Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Wednesday, July 27, 2016

KÝ ỨC QUÊ NHÀ - tản mạn của Huy Uyên

Tác giả Huy Uyên
  

1- 
 THỜI MỚI LỚN 

     Ở giữa làng là xóm chợ, bên cạnh đường quốc-lộ vắt ngang. Mùa đông về trên những chòm hoa sầu đông đứng lặng lẽ.
     Ký ức trong tôi với những tháng ngày hai buổi đi về. Chiếc cầu sắt bắc qua sông và một chiếc cầu xi-măng bên dưới đã gảy nhịp từ thời Pháp thuộc. Con sông Ô-Lâu hiền hòa chia hai xóm, nước êm đềm chảy qua bốn mùa yên ả. Những bờ tre làng rợp bóng soi mình trên mặt nước trong xanh.
      Lòng cứ nhớ mãi về những mùa đông làng xóm chìm ngập một màu trắng xóa vì cơn lụt. Những chiếc thuyền bơi xuôi ngược giữa đại dương nước mênh mông. Nước bạc màu đến bất ngờ, nước tuôn vào sân, vào nhà, rộn vang những tiếng bì bõm khi lội trong nước. Làng trên xóm dưới gọi nhau í ới. 
      Mùa xuân đã đến ngoài hiên và nước vẫn ngập đầy vườn.
      Đâu đó tiếng nghé ọ trên cánh đồng vàng mùa bội thu.Tiếng hò đối đáp rộn ràng trong mùa gặt.
     Tiếng kẻo kịt của những chiếc đòn gánh nhún nhảy trên những đôi vai người nông-phu. Những bát nước chè xanh bốc khói bày ra trên sân với đêm đập lúa. Những ông già rung rinh chòm râu bạc khề khà nhấp chén rượu đầu mùa.
     Đêm treo lơ lửng ngọn trăng trên đầu, trăng bàng bạc khiến không gian càng tỉnh lặng. Trăng soi sáng vườn khoai đang bắt đầu xanh ngọn, vườn chè xanh biếc dưới ánh trăng dịu hiền. Những bờ tre trở mình rên kèn kẹt. Làm sao nói hết cái lâng lâng giữa đêm trăng qua làng quá mường tượng, kỳ ảo.Thoảng dưới ánh trăng tiếng hò giả gạo, khoan hụi dìu dặt rộn niềm vui ngày mùa.
     Con đường đó tôi và em từng dìu bước nhau đi biết bao lần. Con đường của kỷ-niệm ngàn đời ẩn nấp trong tim đứa con trai thời mới lớn. Lời thề xa xăm. Mai sau nếu có xa nhau cũng không quên con xóm cũ dòng sông xưa với chiếc cầu đi về hai xóm. Thế rồi em đã ra đi, đi biền biệt với một khung trời đầy kỷ-niệm cháy bỏng trong tôi. Lời thề hẹn đó đã vội vàng chôn ở nơi con dốc đầu làng khi hai đứa cầm tay từ biệt và đã ở lại đó vĩnh-viễn. Tôi cũng ra đi ôm theo mối tình đầu đau đớn, đứng ngắm nhìn quá khứ chưa một lần trọn vẹn. Hỏi em giờ này còn nhớ gì không, quê hương hai tiếng nặng lòng cho đến lúc nhắm mắt. Quê hương với những sớm mai, những chiều về tay trong tay kể nhau nghe những chuyện vui buồn, những ước mơ thời trẻ dại. Lần đầu gặp em e ấp dưới chiếc nón lá, áo dài màu tím với nụ cười long lanh dưới nắng chiều, hoàng hôn rãi cùng khắp xóm làng. Em đã mang đến cho tôi ngày mà cuộc đời bắt đầu biết vui buồn chờ đợi.
      Chiến tranh đã đi qua làng ngày đêm đì đùng tiếng súng. Chiến tranh đã cướp đi tháng năm bình lặng, yên ả. Trai tráng lên đường để lại những cánh đồng trơ gốc rạ. Trâu bò không người cày lơ lửng bước trong đêm.
      Con đường qua làng nhiều lần bị cắt chia bởi đạn bom và chiếc cầu bỗng một đêm bị gảy nhịp phân chia hai xóm. Những tiếng khóc và những chiếc quan tài mang dấu hiệu binh lửa về đốt cháy quê hương. Những mái tranh ngập chìm khói lửa. Mặt trận đi qua bỏ lại xóm làng xơ xác gảy đổ. Giáo đường trơ nóc, đình chùa ngã nghiêng.
       Những trảng cát bây giờ đã lấp đầy những ngôi mộ nằm san sát. Những hàng bạch-đàn mọc thẳng tắp thay thế tre làng bị thiêu cháy. Lớp lớp người đi không trở về mà còn nằm lại đâu đó. Biệt ly và chia rời ngày một lớn dần thêm, xóm nhỏ bỗng tiêu điều sau những cơn đánh phá của bom Mĩ.
       Rồi người cũng quay về khi một mai tin vui hòa-bình trở lại. Trên bờ đê, những trai tráng trong làng vai vác cày theo sau đàn trâu chậm rải bước. Đồng quê lại rộn ràng tiếng cười tiếng nói sau mùa binh lửa. Những cụ già lại khề khà chén rượu bên bầy con cháu vui đùa ngoài sân. Con đường về xóm dưới bây giờ đã được bắc qua sông một chiếc cầu chắc chắn thay chiếc cầu tre đã gảy nhịp từ lâu rồi. Ngày tôi đưa em qua chiếc cầu này với bao rộn ràng của con tim mới lớn. Em bảo giá mà hai ta suốt đời đưa đón đi về.Thế rồi em bỏ đi mà không bao giờ quay lại.
