Chế Cẩm Đình
MỘT
CÁI TẾT XƯA
Năm ấy
lên mười, cái tuổi mà trẻ con bây giờ còn ăn đút, thì thế hệ như tôi đã là những
thiếu niên trưởng thành. Tức là phải làm lụng tất thảy những việc trong nhà, hoặc
cả ngoài đường để phụ gia đình kiếm sống. Việc trong nhà như chăn nuôi heo ca
gà vịt, chặt củi, gánh nước, chợ búa nấu nướng, giặt giũ đều phải cáng đáng. Hoặc
đi bán nước ở bãi xe đò bên này cầu Đông Hà, tay xách cái ấm nhôm nước chè, ụp
cái ly nhựa lên vòi ấm, mỗi khi xe đò dừng lại là cả đàn con nít áo quần mũ nón
phong phanh trong từng cơn gió bấc xách ấm chạy quanh xe rao khản cổ “nước chè
nóng đây, nước chè xanh nóng đây, xanh nóng đây”, mỗi ly giá 5 hào.
Tiền
kiếm được bỏ ống bin mỗi ngày một ít hay mỗi dịp bán chác thì được kha khá hơn,
như cân con heo hay gả đàn gà chẳng hạn. Đập ống cuối năm, nhỏn mấy chục đồng bạc,
nhưng cũng là một món tiền to đối với lũ trẻ con hồi đó. Đưa cho mẹ đi sắm được
hai anh em mỗi đứa một bộ đồ tây, vừa để đón Tết, lại còn dùng để bận đi học
cho cả năm sau, dư ra ít đồng thì mẹ giữ lại mua sách vỡ cho học kỳ 2, chứ
không đồ chơi đồ chiếc như bây giờ.
Việc
đầu tiên của một kỳ ăn Tết là chở thằng em ra quán chú Quang thọt hớt tóc làm mới
cái đầu. Phải đứng sắp hàng vì ai cũng để cận kề ngày Tết mới đi cắt, cũng là một
kiểu hà tiện chi tiêu đến từng hào bạc. Đến phiên, hai anh em lần lượt trèo lên
cái ghế hớt cao cao, ngồi im thin thít, chứ ngọ nguậy là bị cú ngay vào đầu từng
cú rõ đau, lúc trước phó cạo cũng quyền hành với khách trẻ con lắm, nên rất sợ.
Cái tông đơ cùn ủi đi ủi lại như dựt từng cọng tóc chứ không đứt ngọt làm chảy
cả nước mắt nước mũi cũng phải cắn răng chịu trận, vì chẳng còn biết cắt ở đâu
khác. Rồi người thợ miết cái lưỡi dao cạo mòn khoét hình cung vào chiếc dây thắt
lưng bằng da móc chặt một đầu vào cọng thép cột lưng chừng vào cái trụ, lật tay
xoét xoét xoét vài ba lần cho bén cả hai mặt dao, bôi chút nước lạnh vào rìa
chân tóc của cái đầu vừa cắt rồi chấn quanh một vòng là xong, hết đồng rưỡi mỗi
cái đầu.
Tối
hăm chín đổ bánh thuẫn, thì chiều đó phải đánh trứng gà với bột củ mình tinh nhừ
cổ tay bằng bó đũa cột lại, đánh phải thật dậy thì bánh mới tơi khi đổ, chứ
không vón cục ăn rất nghẹn. Mẹ còn làm mứt gừng, mứt dừa nữa, cũng mua phẩm về
nhuộm đủ màu mà không sợ độc hại như bây giờ. Thêm việc gói bánh chưng với bánh
đòn để sáng ba mươi bắt đầu thổi cho đến chiều tối là vớt được, chừng mười hai
tiếng đồng hồ. Củi dương cháy nõ, ngồi bếp lâu rát đỏ cả đôi gò má, nhưng vẫn
thích vì rất ấm. Lại phải canh cho hai bánh pháo Bình Đà gác trên chạn bếp được
khô mà lấy ngay xuống, vì mua ở cửa hàng Chất đốt về đã bị ẩm, nếu gác lâu quá
không lấy xuống là tự nổ tanh bành, không còn pháo đốt lúc giao thừa với ngày
cúng đưa.
