Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Sunday, November 4, 2018

NHÀ THƠ VÀ NGHIỆP THƠ QUA MẤY BÀI THƠ THIỀN CỦA CHU VƯƠNG MIỆN - Nguyễn Bàng

    
                                            Tác giả Nguyễn Bàng                 


NHÀ THƠ VÀ NGHIỆP THƠ QUA MẤY BÀI THƠ THIỀN CỦA CHU VƯƠNG MIỆN

Từ ngày 03 tháng 9 năm 2018 đến nay, mới vừa đầy hai tháng, nhà thơ Chu Vương Miện đã liên tiếp trình làng 23 chùm Thơ Thiền trên nhiều chiếu thơ mạng ở trong nước và ở ngoài nước. Mỗi chùm thơ có từ 2 đến 5 bài, vị chi đã có cả non 100 bài Thơ Thiền Chu Vương Miện đến với bạn đọc. Chữ Thiền, Thiền học vốn từ chữ Thiền tông mà ra, thường được dịch là suy tưởng, suy ngẫm. Xem vậy thật đáng nể sự suy tưởng, suy ngẫm một nhà thơ  không phải là thiền sư.
Thơ Thiền không phải bây giờ mới có. Nó xuất phát từ Trung Hoa và phát triển mạnh từ thời nhà Đường. Ở Việt Nam, Thơ Thiền phát triển vào thời Lý Trần với các tác giả - các thiền sư của các thiền phái như Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, Trúc Lâm Yên Tử mà đỉnh cao có thể kể là Tuệ Trung Thượng Sĩ.
Từ đời Lê đến Nguyễn, hơn năm thế kỷ, một số ít tác phẩm của các danh nhân Việt Nam như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ…cũng được coi là thơ thiền
Thơ Thiền Việt Nam hiện đại tiếp tục phát triển trên cơ sở hào quang của Thơ Thiền trung đại và môi trường văn hóa hiện đại . Ngay trong Thơ Mới cũng có một số tứ thơ phảng phất hương vị Thiền.
 Đến những năm 60 ở miền Nam, thơ Thiền Việt Nam đã dần dần tiếp cận sinh khí phương Tây và hiện đại hóa thể hiện trong những ca từ nhạc Trịnh Công Sơn, thơ Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư, Phạm Công Thiện…
Trên dòng chảy lịch sử ấy của Thơ thiền Việt Nam, bạn đọc thấy cả trăm bài Thơ Thiền của Chu Vương Miện ở đầu thế kỷ 21 này là điều dễ hiểu.
Không đủ sức và đủ tầm để viết về cảm nhận cả non 100 bài Thơ Thiền của Chu Vương Miện, bài viết nhỏ này chỉ xin nêu mấy cảm nhận cá nhân về NHÀ THƠ VÀ NGHIỆP THƠ qua mấy bài Thơ Thiền trong khjoois thơ phong phú ấy.

                

Vậy, nhà thơ trong thơ thiền Chu Vương Miện là những con người như thế nào?
Trước hết là chính tác giả, một con người cũng như mấy tỷ người khác trên cõi trần này đều đang sống trong bể khổ trầm luân:

ta sinh trong bể khổ
phía nào cũng trầm luân
nay chiếc thuyền bào ảnh
mốt giọt lệ phù vân
từng bước trong cố kiếp
từ hạt cát hoá thân

Sự suy tưởng này không có gì mới mà chỉ là diễn luận lời Đức Phật nói với ngài A Nan: “Ta thấy vạn vật trong trời đất đều có nhân duyên của kiếp trước”. Chu Vương Miện chỉ dẫn thêm về sự trầm luân của chính đời mình:

chập chờn bao nhiêu chặng
chặng nào của chúng sinh
ta đi bao nhiêu đoạn
vô tận và vô cùng