       Sông xưa vẫn nước chảy hiền hòa. Sông nuôi đồng ruộng quanh năm. Núi kia vẫn ngàn đời lừng lững che chắn những cơn gió Lào rát bỏng mùa hè. Hàng tre làng vẫn kẻo kẹt rung rinh trước gió.Tre che mát cho đời người nông phu quanh năm suốt tháng.Trong vườn đã lắt lay từng nụ hoa cà, hoa bí mang lại cho người niềm vui bình dị. Những mùa đông sớm mai bà con vói những cũ khoai luộc hay những bắp ngô nướng thơm giòn. Niềm vui ấm áp nhân đôi với tiếng hít hà phả ra những làn khói trắng trên đường đến trường. Thầy cô, bạn bè  đã bay đi khắp bốn phương trời, mỗi người một đoạn đời riêng rẻ. Có mấy ai quay về đúng trước mái trường xưa để ngậm ngùi với những tàn phá của ngày xưa cũ.
       Ở đầu làng là ga xép quanh năm phơi mình dưới trảng cát trắng xóa nóng, nằm chờ những chuyến tàu qua hiếm khi dừng lại. Vẻ đìu hiu trùm lên vài người khách lẻ lên xuống từ đầu hạ đên cuối đông. Một mình đi, một mình về thui thủi. Lòng lại nghẹn khuất với những hồi còi tàu kéo lên giữa không gian xám xịt. Tiếng còi như ứ nghẹn ở trong tim. Ôi những tiếng còi tàu buồn bã qua làng đến não nuột. Ngày tôi tiễn em đi sân ga chỉ có hai người. Tay trong tay bịn rịn nói lời chia biệt hẹn hò. Em nước mắt lưng tròng ngã lên vai tôi. Chiếc khăn tay em thêu tên hai đứa lồng vào nhau nghẹn ngào đưa tay vẫy khi tôi làm người ở lại. Con tàu bỏ đi mang theo em làm cho tôi thêm quạnh hiu tiếc nhớ. Ngày đó đã qua mất rồi.
       Cô đơn xưa hình như trở lại quanh đây. Nơi đó tít mờ ánh sương mai, nơi ánh nắng chiều rọi soi ngày đầu tôi gặp em lung linh dưới nắng. Nụ cười rạng rỡ tỏa sáng quanh em. Làm sao tôi nói hết nỗi bồi hồi lao xao với một buổi chiều đầy kỷ-niệm.
       Em còn đó với hiện thân của một bóng hình miên viễn quanh tôi. Vẫn dịu dàng với hai bàn tay vẫy vẫn đong đưa từng nhịp bước, từng tiếng thở dài về một mối tình đến sớm đầy tràn niềm hạnh-phúc mong manh của thời trẻ dại.
       Ngày tôi đưa em qua chiếc cầu chông chênh, không lối nhỏ về nhà. Em chợt im lặng níu giữ một mối tình vừa mới hái. Hạnh phúc quá mỏng manh, sương khói. Ngày em đi qua nhà tôi, bước chân không hề có tiếng động  dấu kín một mối tình. Em trong tôi cuộc tình đầu chứa chất bao đắng cay khốn khó. 
       Tôi một mình biết bao lần quay lại nơi xưa tìm kiếm mối tình đầu đời dù trải qua những tháng năm dâu bể, ngược xuôi. Em về một phương trời xa xăm nào đó để lại trong tôi ánh mắt nụ cười. Điều đó đã theo tôi suốt đoạn đời còn lại,đã mang trong tôi dấu ấn đậm đà mãi mãi xa người. Hỏi em có còn nghĩ lại, hỏi em có còn nhớ về ảnh hình của thời xưa cũ, giấu trong tim hết cả thời mới lớn.
       Em đi rồi làng xóm bổng chìm khuất trong nổi buồn lặng lẽ. Không gian bỗng chìm sầu vạn cổ. Những  ước mộng ban đầu, đẵng cay theo bóng hình em. Có thể trong tôi vẫn mãi giữ những kỷ-niệm buồn. Có thể trong em vẫn ẩn chứa hình dáng quê hương. Nơi đó được đặt tên là nơi trú ngụ của tình yêu.
       Có chăng mong một lần quay lại, trở về bên sông cũ, xóm nghèo xưa để nhớ để nghĩ về cuộc tình tan vỡ. Đau đớn cho đến lúc bạc mái đầu có còn để gọi nhau là cố nhân không?
       Ở giữa làng là xóm Chợ, nơi em ngày hai buổi sáng chiều bán cá.Vẫn khuôn mặt đỏng đãnh, nụ cười chúm chím. Em đã để lại trong tôi mãi hoài của những nụ hôn xa, của con tim liên hồi đập mỗi lần đón đợi người thương. Em còn lại trong tôi những đêm trăng hò hẹn, những đêm lễ hội, lòng hồi hộp dưới ánh trăng cổ tích. Tay cầm tay không nói thành lời chờ một thủy chung mai mốt. Thế rồi em đi. Xóm làng xưa vẫn bên cuối bãi biền sông. Con sông xưa vẫn đổ từ triền núi ra biển cả.
       Ngày đó ai mơ một ngày về.