Vần
mấy chậu thược dược ngoài mảnh vườn nho nhỏ vô bực tam cấp trước cửa nhà tỉa
tót lại, vót vài que tre dài chống những đài hoa lên cho thẳng. Thược dược đủ
màu vàng, đỏ với tím, mà hiếm nhất là thược dược xanh biếc, rất khó kiếm giống
để trồng vào đầu tháng mười một âm. Còn lay ơn phải xuống củ trước nữa tháng,
đúng ngày rằm tháng mười, bón tro đều thì sẽ nở hoa đúng Tết. Dễ trồng nhất là
bông thọ, thọ vàng, thọ cam gì cũng rất khỏe sống, chỉ cần xin nhánh ngoài nhà
thằng Bé hoặc thằng Khánh ở xóm ngoài về giâm xuống đất tơi là trổ bụi đến Tết
có hoa chưng bàn thờ khỏi mua. Mà phải lựa loại mảnh lá để trồng, chứ loại lá
dày cọng lớn thì i sì thọ cồi bông rất xấu, không chưng được. Hoặc năm nào hoa
nở không đúng dịp thì phải qua cửa hàng bách hóa mua hoa giả làm bằng giấy màu
dán vào mấy cọng tre để cắm vào bình thay cho hoa thật, vì không tàn nên cứ để
vậy cả năm không lấy xuống, mà đợi năm mới rồi thay luôn. Bàn thờ Tết, ngoài
bình hoa thì còn có thêm hộp mứt tết loại một đặt trên chiếc dĩa nhựa, với chai
rượu chanh Hà Nội và một gói thuốc lá Điện Biên hoặc Sapa.
Thời
buổi xe tàu đi lại khó khăn, cành đào ngoài Bắc cũng chưa có mặt ở miền Trung mỗi
dịp Tết như bây giờ, chỉ toàn chơi mai vàng, chứ cũng không ai chơi hồng diệp
mai chở ra từ Bình Định như lúc sau này. Mai cành ở quê đem ra bán đây ngoài chợ
thị cho người có tiền mua về chơi, đắt rẻ tùy theo cành lớn bé, nụ nhiều hay nụ
ít, có nở đúng ngày mồng một hay không. Năm đó ba đi công tác xa không về, thì
tôi phải lĩnh nhiệm vụ vào làng cưa mai. Lọc cọc cái xe đạp Phú Xuân mười cây số
từ Đông Hà vô Nhan Biều là làng nội để thắp hương thắp khói. Rồi lấy cây rựa chặt
lấy một cành mai bằng ngón chân cái của cội mai già trước hiên nhà tổ, phải chặt
thật khéo kẻo rụng hết nụ, cột đứng vào bóp bà ga xe đạp, chào mệ chào o rồi chở
mai về. Dọc đường, mấy người lớn đi xe Dame với xe 67 cứ chạy theo hỏi “Ê cu,
bán mai không, bán không?” thì lắc đầu nguầy nguậy guồng chân đạp chạy như sợ
người ta chận lại lấy mất. Về tới nhà dỡ xuống, đem đốt gốc cành rồi cắm vào
chiếc bình đồng làm bằng quả pháo đại liên mới đánh sáng loáng hồi sáng, chỉnh
thế cho vừa ý, đổ nước vào, thả thêm một viên Aspirin kích nụ nở nhanh rồi
chưng vào khoảng giữa tủ thờ với bộ bàn ghế khách, năm nào hoa nở nhiều, với có
hoa 6 cánh thì tin rằng năm đó tốt lành, chỉ giản dị vậy thôi. À quên, hai cánh
tủ hoặc trên tường còn được trang trí thêm hai câu đối trên phong giấy bồi màu
đỏ “Tết đến gia đình vui sum họp – Xuân về con cháu hưởng bình an” cho ra phong
vị hoàn hảo của một cái Tết, dù rất nghèo.