Để rồi nhận ra một quy luật tự nhiên:

mặt trời soi trước mặt
trăng sao dõi sau lưng

Không giải thích gì nhưng phải chăng nhà thơ đã ngộ ra người sống trên đời, cũng như mọi việc trên thế gian này đều thuận theo quy luật nhân quả, đều có căn nguyên của nó. Bởi vậy, hãy học cách thuận theo tự nhiên, buông bỏ chấp nhất, vướng bận
Như vậy, nhà thơ sống hoàn toàn như mọi người khác và cũng làm bất cứ việc gì như mọi người khác. Nhưng trong bể khổ trầm luân chung của kiếp người, con người không phải là một thể đồng nhất mà có những nhân duyên khác nhau bởi vậy có những số phận khác nhau. Vì thế, con người của nhà thơ sẽ có những nét khác biệt với những con người ở các nhà khác.
Bài thơ NGÀY 24 GIỜ đã vẽ nên khá chân thực chân dung một con người của thơ ca chữ nghĩa:

ngủ rất ít
ở không làm thơ
làm đã đời
rồi vo tròn bài thơ quăng thùng rác

Tưởng đã quăng thơ vào thùng rác thì thôi, ai hay:

nằm xuống giường lim dim đôi mắt
nghĩ chuyện xưa chuyện nay
vẫn chưa ngủ đuợc
lại ngồi dậy mần thơ
hết bài này qua bài khác

Rồi kết cục ngộ ra “chuyện xưa chuyện nay” là những chuyện gì:

đọc đi rồi đọc lại
toàn chuyện ruồi bu

Bài thơ TRÁI TIM là một minh chứng cụ thể về chuyện ruồi bu đó. Nguyên uỷ câu chuyện là thế này:

một con gà chết
một con gà nuốt dây thun
xe quét rác đi qua phố
hốt luôn gã thất tình
con quạ đậu trên cành
con gái ngồi trên ghế
chiều thứ bảy lặng thinh
con quạ kêu thảm lạ

Một con gà chết vì nuốt phải dây thun chẳng làm động lòng ai. Xe rác vẫn đi qua phố. Cô gái chiều thứ bảy nghỉ ngơi ngồi trên ghế lặng thinh. Chỉ mỗi một gã thất tình đang sầu loạn tâm can cảm thấy mình như bị hốt lên xe rác. Và một con quạ kêu thảm lạ.
Quạ kêu xác chết là một lẽ thường của tạo hoá. Vì thức ăn của quạ là xác động vật. Khi thấy thức ăn chúng thường kêu để báo cho cả đàn biết. Nay có con gà chết vì nuốt phải dây thun nên quạ kêu là lẽ tự nhiên nhưng người ta thường liền liên tưởng đến những điểm gở mà quạ mang lại nên nghe tiếng kêu của nó thành thảm lạ.
Nếu chỉ có thế thì  câu chuyện cũng đã hàm ý: Người đời chỉ quan tâm đến những gì có ảnh hưởng đến họ và đặc biệt là mang lại lợi ích cho họ. Nhưng không, chuyện còn có một nhân vật nữa:

có một gã làm thơ
thường viết về con quạ

Nếu bài thơ chỉ đến câu này thì đúng là gã làm thơ viết về chuyện ruồi bu thật. Nhưng không, trong chuyện con gà chết vì nuốt phải dây thun không ai thèm động lòng, không ai thèm để ý, thì riêng gã làm thơ đã động tâm và đã viết về con quạ vì  gã nhận ra:

Con quạ đen cả đầu
đâu thua gì thân gã
buổi chiều tan nhè nhẹ
trái tim không tiếng gõ