2-
QUÊ NHÀ VÀ TRƯỜNG LỚP:
Bến Đá, Hải-Lăng & Nguyễn-Hoàng.

       Lần lữa hẹn mãi lòng một lần quay về với Bến-Đá, nơi quê nhà xưa đã một thời tắm mát bên dòng sông Ô-Lâu xanh biếc hiền hòa. Nơi những người thân hai mùa mưa nắng dầm mình đồng chiêm cày ải. Nơi tiếng chim bìm bịp kêu chiều theo con nước ròng nước lớn. Nơi tuổi thơ tôi vốn sinh ra trong một gia đình lam lũ nghèo nàn.
     Tôi mất cha từ năm lên một. Cha tôi hi sinh ở mặt trận Ba-Lòng thời kháng chiến chống Pháp. Mẹ tôi ở vậy tảo tần sớm hôm nuôi tôi khôn lớn. Những đêm, những ngày quanh quẩn sau lũy tre làng với con đường quê hai bữa đến trường. Ngoài những buổi học, tôi phụ mẹ tôi bắt ốc mò cua, mót khoai mót lúa. Cuộc sống cơ cực ở thôn làng đã rèn luyện cho tôi nên người từ thuở đó. Đến năm mười hai tuổi mỗi ngày tôi phải đi bộ mười cây số ra phố quận Hải-Lăng để theo bậc trung-học.Tháng ngày dãi dầm mưa nắng. Những ngày hè oi bức mồ hôi trên con đường cái quan rãi nhựa bốc khói. Những sớm mai, chiều đông rét lạnh căm căm, tôi bó mình trong chiếc áo tơi do tôi chằm từ lá nón, lầm lũi bước với bụng đói lép kẹp cho đến ngày khôn lớn. Tuổi học trò trôi đi với những buổi trưa đói lòng qua bữa bằng một chiếc bánh chưng nhỏ dưới gốc bàng trước đình làng Diên-Sanh thật tội-nghiệp.
     Người ta gánh về đặt bên ngoài hàng rào phía tây dồi cát của trường  chừng mười xác chết. Những vết đạn băm đầy mình cháy đen nham nhở. Người ta bảo đó là Việt-cộng bị sát hại bởi trận phục-kích đêm qua. Những xác chết nguội ngắt trần truồng. Ai đã cắc cớ gắn trên môi người chết những điếu thuốc lá còn bốc khói nghi ngút. Nắng bắt đầu rát và những xác chết cũng bắt đầu trương lên. Ký-ức tôi xót đau cho phận người từ đó. Ý nghĩa về chiến tranh cháy đỏ trong tôi về một sự hi sinh đầy máu, nước mắt của hai phía, của nhân dân lớn dần lên. Trong cuộc chiến trả giá bằng những cái chết, mất mát đau thương để dành lấy sự tồn tại. Chính là những người đang nằm đó. Cũng là người mà ai nỡ đầy đọa nhau dường ấy.  Hận thù cứ buộc mãi mà không bao giờ tháo bỏ. Tôi bắt đầu lớn lên bằng những ý niệm chiến tranh giữa những người anh em thù hận trong không khí chiến cuộc đầy mùi thuốc súng, phía sau rình rập đêm đêm ở làng quê cho đến phố chợ vốn nghèo lại càng nghèo xơ  xác."Phố nhỏ Diên-Sanh lạnh buồn tê tái" giữa bốn mùa xuân hạ thu đông im lìm lặng khuất rêm mình dưới thời chiến. Lại những đợt hành-quân càn quét. Quê nhà vốn đã chìm sầu trong khói lửa - cây không mọc nổi giữa hai làn đạn, ruộng không người cày vì người đã bỏ lên núi. Trâu bò lơ lững bước trong đêm nhớ về một mùa vàng bội thu, êm đềm dưới trăng đêm giã gạo. Hồi đó quê nhà bình yên đầy ắp giọng nói tiếng cười.
     Thế rồi đầu năm sáu lăm tôi được ra tỉnh học lớp tú-tài. Hình ảnh ghi đậm trong tim tôi là ngày bác (Sáu) tôi đứng bồi hồi chờ trước cửa trường nam-tiểu-học khi tôi thi Trung-học. Bác vốn thay cha tôi cùng mẹ tôi bảo ban nuôi nấng tôi nên người, bởi tôi vốn không cha từ lúc lọt lòng.Trưa bụng đói bác đưa cho tôi ổ mì "xíu" mà lần đầu trong đời tôi được ăn. Cái hương vị tuyệt vời mãi đi theo tôi cả chiều dài năm tháng. Cái mùi cay bùi đó không làm sao tôi quên được. Chiều trời đổ mưa tôi gói mình trong tấm ni-lông màu nước mắm băng qua đường gặp bác, hai mắt của bác nhìn tôi ứa lệ với cảnh tình túng thiếu của tôi. Bác nhẹ nhàng cởi tấm ni-lông rồi lặng lẽ mặc cho tôi chiếc áo mưa (đầu đời) hiệu Blair màu khói hương. Tôi nuốt nước mắt vào lòng mừng vui khôn tả.Tôi lặng thinh nắm lấy tay bác đi bộ về chỗ trọ lòng đầy bồi hồi xúc động. Kỳ đó tôi đổ trung-học.
     Để có cơm ăn tôi đi làm précepteur suốt ba năm học trường Nguyễn-Hoàng.Với một bà mẹ quê quanh năm ruộng lúa nương khoai lo cho cái ăn cái mặc thì làm sao kham nổi cho con ăn học xa nhà nên đành phó thác tôi cho trời cho đất. Những ngày đầu bỡ ngỡ với lớp với trường tôi xoay quanh với nghề gia-sư ở nhà sách Tao-Đàn, đêm kèm ba đứa nhỏ tiểu-học. Cho đến năm đệ-nhị thì chuyển lên kèm cho một gia đình xóm chài  Quảng-Trị. Cái xóm chài ven sông Thạch-Hãn cứ theo mãi tôi đén bây giờ, những con đò nằm sát bên nhau nơi bến đổ đầy … và rong rêu dại dập duềnh theo từng đợt sóng lô xô. Những bữa cơm trưa với hạt gạo chan mùi dầu diesel nhà binh thiếu đói.
      Nhà tôi dạy kèm vốn nghèo nên nửa niên khóa sau tôi ghi tên ăn cơm xã-hội miễn phí và thuê một cái giường để ngủ và học hàng ngày. Vì đói mà tôi đã cố nuốt cho qua bữa cá mòi, cá mối sình thiu.
     Cuối ngã ba đường là MACV, từ Cine Đại-Chúng, từ Cổ-Thành đi lại và từ Long-Hưng ra là Nguyễn-Hoàng. Tôi học ban C nên được xếp học ở dãy nhà dọc phía trái, có cái cổng phụ rất dễ cho những lần cúp cua lang thang ngoài phố. Tôi vốn không có một bạn gái nào để vắt vai một mối tình, vì nghèo đói vì thân phận hẩm hiu. Đám nữ sinh quá cao vời vợi với tôi. Cứ mỗi chiều cuối tuần tôi háo hức về lại quê nhà, bên mâm cơm nghèo cùng mẹ tôi với những trái cà đọt bí. Hương vị của đất trời  tỏa một mùi thơm dìu dịu. Hình như để bù lại cho những ngày ở tỉnh-lị thiếu đói mẹ tôi lại chạy vạy lo cho từng bát cơm có trứng, có cá.
      Ở trường tôi có  thầy cô  quan tâm đến phận nghèo như cô Thanh, thầy Gary Carkin, thầy Diên, thầy Nguyễn-đăng-Ngọc. Hình như chỉ có Việt và Anh văn là tôi chăm chú học còn các môn khác tôi lại lơ đểnh, nhất là môn vạn-vật vì thế mà năm thi tú tài tôi bị thiếu điểm của cô Toàn. Thật nghiệt ngã.
    Hồi này tôi bắt đầu có thơ trên các báo Sài-gòn.Tết đó tôi viết bài thơ buồn:
                Nói Với Lớp Học
    Dĩ vãng đó xin người đem dấu kín
    Kỷ niệm buồn đứa con nhỏ hoang mê
    Đến với người bằng tháng ngày đông tím
    Bằng hạ buồn bằng thu chết ngất ngư .

