có giá trị. Đâu đó cũng có những đoạn văn
tình cảm, ướt át, nhưng cái chất ướt át đó chỉ đến tình cờ, chỉ là sản phẩm
phụ. Với thơ, cảm xúc là chính, là máu thịt. Thông điệp cũng có đấy, nhưng chỉ
như con kênh, con mương để dòng cảm xúc lưu chuyển. Thành công của bài thơ được
đánh giá ở khối lượng, cường độ của dòng cảm xúc chảy trên con kênh ấy. Trong
văn có chút cảm xúc thì cũng tốt; nhưng nếu không có cũng không sao. Ngược lại, trong thơ mà không có cảm xúc thì dù có vần điệu đầy
đủ cũng vẫn không thể được gọi là thơ.
Tâm trí trong tâm
hồn người thường quyện lẫn với nhau; nếu không để ý sẽ khó nhận biết lúc nào trí lộng hành, lúc
nào tâm độc diễn và lúc nào tâm trí hòa hợp.
Tôi đã nhiều lần nhìn lại bản thảo nguệch ngoạc của những bài thơ mình viết,
qua đó, chiêm nghiệm tương quan giữa những rung cảm trong lòng mình và tiến
trình hình thành bài thơ, từ chữ đến câu, thành đoạn và cuối cùng là hoàn tất
cả bài. Và đã thực chứng một điều:
Nếu làm thơ trong lúc “trí lộng hành” nghĩa là viết trong lúc mình rất tỉnh táo,
để lý trí toàn quyền điều khiển tiến trình hình thành bài thơ thì dù vần điệu có khéo, chữ dùng có đắt
đến đâu chăng nữa sản phẩm cũng chỉ là vè, kệ, văn vần … là những thứ không
phải là thơ.
Ngược lại, nếu làm thơ trong lúc “tâm độc diễn”,
nói như Nguyễn Thị Hoàng Bắc “…..
Lúc nào tôi nói thật, nói thẳng được, nổi điên lên mà nói, nói mặc kệ thiên hạ
sự, nói cóc sợ ai, không ‘quan trên ngó xuống người ta trông vào’…”, vâng, đúng cái lúc cảm xúc hoàn
toàn lấn át lý trí ấy, chị viết tiếp “thì
tôi viết được mấy lời kha khá.” (1)
Bài thơ viết vào những lúc như thế sẽ nhiều cảm xúc, sẽ dễ làm rung động lòng
người, sẽ dễ được xem là thành công.
Nhưng khi cảm xúc đã được tuôn đổ tràn
trề trên trang giấy thì dù muốn dù không lý trí cũng sẽ bước vào. Nó sẽ chỉ bên
này, trỏ bên kia, đòi thêm chỗ này, bớt chỗ nọ, nói chung là góp ý, sửa chữa,
để hoàn tất bài thơ. Việc tâm và trí thương lượng, phối hợp với nhau như thế
nào, không liên quan đến bài này nên xin để vào dịp khác.
Sau đây là vài thí
dụ để phân biệt thơ và những thứ không phải thơ.
Hình Vuông
Muốn tìm chu vi
hình vuông
Lấy cạnh nhân
bốn lệ thường nhớ ghi
Diện tích hình
vuông khó gì
Lấy cạnh nhân
cạnh sai đi đường nào
Môt ông thầy dạy
toán nào đấy đã mượn thể thơ lục bát để diễn tả một công thức toán cho học trò
dễ nhớ. Nội dung của 4 câu lục bát hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, không có
một chút cảm xúc nào. Đây không phải là thơ.
Anh Yêu Khoảnh
Đất Hình Vuông
Ôi! Khoảnh đất
hình vuông
ở giữa là căn
nhà nhỏ bé
vách đất, mái rạ
nơi anh đã gởi
cả trái tim
vì trong căn
nhà đó có em.
(PĐN chế để
minh họa)
Ở đây tác giả đã
bước vào, đã xuất hiện trong khung cảnh thơ, tâm đã đối cảnh. Và đã có cảm xúc.
Hay dở chưa bàn đến, nhưng Anh Yêu Khoảnh Đất Hình Vuông đã có thể gọi là thơ.