Trong cõi đời đầy vô cảm, nhiều chuyện không ai thèm bận lòng, coi là chuyện ruồi bu thì nhà thơ tự làm con ruồi bu vào chuyện đó. Làm ruồi cũng có sao miễn là có được những tiếng thơ khắc khoải trước những mảnh đời khổ lụy mà trái tim người đời không có tiếng gõ, chỉ có những người có trái tim đồng cảm mới có những tiếng gõ thấu cảm mà thôi.
Nhà thơ Lê Đạt đã quá cố sau bao nhiêu năm trầm luân bởi ngòi bút đã gọi  nhà thơ là một tên phu chữ bị trời đày khổ sai vào công trường lao động chữ. Chu Vương Miện cũng diễn tả cái sự trời đày ấy của mình:

ngồi không mang giấy bút mần thơ
luẩn quẩn loanh quanh chỉ hết giờ
câu đầu câu giữa và câu cuối

Nhưng Chu Vương Miện không không dùng lại hình ảnh “phu chữ” của Lê Đạt để nói về việc mần thơ luẩn quẩn loanh quanh ấy mà dùng một hình ảnh ví von khác:

giống y con nhái nhẩy xuống hồ
                                      (MẦN THƠ)

Làm thân con nhái sao không chịu, hoặc là yên lặng bơi rong chơi trong hồ hoặc là nằm lặng chơi dưới một tàu lá xanh mát mà sao đang trên bờ lại nhảy xuống hồ  chỉ để làm kêu lên một tiếng tõm? Một tiếng kêu nhỏ bé thôi nhưng cú nhảy đâu phải là không đau rát. Con nhái nhẩy xuống hồ gợi ta nhớ tới ngọn Cỏ May cũng muốn được nghe giảng về Phật khiến thiền sư phải nói: “Này Cỏ May, điều tối thượng ông hãy yên lặng tự cảm nhận. Ta mà giảng thì chư Phật sẽ kêu: Đau!...”
Chu Vương Miện tự ví mình giống như con nhái nhảy xuống hồ nghĩa là muốn được làm thơ, được sống với thơ, được cùng thơ thỏa khát vọng phiêu lưu cùng chữ và nghĩa, thế là đã đủ mãn nguyện, đủ sung sướng được sinh ra đời làm một người sáng tạo.
Cái khác biệt giữa nhà thơ với người đời là ở đấy.
Ở một bài Thơ Thiền khác, bài SẦU, Chu Vương Miện nói rõ hơn sự khác biệt này:

cảnh nào cũng chỉ bình thường
chẳng qua tâm cảnh mà điên cái đầu
nhìn hoài cảnh có chi đâu?
chẳng qua người nặng mối sầu đó thôi

Nhà thơ khác biệt người đời thường ở chỗ mang trong mình một tâm cảnh. Và vì cái tâm cảnh  ấy nên nhà thơ vướng vào nghiệp thơ. Mà nghiệp thì theo ta như bóng với hình từ đời này sang kiếp nọ, đến khi hết nợ nần với nhau mới thôi.

Để làm rõ hơn suy tưởng đó, Chu Vương Miện ôn lại  mấy nghiệp thơ của mấy nhà thơ lớn tiền bối bằng bài cả thơ NGHIỆP THƠ.

Người thì cả đời nghèo nàn:
cụ Tú Xương làm thơ được
cả đời sống trong nghèo nàn
vợ và nhiều con
sầu đời rồi thác

Người thì được coi như thi bá trời Nam nhưng Văn chương hạ giới rẻ như bèo nên phải gánh lên bán chợ giời mà mấy mươi năm cuộc đời vẫn túng thiếu:

cụ Tản Đà làm thơ hay hơn
thi bá cõi trời na
tài ngang với ăn
làm thơ bán cho trời
không bán cho người
mấy mươi năm toàn túng thiếu

Người thì không biết nên gọi là tiên hay là điên đây:

cụ Bùi Giáng xêm xêm hai người trên

vừa dạy học vừa điên
thơ đọc ngang phè không ai hiểu cả
guốc dép xoong chảo đeo đầy vai
vừa lang thang vừa thở dài
qua trọn thế kỷ 20