    Tôi chong mắt nhìn đời mình ở đó
    Lớp học buồn khuôn mặt lạ trầm ngâm
    Ghế bàn trơ im lìm lên nước gỗ
    Buồn lưng đầy theo từng tháng từng năm .
    ....
    Người về đó xem xóm làng tôi gục chết
    Bầy trâu nghèo lơ lửng bước trong đêm
    Ruộng cằn khô bên từng khoang mạ cháy
    Người bỏ đi nhung nhớ cả trăm miền .

    Xin dung tha một đời tôi vô phước
    Sớm xa người về trong cảnh nát tan ....

   Thời gian cứ mãi trôi đi, đi mãi cho đến một ngày tôi cũng bỏ trường mà đi sau những năm tháng sống cực nhọc, gian khó. Có ai biết đến một đứa con Nguyễn-Hoàng trong bỗng chốc thấy mình cô đơn quá đổi giữa một quê hương đầy súng đạn nghèo đói. Ngày mai không có đường về. Lại những lần ra đứng thơ thẩn bên sông Thạch-Hãn. Nhìn bên kia ẩn hiện ngôi chùa Sắc-Tứ thong thả từng hồi chuông. Những hàng cây liêu xiêu, dòng nước lững lờ.
    Những đứa con xưa của Nguyễn-Hoàng có lẽ đã đơm hoa kết trái trên vạn nẻo đường. Tiếp nối mãi về một thân tình ấm áp, mãi cầm tay nhau cho dù tuổi đời đã sửa soạn về chiều. May thay vẫn còn lại những trái tim người đầy nhân ái và đậm đà thủy chung tình bạn, tình thầy trò.