Công cha như
núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như
nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ
kính cha
Cho tròn chữ
hiếu mới là đạo con
(Ca dao)
Một nhà nho đã đem
quan niệm về chữ hiếu của Khổng Tử dàn trải trong 4 câu lục bát để loan truyền
trong dân gian. Đây chỉ là sản phẩm của lý trí, tâm chưa đối cảnh, không có cảm
xúc, không thể gọi là thơ.
Thôi xa rồi mẹ
ới
lệ nhòa mi mắt
mong con phương
trời
có lần chợt
tỉnh đêm vơi
nghe giòn tiếng
súng nhớ lời phân ly
mẹ ơi con mẹ
tìm đi
bao giờ hết
giặc con về mẹ vui.
(Nhà Tôi, Yên
Thao)
Tác giả đã bước
vào khung cảnh thơ, cảm xúc đã dạt dào. Đích thị là thơ.
Phong lai sơ trúc
phong khứ nhi trúc
bất lưu thanh
nhạn quá hàn đàm
nhạn khứ nhi đàm
vô lưu ảnh
thị cố quân tử
sự đáo nhi tâm thỉ
hiện
sự khứ nhi tâm tùy
không.
Dịch:
Gió qua lay trúc
gió đi rồi không
lưu lại âm thanh
nhạn lướt mặt hồ
nhạn đi mà hồ
không giữ lại hình ảnh
người quân tử cũng
vậy
việc đến thì tâm
khởi
việc qua rồi tâm
lại như không.
Đây là bài học căn
bản về tu tâm của Nho Sĩ trong tiến trình tu tâm, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ. Dù âm điệu du dương, hình ảnh đẹp nhưng bài này vẫn là sản phẩm của lý trí,
không phải thơ.
Thơ Trên Cát
Viết bài thơ
trên cát
Cơn sóng vỗ xóa
đi
Vô tình đâu
biết được
Mình viết bài
thơ gì
(Viên Minh, từ tác
giả)
Cũng tương tự như
Phong Lai Sơ Trúc nhưng ở đây tác giả đã có mặt trên bãi biển, đã trực tiếp làm
thơ. Tâm đã đối cảnh. Và đã có cảm xúc, cái cảm giác sảng khoái của một thiền
sư đạt đạo khi đã thực chứng được sự buông xả của tâm mình.
Những Câu Thơ
Chùm Gởi
Có 2 loại:
1. Sản phẩm của lý trí
Chúng ta thử đọc
bài thơ sau đây của Mai Quỳnh Nam:
Tự Sát, Trường Hợp Hemingway
Tự sát
cơ chế di truyền
căn nguyên từ
máu
Viên đạn súng
săn sư tử
chính ông phát
nổ
Chết
ai cũng vậy thôi
bi kịch đời
người
cần giải thoát
(Tạp Chí Thơ HNVVN
số 11-2011, tr.6)
Đoạn đầu:
Tự sát
cơ chế di truyền
căn nguyên từ máu
là một phát biểu
(statement), có thể là ý của tác giả, cũng có thể là khám phá của nhiều người
khác mà tác giả đã tổng hợp được qua quá trình đọc của mình. Nó là sản phẩm của
lý trí nên, nếu đứng một mình, không thể gọi nó là thơ. Nhưng đặt nó lên đầu bài
coi như một gợi ý, có đóng góp cho bài thơ nên nó được “ăn theo”, trở thành
những câu thơ trong bài thơ đó. Bởi vậy tôi gọi nó là những câu thơ ăn theo, hay
là những câu thơ chùm gởi.
Tương tự như vậy,
đoạn đầu trong bài thơ sau đây:
Lá Cờ
Chính Nghĩa
Tự do như muối
hạnh phúc như
đường
khi đang còn
ăn đủ miếng
ngọt, miếng ngon
khó thấy được
giá trị của hạt
đường hạt muối
……………………………..