Xong
tất thảy, thì trẻ con trong xóm tập thể bệnh viện tụm lại ở nhà anh em thằng
Liêu thằng Hữu đánh bài tiến lên hoặc đổ bầu cua ăn tiền chờ đón giao thừa. Chừng
mười một giờ khuya thì giải tán, đứa nào phải về hẳn nhà đứa nấy. Háo hức chờ
tiếng pháo đầu tiên của một năm mới, thì cũng đến lúc, từng loạt tiếng nổ vang
lên trước thời khắc giao thừa một chút, rồi rền vang khắp nơi báo hiệu một mùa
xuân mới đã sang. Tôi cũng tự treo băng pháo lên góc giàn, châm lửa đốt rồi lùi
lại đứng nhìn dây pháo vừa nổ vừa lảy rảy, xác pháo tóe ra sau mỗi phát nổ, dựt
lưng khừng trên không rồi xòe ra rơi xuống lả tả, thẫm đỏ cả một góc sân. Cứ sắp
đến khúc có quả pháo tống là bịt chặt hai tai vì sợ điếc, nhưng cũng muốn nghe
nó nổ to như nào nên có lúc liều mình thả tay ra. Tiếng nổ còn chưa dứt khi vừa
tàn dây kíp là hai anh em nhảy vào hôi lại những trái pháo tịt, vì sợ mấy thằng
nhà không có pháo như bọn thằng Nhân thằng Ánh chạy tới tranh mất, có khi bị nổ
toét tay những vẫn không sợ, để mai đốt lại hoặc lấy thuốc pháo nạp súng diêm,
loại bịt đầu van xe đạp bằng chì chứ không phải loại bắn bằng diêm, nhưng cũng
điểm hỏa bằng cồi thép bịt gỗ lẫy bằng xăm xe đạp, nổ điêng điếc óc.
Sớm
mùng một, dù hồi hôm thức quá nửa đêm nhưng vẫn háo hức dậy sớm, để chờ ai tới
chơi mà có tiền lì xì, một mong đợi rất khát khao hồi đó. Bác Sửu, dì Lý hay dì
Cúc, dì Hồng là những hàng xóm gần nhất thường đến trước. Bác Liên, bác Đào, cậu
Long, cậu Thắng cũng đến tầm trưa, mỗi người cho năm hào hay một đồng, là vui mừng
khôn xiết, vòng tay lễ phép cám ơn rối rít. Rồi những bạn bè bên thị xã của ba
mẹ cũng qua chơi, chú Cân, chú Châu, dì Cúc, dì Hà đạp xe qua chúc Tết, thường
được những năm đồng vì người bên thị xã giàu hơn bên này. Các dì các cậu trên Cồn
Tiên cũng về, rồi dưới làng lên nhưng ít có tiền để cho, hoặc chỉ một hai hào kẽm,
thì không tiêu mà để dành chơi tán. Cả ngày mùng một chẳng dám đi đâu vì sợ thất
lộc lì xì. Lại việc được mời đi đạp đất nhà người ta vì hợp tuổi, như nhà chú Tạo
dì Huệ năm nào cũng qua dặn trước, thì được đến mười đồng, vì nhà dì chú ấy thuộc
loại khá khẩm trong khu tập thể bệnh viện, chỉ sau nhà dì Tâm có chú Điện đi
lao động bên Liên Xô về. Gom góp cả ngày cũng được trên dưới năm chục bạc, bằng
công sức bỏ ống cả năm, nếu chịu khó không rời trận địa lì xì bỏ đi chơi.
Mùng
hai, nhắm hết khách mới dám xin mẹ rời nhà du xuân. Nhưng vẫn cài thằng em ở
nhà hóng những vị khách sót lại còn chưa tới. Cà tòng cà tèng một mình đạp xe
qua hội chợ chỗ khách sạn Mekong bây giờ. Mấy chục gian hàng thưng tôn tạm bợ cặp
sát bờ tường của khu nhà khách Đông Hà đông nghịt người. Ném lon, bắn súng hơi
đạn nhựa, chuột vào hang, thảy vòng, phóng phi tiêu, quay số đủ cả. Ghé vào mấy
gian hàng, cũng chỉ để xem người ta chơi, chứ không dám đậu vào trò gì, vì sợ
thua hết tiền. Đông nhất là gian hàng lô tô, dựng bục cao chỗ khoảnh sân cuối
cùng, đâu lưng với tường xí nghiệp nước bây giờ, như là một sân khấu thu nhỏ nườm
nượp người ra vào bởi có nhạc sống rất náo nhiệt. “Lô tô lô tô, quý bà quý cô,
hãy nghe cho rõ: con mấy gì đây, con mấy gì đây, cờ ra con mấy, con mấy gì đây,
con mấy gì đây …”. Hơn ba chục năm rồi mà tiếng hô lô tô như còn vọng rõ trong
tai khi ngồi hồi tưởng lại một cái tết của ngày xanh. Thời gian thật là như
cánh nhạn.