     Đoạn viết này xin được gởi đến cô Thanh để nhớ đến một đứa học trò đã từng khốn khó.

      Những tháng ngày đói ốm, cơm thừa cá cặn lại diễn ra với đời sống thiếu thốn ăn nhờ ở đậu. Đến nổi tôi không có một bộ đồng-phục, quần-xanh-áo-trắng  để đi đến trường mà mặc toàn đồ cũ xì.Thầy cô hàng ngày đã nhẵn mặt tôi, một đứa học trò nghèo khó. Lần tôi nhớ nhất là lần cô giáo Thanh-dạy Pháp-văn, sinh-ngữ phụ gọi tôi lên trả bài nhưng tôi không biết một cái gì cả. Cô bảo tôi ở lại sau giờ học, sau khi tôi trình bày về hoàn cảnh thiếu đói đi làm gia-sư nên không có đủ sức để học. Cô thông-cảm và bảo ban tôi như một người chị với đứa em có cảnh đời tội-nghiệp cho dù nghèo khó vẫn ham muốn đến trường đến lớp. Đã nhiều lần cô tìm cách giúp đỡ tôi. Thế hệ Nguyễn-Hoàng dường như ai cũng biết cô Thanh. Những cảm thông của cô đã chắp cánh cho tôi sau này bay lên với cuộc đời vốn không hề bình-dị.
        Lại những lần đổ quân bên sân bay dã chiến cạnh trường. Chiến cuộc hồi này đã ác liệt. Những tiếng nổ đêm đêm vọng về thành-phố. Tiếng đại-bác gầm rú đêm ngày tù phía rừng núi. Những xác chết những thương binh ngập ngụa mùi tử khí.
      Tôi hỏng tú-tài năm đó và chỉ có hai cách là lên rừng hoặc bị động-viên-trừ-bị vì hồi này miền Nam rất cần những tấm bia người đỡ đạn ngoài mặt trận cho một chính-quyền vốn rệu rã ...
      Ngày tháng rồi cũng đi qua, nhiều lần tôi đã về ngồi lại bên sông, bên chiếc cầu tre gảy nhịp nhìn dòng nước chảy, nhìn bóng chiều tà đậu dài hai bên bờ ngẫm nghĩ đến đời mình cho đến khi chiều tối.Tôi vốn sinh ra nơi quê nghèo, nơi đây ngày xưa ăm ắp những tiếng hò mái nhì mái đẩy, gạo trắng trăng thanh, thế nhưng sau chiến cuộc mọi chuyện đã đổi thay không còn nữa. Biết đến bao giờ, đợi đến bao giờ cho quê nhà thay da đổi thịt.
      Quê ơi cứ hẹn một lần về.

3-
VÀO ĐỜI  

       Khi qua khỏi cầu Mĩ-chánh, ngã ba con lộ không vui là quê làng tôi. Hơn bốn mươi năm trước trường Trung-học Hải-lăng nằm sát bên con đường đó đối mặt với huyện lị Hải-lăng với hàng kẻm gai chằng chịt. Năm 1961, trường được xây trên bãi cát mọc đầy xương rồng lẩn hoa mua sim dại. Hàng dương dập dìu trước gió, trống trường điểm từng hồi. Tuổi thơ bồng bềnh phiêu hốt về một ngôi trường bé nhỏ nép mình trong thời buổi chiến-tranh loạn lạc.
      Tôi trở về đây, chốn xưa đã thành một khu mới.Giữa ngã ba đi về khi xưa không tìm đâu dấu vết của ngôi trường cũ. Ngày đó thời bé nhỏ ngày hai buổi đi về cùng bè bạn thầy cô chung vui trường lớp, xẻ chia đau thương mất mát một thời súng đạn .Trong nổi đau chung của Hải-lăng từ cuộc chiến huynh-đệ tương tàn trong đó có ngôi trường mẹ Hải-lăng.
     Ngày ấy làm sao nói hết những chiều thu hạ đến xuân đông ở phố nhỏ Diên-sanh lạnh buồn. Ở giữa ngã ba đường quốc-lộ băng ngang là những mái ngói của một thị trấn nhỏ buồn. Ở dưới gốc đa già là bến xe nho nhỏ hằng ngày đi về tỉnh lị. Bên cạnh đó là ngôi đình làng trầm lặng với những cây bàng lớn hơn vòng hai người ôm. Những buổi lên lớp nắng xiên mai chiều cát gió, một tiếng trống, một tiếng còi tàu để lại cô quạnh thêm cho con phố nhỏ. Ở nơi đó những Lộc, Hoa của Mai-đàn, Tục, Tiếp của Trung-đơn đã đi qua và đã nằm xuống. Một thế hệ buồn!
      Ngôi trường bị xóa bỏ từ mùa hè đỏ lửa 1972, sau đó thì vĩnh viễn chết ở cái huyện lị nghèo này. Những cánh chim bay không mỏi mãi nhớ về trường xưa. Ở đó tôi vẫn nhớ về từng hồi chuông nhà thờ đổ trong những mùa giáng-sinh từ nhà thờ cha Minh, tiếng chuông ngân nga tít mãi tận đồi cát bên kia. Đã chết đi những bóng hình xưa cũ, còn chăng chỉ còn lại những đám mây trời trôi ngang qua đầu.
     Cảnh cũ muôn năm đi vào cổ-tích của nhớ nhung hoài niệm.