Nhà thơ Việt Nam là thế và nghiệp thơ của họ như thế. Nhưng xem ra đức Thích Ca Mâu Ni và các bậc hiền triết có học vấn, có hiểu biết sâu rộng, được người đời tôn sùng như Thánh nhân cũng đâu có hơn gì:

thầy Thích Ca Mâu Ni
không cũng như có
có cũng như không
thầy Lão Tử
hoàn toàn số khôn
thầy Trang Tử
lúc tưởng mình là điệp
lúc tưởng mình là hoa
lúc tưởng mình là triết gia
thầy Liệt Tử nằm thẳng cẳng
không cục cựa thở hắt thở ra
thầy Dương Tử đi cù bất cù bơ
không cửa chẳng nhà
                             (LÀ TA)

Nên thật đáng thương cho một lứa đôi khi cả hai đang ở hai phương trời Phật và cả hai đều cùng làm thơ

chim bay trên trời còn chỗ đến
thuyền lênh đênh lại chẳng bến bờ
hai đứa vẫn hai phương trời Phật
nhảm vô cùng vì hai đứa mần thơ
                                         (BAY)

Nhưng không phải cứ ai mần thơ đều là nhà thơ. Bên cạnh các nhà thơ chính danh như Tú Xương, Tản Đà hay Bùi Giáng đã kể trên còn có một loại nhà thơ nữa. Trong bài SẦU,  sau khi suy ngẫm về tiền, có tiền và thiếu tiền không tiền:

thiếu cơm thiếu thuốc khật khờ
thiếu tiền thiếu bạc nằm trơ mé chòi
 có tiền mới mạnh đường tu
không tiền chỉ có bú dù viếng thăm
tiền đông trông giống trăng tròn
tiền vơi toàn những mẩu trăng lưỡi liềm
tình đời bạc trắng than đen
mắt xanh trắng dã người quen lạ rồi?

Chu Vương Miện đã cảnh báo:

hết tiền mạnh nấy đi thôi
có tiền đoàn tụ cứ ngôì mần thơ

Bọn người này là những kẻ có tiền nên không phải lo toan cuộc sống. Có tiền lại muốn có danh nhà này nhà nọ nên chúng ngồi mần thơ để được gọi là nhà thơ.  Quả thế, chưa bao giờ ở cường quốc thơ Việt Nam lại nhiều thơ, nhiều nhà thơ như ngày  nay. Câu lạc bộ Thơ Việt Nam nở rộ khắp mọi miền đất nước, người người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Thơ xóm thơ làng, thơ phố thơ phường, thơ quận thơ tỉnh và thành phố…Rồi mỗi năm, cả ngàn tập thơ ra đời, được in tràn khắp mặt báo chính thống bởi người mần thơ đã có tiền quẳng cho mọi cửa.


Qua mấy bài Thơ Thiền về nhà thơ và nghiệp thơ của Chu Vương Miện cho ta thấy những suy ngẫm sâu sắc của tác giả về con người và đời sống tinh thần cùng vật chất của các nhà thơ chính danh. Dù trong hoàn cảnh, trong nghiệp sống nào, họ  vẫn mang trong mình tư tưởng “hòa quang đồng trần”, “cư trần lạc đạo”. Thơ của họ giúp cho con người thức tỉnh trước sự vô thường để nhập thế, giúp đời mặc dù thế tục toàn là chuyện ruồi bu.
Lời thơ trong mấy bài Thơ thiền kể trên của Chu Vương Miện đều rất mộc mạc nhưng không nghiêm khắc khô khan như kinh tụng mà ngôn ngữ thoải mái, không thành ngữ, không điển tích, không thiền ngữ và cũng không Phật tích nên đã đem đến cho người đọc cảm giác thú vị và nhẹ nhàng . Ta có cảm giác Chu Vương Miện chỉ mượn câu văn ngắn có vần có điệu dễ nhớ dễ nghe để phác hoạ hình ảnh con người và thân phận nhà thơ và trình bày những nỗi truân chiên của cái nghiệp thơ khiến cho người đọc thơ cảm thông và trân quý những nhà thơ chính danh.
Nhưng có lẽ vì không chú trọng nhiều đến lời thơ nên các bài thơ thiền nói chung và mấy bài kể trên nói riêng của Chu Vương Miện không có nhiều câu thơ bay bổng sống động mà gợi cảm như nhiều nhà thơ thiền hiện đại đã quan tâm, chẳng hạn như Phạm Thiên Thư trong ĐƯA EM TÌM ĐỘNG HOA VÀNG đã trở thành âm nhạc trong tay Phạm Duy vang danh một thuở:

Ta về rũ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say

Trong bài LÀ TA, Chu Vương Miện có viết:

ta soi bóng ta trong kiếng
ồ đã qua một sát na

Sát na là đơn vị ngắn nhất của thời gian hay nói cách khác, sát na chỉ thời gian chớp nhoáng của mỗi biến đổi. Chỉ mới soi mình trong gương đã qua một sát na.
Vậy thì nhà thơ Chu Vương Miện hãy đừng để phí một sát na nào, hãy viết thơ và mần tiếp thơ thiền đi.
Bạn đọc mong chờ những chùm thơ thiền tiếp sau của Chu Vương Miện sẽ có nhiều lời hay ý đẹp với nhiều câu thơ phóng khoáng bay bổng hơn.

                                                        NGUYỄN BÀNG
                                                       Sài Gòn 03/ 9/ 2018

READ MORE - NHÀ THƠ VÀ NGHIỆP THƠ QUA MẤY BÀI THƠ THIỀN CỦA CHU VƯƠNG MIỆN - Nguyễn Bàng

TÂY TIẾN - Video clip La Thụy ngâm thơ Quang Dũng




    

TÂY TIẾN

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Ai đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi !
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

                     QUANG DŨNG
              (Phù Lưu Chanh, 1948)

READ MORE - TÂY TIẾN - Video clip La Thụy ngâm thơ Quang Dũng

NHẠC VÀNG 1954 - 1975 Ở MIỀN NAM - Lê Thiên Minh Khoa

NHẠC VÀNG 1954-1975 ở Miền Nam
                                                            LÊ THIÊN MINH KHOA

  1. C:\Users\TTC\Pictures\CA KHÚC (In) copy (1).jpg

Phác thảo bìa cuốn sách “9 thập kỷ ca khúc tân nhạc Việt Nam”- Lê Thiên Minh Khoa.

       Là dòng nhạc trữ tình bình dân, hình thành ở Miền Nam từ sau 1954 với các bài hát được viết trên những giai điệu đơn giản, chậm buồn đều đều, mang  âm hưởng dân ca, nhẹ nhàng của boléro, rumba, ballade, slow rock…, phổ biến nhất là bolero  được hát bằng giọng thứ quãng âm trung hoặc trầm chậm, ca từ bình dị, dễ nghe, dễ hiểu, chất chứa nỗi niềm của một con người bình thường, nên dòng nhạc này đã thu hút một số lượng lớn khán giả bình dân… 

http://t2.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcTnLPFRnzKc0VNSKEM-CkoHSIWFFm-s1ybo_mVAfJW2c558VTTH4A
  NS Hoàng Thi Thơ    

       Ba đề tài chủ yếu  phổ biến của “nhạc vàng” là: Tình - Lính và Quê hương, sắc thái tình cảm thường là buồn thương... và thường có giọng điệu tự sự, kể chuyện như các ca khúc:  Hàn Mặc Tử (Trần Thiện Thanh), Những đồi hoa sim (Dzũng Chinh), Chuyện tình Lan và Điệp (Lê DinhMinh Kỳ và Anh Bằng)  
        Ở miền Nam, nơi khai sinh và nuôi dưỡng dòng nhạc này, có khi người ta dùng từ “nhạc sến”, hoặc tế nhị hơn thì gọi là “nhạc trữ tình bình dân” để chỉ dòng nhạc này. Nhưng thực ra ở VN, vùng kháng chiến  từ đầu thập niên 1950 đã du nhập khái niệm "nhạc  vàng" từ Trung Hoa  dịch  từ "huangse yinyue" (hoàng sắc âm nhạc) là nhạc tình thời thượng lúc đó đang phổ biến ở Thượng Hải.