Lúc
ra về, dắt xe tới cổng định trèo lên thì bị trật xích, mà lại trật ngược ra
ngoài nên lúi húi bỏ vào mãi không được. Ngửng đầu lên trông người qua lại để
nhờ ai đó giúp thì thời may có thằng anh của thằng Hai Tị với một thằng tên là
Tọong bạn của nó tự nhiên tới giúp đỡ rất nhiệt tình. Vì thường ngày hai thằng
này, hơn chúng tôi vài tuổi, hay ngồi cổng chợ Đông Hà dán dép với áo mưa, cứ
thấy lũ học sinh bên cầu đi ngang qua là trợn mắt bặm môi dọa đánh, kiểu ra
oai. Thì hôm nay việc hai chúng nó giúp tôi chẳng khác nào ông Tiên ông Phật rớt
xuống cứu độ người hoạn nạn vậy, chỉ loáng cái là xích líp moay ơ quay đều kêu
ro ro như chưa bao giờ tuột, tôi rối rít cảm ơn rồi trèo lên xe đạp về, trong
lòng vô cùng áy náy vì lâu nay cứ đinh ninh chúng là một lũ người xấu, chứ ngờ
đâu hôm nay tốt đến vậy với một đứa trẻ con phía bên kia cầu như tôi.
Về đến
nhà, dắt xe vào cất. Việc đầu tiên là kêu thằng em ra hỏi kiếm thêm được bao
nhiêu, có ai gửi lại cho anh không? Rồi lôi cục tiền trong bọc áo của mình ra đếm,
thì trời ơi, nó đã không cánh mà bay tự lúc nào! Moi hết các túi áo với túi quần
còn lại cũng không có, người bắt đầu run bắn lên, hai con mắt đỏ kè chực khóc.
Lôi vội xe đạp ra đạp ngược qua cầu, vừa đạp vừa ngó chăm xuống đường mong cục
tiền còn nằm lăn lóc đâu đó, ngược xuôi mấy vòng nữa trong hi vọng rồi sau cùng
cũng sập tắt hoàn toàn. Nước mắt bắt đầu rơi lã chã, quẹt ướt cả một vạt tấm áo
xuân vừa được sắm vào ngày cuối năm.
Mới
nghĩ lại, cầm tiền qua hội chợ không chơi hàng nào cả, cũng không mua một món
gì, tay lại sờ cục tiền liên tục thì mất chỗ nào cho được, không thể, không thể!
À, tại sao tụi thằng Tọong tự nhiên sửa xe nhiệt tình giúp mình, rồi lúc sửa một
thằng cứ kêu mình giữ xe cho nó mắc xích lại, còn thằng kia cứ đứng choàng sau
lưng mình như sợ mình giữ xe không vững nhỡ ngã ra nó sẽ đỡ hộ. Thì ra chúng đã
dàn cảnh móc mất cục tiền lì xì của tôi, ôi trời ơi là trời! Buồn và tiếc mất cả
mấy tháng trời sau đó, lúc nào cũng cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ nghĩ đến cục tiền mấy
chục đồng bạc, đến độ học hành sa sút gần đội sổ lúc hết năm học, thật là thảm
thương.
Bây
giờ, dù vẫn còn nghèo, nhưng mấy đứa con lại không thèm tiền như mình lúc trước,
cũng không háo hức nhận lì xì. Có lẽ hằng ngày đã đủ ăn đủ mặc, lại được chơi mấy
trò chơi trên điện thoại nên chẳng còn ham muốn gì hơn nữa với lứa tuổi này. Viết
lại những dòng ký ức này để nhớ về cái Tết nghèo năm cũ, thời của quê hương đất
nước còn khốn khó nhiều sau chiến tranh, những cái Tết tuy nghèo nhưng rất dặn
dày tình cảm, tự xuyên sâu vào miền ký ức của rất nhiều người trong thế hệ
chúng tôi.
CHẾ CẨM ĐÌNH