Huy Uyên
(1961-2015)


READ MORE - KÝ ỨC QUÊ NHÀ - tản mạn của Huy Uyên

ĐỌC THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN - Châu Thạch


                
                                     Châu Thạch



             ĐỌC THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Với hai bài thơ “Bạn Quan” và “Quê nghèo” của mình, nhà thơ Đặng Xuân Xuyến không làm nổi lên một cơn sốt trên mạng xã hội như bài thơ “Đất nước mình lạ quá phải không anh” của cô giáo Trần Thị Lam nhưng gây ấn tượng mạnh cho bạn đọc trên các trang web, nhất là giới văn nghệ sĩ và trí thức. Từ hai bài thơ đó tôi đi tìm đọc thơ của Đặng Xuân Xuyến và cảm nhận được phong cách riêng lạ của một nhà thơ đương đại. Hình như nhà thơ Đặng Xuân Xuyến làm thơ không nhiều lắm nhưng mỗi bài thơ của anh như ngón tay chỉ ta nhìn thẳng vào cuộc sống và buộc ta phải suy nghiệm bức tranh hiện thực đó, hoặc cho ta hưởng thụ những phút giây sâu nhiệm diễn biến trong tâm hồn nhạy cảm của người thơ.

                       

Trước hết tôi xin lỗi tác giả, cho phép tôi rút gọn bài thơ “Bạn Quan” gồm có 39 câu còn lại 10 câu để bạn đọc có ý niệm khái quát về bài thơ đó:
Bạn cũ lâu ngày gặp lại
Chén rượu quê đưa đẩy tẩy trần
Rượu tới tầm
Mày ghé tai tao
Nói thật nhỏ
Chốn quan trường vịt chó giống nhau
Trời nhiều gió
Hay lòng tao nổi gió
Rượu đầy vò
Tao ngất ngưỡng vờ say
Cái hay đầu tiên của bài thơ là tác giả làm cho mọi người đọc đến đây đều giật mình cảm thấy ớn lạnh. Chính người trong cuộc cũng ớn lạnh nên “ngất ngưởng vờ say”. Sau câu nói của người bạn cũ tác giả đã cho gió nổi lên. “Trời nhiều gió / Hay lòng tao nổi gió” là một tứ thơ giống như tiếng gầm tiếng rú trong một bi kịch sảy ra trên màn hình. Người xem truyền hình yếu bóng vía hay người đọc thơ cảm thấy như mình cũng run rẩy. Run rẩy không vì gió thật mà run rẩy vì tâm lý lo sợ trước quyền lực của tội lỗi.
Tục ngữ ta có câu “Rung cây nhát khỉ”. Bài thơ nầy tác giả đã thành công khi rung cây nhưng không nhác khỉ mà là để chỉ cho khỉ thấy thật tình cái cây độc hại.
Bài thơ “Quê Nghèo” không có sự bạo miệng của kẻ ngất ngưởng say, ngược lại là những giọt lệ rơi vào, là tiếng khóc nghẹn ngào trong tâm tình thổ lộ. Tôi lại mạn phép tóm gọn bài thơ dài 41 câu bằng 7 câu thơ của chính nó:
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Bài thơ cho ta thấy một nỗi đau truyền kiếp từ thế kỷ 19 đến nay. Nỗi đau đó do đâu, nhà thơ không nói rõ nhưng nó đã “giam hãm đời người” ngay “từ trong giấc mơ”. Như thế nỗi đau nầy không chỉ là nỗi đau vật chất mà còn là nỗi đau tinh thần. Ngày xưa chị Dậu nghèo lắm về vật chất nhưng không ai cấm ước mơ. Bây giờ “Giam hãm đời người / Tù túng giấc mơ”, nghĩa là có thêm cái “nghèo lắm” tinh thần.
Bài thơ làm thức tỉnh cơn mê của những người nhìn vào mặt phải mà không thấy mặt trái bao giờ.
Qua hai bài thơ trên ta thấy nhà thơ Đặng Xuân Xuyến vừa gan dạ vừa ngổ ngáo khi đề cập đến mặt trái của xã hội nhưng với mặt trái của tình yêu, nhà thơ trở nên rất hiền hòa, nhẫn nhịn:
Ta dẫu biết trăng lúc mờ lúc tỏ
Vẫn không quen lời yêu chóng hao gầy
Ta sẽ cố để không ai thấy
Héo hắt chiều
Sưng tấy trái tim yêu.
(Vế cuối bài thơ Tim Đau)