Image result for Lam PhÆ°Æ¡ng


        Có lẽ người viết ca khúc đầu tiên theo điệu bolero là Lê Trọng Nguyễn, Lam Phương rồi Trúc Phương. Lam Phương sáng tác Chiều thu ấy  từ 1952, lúc mới 15 tuổi, nhưng đến năm 1954 ông mới nổi danh với hai bài Kiếp nghèo và Chuyến đò vĩ tuyến. Sau đó, trong hơn 2 thập niên, ông viết gần 200 bài hát trữ tình được công chúng Miền Nam yêu thích như: Thành phố buồn,  Nhạc rừng khuya,  Nắng đẹp miền Nam, Bài Tango cho em,  Tình bơ vơ, Duyên kiếp, Tình chết theo mùa đông, Tình cố đô, Tình đau, Tình đầu muôn thuở, Tình đẹp như mơ, Tình mẹ, Tình người viễn xứ, Tình nghĩa đôi mình chỉ thế thôi, Tình như mây khói, Tình vẫn chưa yên, Tình thiên thu…
        Còn Lê Trọng Nguyễn thành công ngay từ ca khúc bolero đầu tiên là Nắng chiều cũng viết năm 1952, là một bản nhạc boléro “kinh điển”, được viết với cung trưởng trẻ trung, buồn mà không bi lụy, rất hiếm gặp trong thời kỳ đầu của dòng nhạc boléro và cả sau này. Nắng chiều còn được biết đến ở Hồng KôngĐài Loan và Nhật Bản. Ông sáng tác không nhiều nhưng những tác phẩm của ông đều có giá trị nghệ thuật cao, giai điệu và ca từ trau chuốt, hình ảnh đẹp như tranh: Chiều bên giáo đường, Lá rơi bên thềm, Sóng Đà Giang, Sao đêm… thường được xếp vào dòng nhạc tình khúc.
       Trúc Phương cũng được biết đến trễ hơn, với hai sáng tác đầu tay là Tình thương mái lá Tình thắm duyên quê viết năm 1957, kế đến là Chiều làng em (1958) và Đò chiều (1959)... đều được nhiều người thích. Bản nhạc nổi tiếng nhất của ông là Tàu đêm năm cũ  viết vào đầu thập niên 1960Sau đó, là khoảng 70 ca khúc được phổ biến rộng rãi: Nửa đêm ngoài phốBuồn trong kỷ niệmThói đờiHai lối mộngKẻ ở miền xa, Đêm gác trọ, Đêm tâm sự, Đêm trên vùng đất lạ, Đêm Việt Nam, Đôi mắt người xưa, Đường chiều cao nguyên, Hai chuyến tàu đêm, Hình bóng cũ…