(Lá Cờ Chính
Nghĩa, Phạm Đức Nhì, t- van.net)
cũng chỉ là một
phát biểu của tác giả về hai ý niệm Tự
Do và Hạnh Phúc; đó là sản phẩm của
lý trí. Đứng một mình thì không phải là thơ. Nhưng đặt vào khung cảnh bài thơ
thì nó lại là những câu mở đầu cần thiết, đưa ra chủ đề để tác giả khai triển ở
những đoạn sau. Nó đã “ăn theo” để trở thành những câu thơ chùm gửi.
2. Những Câu Mào Đầu, Dọn Cảnh
Tôi gọi tắt là
những câu Cảnh.
Cảnh có thể là một
người, vật, cảnh vật, sự việc hay ý tưởng xuất hiện trước mắt hay trong đầu của
tác giả; tác giả tạo ra những câu thơ Cảnh, xem đó là cái nguyên cớ, cái gợi ý
để Tức Cảnh Sinh Tình, nghĩa là dựa vào Cảnh viết thêm những câu thơ khác biểu
lộ tâm sự, cảm xúc của mình.
Thí dụ hai câu đầu trong bài Chân Quê
của Nguyễn Bính:
Hôm qua em đi
tỉnh về
Đợi em ở mãi
con đê đầu làng
Ở đây tác giả đã
bước vào khung cảnh của bài thơ, đã đứng ở con đê đầu làng để chờ người yêu về
(tâm đối cảnh). Chúng đã có điều kiện cần (nhưng chưa đủ) để gọi là thơ. Bởi
chúng mới chỉ là những câu Cảnh; phải chờ tác giả sinh Tình – nghĩa là dựa vào
Cảnh để viết tiếp những câu bày tỏ tâm sự, cảm xúc của mình.
Khăn nhung quần
lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy
bấm, em làm khổ tôi.
Đến đây, cảm xúc
của tác giả đã xuất hiện. Hai câu cảnh, đứng riêng lẻ thì chưa
thể gọi là thơ. Chỉ đến khi tác giả đã hoàn tất hai câu sinh tình thì hai câu
cảnh mới tự động trở thành thơ và tất cả đã hợp cùng với những đoạn sau
để trở thành một bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Bính.
Hai câu đầu của bài Bạc Tần Hoài (Đỗ
Phủ):
Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia
Khói trùm nước lạnh, trăng lồng cát
Thuyền đậu Tần Hoài, cạnh tửu gia
Tác giả đã có mặt
tại bến Tần Hoài để ngắm cảnh khói
trùm nước lạnh, trăng lồng cát; ở
đây tâm đã đối cảnh. Nhưng
2 câu này vẫn chưa thể gọi là thơ vì chưa có bóng dáng của cảm xúc. Phải chờ
đến khi 2 câu sau xuất hiện:
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa
Cô gái không hay buồn mất nước
Bên sông còn hát Hậu Đình Hoa (2)
(hoasontrang,us/tangpoems/duongthi.php?loi=42)
(Trần Trọng San dịch)
thì mới thấy nỗi
buồn xé ruột của tác giả, một sĩ phu yêu nước. Hai câu đầu - đóng vai những câu
thơ dọn cảnh - cũng được ăn ké theo thành 2 câu thơ cuả một thi phẩm tuyệt tác.
Trường Hợp Bài
“Thơ Con Cóc”
Trong bài Nhân
Cuộc Tranh Luận Về Thơ Con Cóc, Thụy Khê đã viết:
Khi Nguyễn Hưng
Quốc thách Đỗ Minh Tuấn phải chứng minh được rằng Thơ Con Cóc không
phải là thơ, Đỗ Minh Tuấn đã
vội lo "đây là một thách
thức triết học nghiêm túc, nhưng lại là một vấn đề ngụy tạo". Những lo
lắng của Đỗ Minh Tuấn thật sự không cần thiết vì ở đây cũng chẳng có vấn đề
triết lý triết học gì cả. Chỉ có một lẽ dễ hiểu là xưa nay chưa ai định nghĩa
được một cách chính xác Thơ là gì? …
Và bà đưa ra kết
luận nước đôi:
Vậy Thơ
con cóc, bảo nó là
thơ cũng được. Mà bảo không phải là thơ cũng xong. (3)
Tôi tự mình chưa
nghĩ ra được một định nghĩa cho thơ, nhưng nếu hỏi:
“Thơ Con Cóc có
phải là thơ hay không?
thì tôi hy vọng
mình có thể trả lời được. Ít nhất là sẽ cố thử xem.