Đâu rồi cái khí phách dám nói thẳng ra mặt xấu ở đời? Bây giờ chỉ “để không ai thấy / héo hắt chiều / sưng tấy trái tim” nghĩa là những hệ lụy tình yêu xin nhận hết về mình. Có phải đây là trái tim Hàn Mặc Tử hôm nay? Vâng, còn hơn thế nữa vì Hàn Mặc Tử tuy nhận hết đau thương về mình nhưng oán trách mối tình tan vỡ “mi là nơi ta chôn hận ngàn thu / Mi là nơi ta sầu hận ngất ngư” còn Đặng Xuân Xuyến thì lại nhẹ nhàng thay: “Ta dẫu biết trăng lúc mờ lúc tỏ / Vẫn không quen lời yêu chóng hao gầy”.
Bài thơ “Chia Tay - Với Nguyễn Minh Phượng -” gồm có 29 câu thơ. Tôi xin mạo muội dùng 9 câu thơ trong bài thơ ấy để rút ngắn bài thơ lại:
Chia tay nhé
Đừng buồn em nhé
Ánh hoàng hôn tím sẫm chân trời
Em nhớ đến bến sông ngày ấy
Nhặt cho anh câu hát lỡ quên
Qua bến cũ đừng nghe sóng dội
Cũng đừng nhìn ghế đá tuổi thơ
Em hãy nhớ giờ là kỷ niệm
Dư âm buồn
Day dứt cũng thế thôi.
Tôi rất cảm động khi đọc bài thơ nầy vì tôi thấy lệ trên mắt và màu tan vỡ của máu trong tim khi tác giả rất ôn tồn thỏ thẻ cùng em. Đọc toàn bộ bài thơ ta mới thấy cái bình tĩnh phi thường của tác giả và ta mới thấy nỗi u sầu được nén xuống lớn làm sao!. Tất nhiên tôi cảm thông với nỗi buồn chia tay ấy nhưng tôi không rung động vì nó, bởi trên đời nầy có trăm vạn cuộc chia tay mà Đặng Xuân Xuyến cũng thế thôi. Tôi rung động khi đọc bài thơ nầy vì chính bài thơ là một tác phẩm tuyệt vời, thể hiện tài hoa của tác giả đã phát tiết nỗi sầu vào trong tiếng thơ, vọng buồn lên cao, lên xa và lắng xuống trong lòng ta khi đọc nó.  
Tôi không muốn so sánh Hàn Mặc Tử với Đặng Xuân Xuyến vì như thế sẽ trở nên khập khiễng, nhưng thi sĩ dẫu cách nhau hàng ngàn năm có khi vẫn đồng rung cảm, khiến cho bạn đọc thơ của người nầy lại nhớ đến người kia. Ta hãy đọc một đoạn trong bài thơ “Đôi Ta” của nhà thơ họ Hàn:
Lúc ấy sóng triều rên rỉ chưa bưa
Cứ nhắm mắt, cứ yêu nhau như chết
Cứ sảng sốt, tê mê và rũ liệt
Đừng nghe chi âm hưởng địa cầu đang
Vỡ toang ra từng mảnh, cả không gian
                                           (Đôi Ta)
Rồi ta hãy đọc một đoạn trong bài thơ “Khát” của Đặng Xuân Xuyến:
Tay siết tay xua giá lạnh tan rời
Đôi ngực trần cọ xiết ngùn ngụt hơi
Dòng nham thạch cuộn từng cơn nóng hổi
Thế. Thế. Thế.
Căng người
Em hứng đợi
Môi đốt môi
Anh thiêu trụi đất trời
Trăng thượng tuần ngấp nghé đón triều dâng
                                                 ( Khát)
Thi âm, thi tứ hai người có khác nhau nhưng cái chất “Thơ Điên” tiềm ẩn trong hai linh hồn hai người không khác biệt. Hai tâm hồn có những giây phút cuồng si loang ra cả đất trời và làm đảo điên vạn vật. Cái câu “Trăng thượng tuần ngấp nghé đón triều dâng” của nhà thơ họ Đặng không những là một hình ảnh rất đẹp mà nó còn phô bày hết cái giây phút ân ái của con người biến thành giây phút thánh của vũ trụ. Giây phút tuyệt đỉnh sung sướng sắp sảy ra cho con người làm thăng hoa cả trời đất và nó cũng có thể là giây phút chết trong hoan lạc khi tác giả nói “Môi trong môi / Anh thiêu trụi đất trời”. Đọc bài thơ “Khát” ta cảm thấy hình như hơi nóng cũng căng phồng trong da thịt.
Lướt sơ qua vài bài thơ của Đặng Xuân Xuyến ta thấy tính cách thơ rất ngạo nghễ, rất ngang tàng trong cuộc sống mà cũng vô cùng nồng cháy khi yêu. Nhà thơ phẫn nộ trước bất công, trước nỗi đau của đồng loại nhưng lại nhận hết niềm đau về mình trong tình yêu cao thượng. Đọc Đặng Xuân Xuyến ta cảm nhận được hết tiếng thơ bộc lộ và tiếng thơ lặng thầm, kích thích tình cảm trong lòng ta có khi cháy bùng, có khi âm ỉ, khiến niềm vui có ít lại chỉ như cái cười gượng gạo mà nỗi buồn thì triền miên như dòng sông lặng lờ chảy mãi không thôi./.    