  C:\Users\TTC\Pictures\ThanhThuy-hatnhacNhatNgan1.jpg

  
     Nhưng người quảng bá tích cực nhất cho dòng nhạc này là nhạc sĩ Phó Quốc Lân, tác giả các ca khúc: Xuân ly hương, Hương lúa miền Nam, Mong ngày anh về, Vui khúc tương phùng... Năm 1955, ông tái lập ban nhạc Lửa Hồng và sau  đó    cho ra mắt ban Nhạc Vàng thuộc đài phát thanh rồi đài truyền hình Sài Gòn  để trình tấu định kỳ. Ngoài ra, các nhạc sĩ như  Anh Bằng lập ra các hãng Hương Giang, Dạ Lan; Ngọc Chánh lập ra hãng Shotguns để phát hành băng và đĩa nhạc với nhãn hiệu "nhạc vàng”.
        Trong hồi ký của mình, Phạm Duy viết: "Những bài hát thông thường và chỉ được coi là nhạc thương phẩm - mệnh danh là nhạc vàng  - với những tình cảm dễ dãi phù hợp với tuổi choai choai, với em gái hậu phương và lính đa tình, tuy không được coi trọng nhưng lại rất cần thiết cho vài tầng lớp xã hội trong thời chiến".
       Ngoài các tên tuổi trên, nhạc sĩ tiêu biểu cho dòng nhạc này là: Hoàng Thi Thơ, Trần Thiện Thanh, Châu Kỳ, Duy Khánh, Anh Chương, Đỗ Lễ, Hoài LinhHoài AnPhạm Thế MỹMạnh PhátLê DinhMinh Kỳ, Anh Bằng, Hàn Châu, Y Vân,  Vinh Sử, Thanh SơnAnh Việt ThuAnh Việt Thanh, Trịnh Lâm Ngân (bút hiệu ghép của Trần Trịnh, Lâm Đệ, Nhật Ngân), v.v...
      Giọng ca tiêu biểu của nhạc vàng: Duy Khánh, Chế Linh, Thanh Thúy, Thanh Tuyền, Giao Linh, Hoàng Oanh, Anh Chương, Anh Bằng, Nhật Trường, Trung ChỉnhGiang TửMinh HiếuTrúc MaiHà Thanh, Ngọc MinhPhương Dung, Anh KhoaPhương Hồng QuếSơn CaBăng Châu, Thái Châu, Nhật Trường (tức NS Trần Thiện Thanh)... Cùng với các nhạc sĩ, các ca sĩ này cũng góp phần định hình dòng nhạc vàng với cách hát khác hẳn các ca sĩ của nhạc tiền chiến hay tình khúc 1954-1975.
      Hai dòng nhạc trữ tình - tình khúcnhạc vàng 1954-1975 “đối cực” về thính giả, nhưng có khi “đồng nhất” về tác giả. Một số NS chuyên sáng tác nhạc vàng nhưng cũng có những ca khúc của họ được xếp vào tình khúc, như một số bài hát của các NS Hoàng Thi Thơ, Y Vân, Nguyễn Văn ĐôngPhạm Thế Mỹ, Song  Ngọc, Lam Phương, Anh Bằng,... Ngược lại, một số NS trước đã nổi tiếng với tình khúc lại thành công trong nhiều bản nhạc vàng. Như Phạm Mạnh Cương của tình ca Thu ca (1953) bất hủ, sau nầy viết nhiều bản nhạc vàng được yêu thích: Tình mùa phượng thắm (1961), Tháng bảy mưa ngâu (1964)… Hoặc Trần Trịnh của tình khúc Lệ đá nổi tiếng đã viết nhạc vàng cùng Nhật Ngân trong bút hiệu chung Trịnh Lâm Ngân được phổ biến rộng rãi: Mùa xuân của mẹ, Xuân này con không về…       
      Đề tài nhạc vàng sẽ trở lại nhiều lần trong chuyên đề này ở các giai đoạn âm nhạc khác, do sự tồn tại lâu dài của nó trong tầng lớp công chúng bình dân nhiều thế hệ.
    (Kỳ tới: Nhạc trẻ 1960-1975 ở Miền Nam).
                                             LÊ THIÊN MINH KHOA  
 (Trích trong cuốn  sách “9 THẬP KỶ CA KHÚC TÂN NHẠC VIỆT NAM”-  nghiên cứu, nhận định- Lê Thiên Minh Khoa-  trang 46-48, sắp xuất bản, 2018).
-----------------
Nguồn ảnh: Internet và  các nhạc sĩ cung cấp.

READ MORE - NHẠC VÀNG 1954 - 1975 Ở MIỀN NAM - Lê Thiên Minh Khoa