Chàng Ngốc thứ
nhất xuất khẩu:
Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra
Đây là 2 câu mào
đầu, dọn cảnh. Trường hợp này tâm đã đối cảnh; chính mắt chàng Ngốc đã thấy con
cóc nhảy ra; tác giả đã có mặt trong khung cảnh của bài thơ. Hai câu này đã có
điều kiện cần (nhưng chưa đủ) để được gọi là thơ. Nếu lúc này tác giả đọc thêm
vài câu nữa (Sinh Tình) thì sẽ thành bài thơ. Nhưng cái cảm xúc đang óc ách
trong lòng chưa kịp biểu lộ thì đã … hết lượt (hết thời gian dành cho mình, đến
lượt người khác).
Nếu Chàng Ngốc Thứ
Hai dùng 2 câu của Cháng Ngốc Thứ Nhất làm phần mào đầu, gợi ý rồi đọc mấy câu
Sinh Tình của mình thì đã không có chuyện. Đàng này thấy con cóc vẫn cứ ngồi đó
(chắc hơi lâu) nên chàng đã đọc 2 câu mào đầu của chính mình:
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đó
Thế là hết giờ,
đến lượt người khác. Do đó cái tâm sự không thoát ra được, đành phải để âm ỉ
trong lòng. Đến đây chúng ta cũng vẫn chưa có Thơ.
Chàng Ngốc Thứ Ba
tiếp tục mắc lỗi lầm của Chàng Ngốc Thứ Hai nên cũng chỉ được thêm 2 câu thì
hết giờ:
Con cóc ngồi đó
Con cóc nhảy đi.
Cả 6 câu của 3
Chàng Ngốc hợp lại, tuy dài hơn, cũng chỉ tạo thành cái phần mào đầu, dọn cảnh
(Cảnh). Chưa có ai Tức Cảnh Sinh Tình nên vẫn chưa có Thơ.
Giá như một trong
ba chàng Ngốc (ai cũng được) làm thêm đoạn dưới đây:
Nhìn con cóc nhảy
tôi nhớ những ngày xưa
thơ dại
tôi cùng cô bé bên nhà
sau cơn mưa
cầm giỏ đi bắt cóc nhái
chơi mở quán bán hàng
(PĐN chế ra để minh họa)
thì đã có chút cảm
xúc, thương nhớ, vấn vương một kỷ niệm thời nhỏ dại. Và chúng ta đã có Thơ (hay
dở lại là chuyện khác).
Như vậy, “Thơ Con
Cóc”, tuy đã vượt lên trên các loại ca dao, vè, kệ, văn vần … , là “những câu thơ chùm gởi” đã qua
được cửa ải “tâm đối cảnh”, nhưng vì không có chỗ bám vào để ăn theo nên cũng chỉ mới có điều kiện cần, chưa đủ để được gọi là Thơ.
Nếu cách giải
thích này may mắn được độc giả chấp nhận thì “Thơ Con Cóc” không phải là thơ.
Những ai cho “Thơ Con Cóc” là một bài thơ hay, hoặc
dở (như tôi) (4) không những chỉ … trật lất mà còn … trật lất đến hai lần.
Tháng Tư/ 2015
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
Chú
thích:
1. Thơ
Đến Từ Đâu, Nguyễn Đức Tùng.
2. hoasontrang.us/tangpoems/duongthi.php?loi=42.
3. thuykhe.free.fr/tk97/concoct.html.
4. “Thơ
Con Cóc” là trường hợp quá đặc biệt, nằm trong cái
ngách hẹp giữa ranh giới của thơ và những thứ không
phải thơ, nên có dạo trong bài Thầy Trò Tam Tạng Và Thơ
tôi đã lầm lẫn gọi nó là thơ; và là thơ dở vì không
có cảm xúc. Tôi viết bài này gọn hơn, chi tiết hơn, đi
xa hơn để làm rõ điểm lầm lẫn của mình.