                                                              CHÂU THẠCH

READ MORE - ĐỌC THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN - Châu Thạch

NHƯ LÀ NỖI NHỚ - thơ Mai Hữu Phước


Tác giả Mai Hữu Phước


Thơ: Mai Hữu Phước

NHƯ LÀ NỖI NHỚ

Có những khi lòng ta lại nhớ
Một điều chi mà chẳng thành lời
Có những khi lòng yêu biết mấy
Rộn ràng như gió lộng xa khơi.


Bâng khuâng nhớ con đường đã đến
Dòng sông xanh kỷ niệm êm đềm
Màu mây trắng như màu giấy trắng
Vần thơ nào viết tặng cho em. 


Kìa năm tháng cứ trôi biền biệt
Ngày ngỡ ngàng tan giấc chiêm bao
Đời rong ruổi tay trần cứ trắng
Mộng công hầu em xưa ước ao...


Ta thì nhớ, biết em có nhớ
Thông bên đồi thuở ấy còn reo
Vòng tay cũ ôm choàng nỗi nhớ
Ta lang thang bước tím chân chiều.

M.H.P

________________________________ 

Nhà thơ Mai Hữu Phước tặng VNQT nhân dịp nhà thơ Như Mai ghé thăm Đà Nẵng.


READ MORE - NHƯ LÀ NỖI NHỚ - thơ Mai Hữu Phước

HẠT NẮNG ĐỔ MƯA - Truyện ngắn Lê Hứa Huyền Trân

Tác giả Lê Hứa Huyền Trân

HẠT NẮNG ĐỔ MƯA

Truyện ngắn Lê Hứa Huyền Trân


Người ta nói phải bước qua những ngày mưa ta mới yêu thêm những ngày nắng. Ấy thê nhưng chưa bao giờ trong tim tôi yêu ánh nắng vàng rực rỡ, cứ tưởng như từng ánh nắng chan chứa qua tim tôi đều khiến tôi nhói đau những nỗi niềm không rõ để rồi trong thôi hồi, trống ngực đập thình thịch những nhát thật kêu rồi quằn quại đớn đau, cho phút chốc tôi thét lên: tôi khóc nữa làm gì. Em yêu những cơn nắng, em bảo em sợ bóng tối, nhiều khi tôi hiểu cái quá khứ kinh hoàng khiến em hãi sợ, nhưng cũng nhiều khi tôi chẳng chấp nhận điều đó. Như một lẽ hiển nhiên của những người không trải qua chuyện, tôi nghĩ quá khứ chỉ là những điều đã qua, cớ chi mà em cứ cố giữ rồi không chấp nhận rồi trách móc thôi rỏi, đớn đau từng cơn như thế? Đó là vì tôi không biết chuyện. Con người, cứ như một thực thể kiêu sa, họ cứ huyễn hoặc cho rằng mình mạnh mẽ lắm, đôi khi, thậm chí ngay cả những người thân của mình gặp chuyện, họ còn nhếch mép cưới. Cái cười không phải chế nhạo nỗi đau mà cái cười mỉa mai sự yếu đuối. Ngày ấy tôi cũng thế, tôi tự bao biện, tự thôi miên mình mạnh mẽ biết bao nhiều, sắt đá biết bao nhiêu nên ngay khi thấy nỗi đau đang dằn vặt cô gái nhỏ của tôi từng đêm ban đầu tôi còn e ngại, sau khuyên miết không được tôi trở nên coi thường. Cái coi thường giành cho một người quá yếu mềm, quá bi lụy vào tình yêu. Trong mắt tôi khi ấy, cái yếu mềm vì tình yêu là cái mà tôi xem nhẹ.
     Em yêu nắng một cách cuồng si. Cái lòng yêu của một người luôn có đức tin mãnh liệt mong chờ thứ ánh sáng huyền diệu ấy sẽ rọi đường cho em đi. Ở bên cạnh em, dẫu chẳng thiết tha gì những bóng nắng lung linh thì tia sáng mầu nhiệm ấy cũng cùng tôi đi suốt bờ kí ức. Tôi hay gọi em là “nàng nắng” và những lúc ây em sẽ cười khanh khách tưởng chừng thích thú lắm. Chúng tôi hay ngồi trên những mảng cỏ, đôi khi có một chiếc lá bàng tinh nghịch nào đó rơi xuống đầu em, em sẽ cầm nó lên tròn xoe mắt:
     -Anh xem này, cái lá này nó rơi xuống đầu em kêu cái “koong”
     Tôi sẽ cốc lên đầu em rồi bảo:
     -Thế ra đầu em bằng sắt à? Hay chiếc lá bằng sắt? Mà không, mình thấy đầu em giống bằng sắt hơn đấy. Tội nghiệp cái lá.
     Những lúc ấy mặt em sẽ sụ lại, phụng phịu ra chiều giận dỗi lắm. Nhưng ngay sau đó em sẽ quên ngay, có đặng.
     Em cầm chiếc lá lên đục một lỗ nhỏ, xuyên ánh mắt qua soi bóng nắng. Những tia nắng tinh nghịch sẽ nhảy lên đám cỏ thành những vòng tròn bởi nó xuyên qua cái lỗ ấy. Lại có đôi khi tôi nằm thiu thiu ngủ vì những cơn gió mát, bỗng mắt trở nên giật giật chói chói, mở ra thì thấy em đang soi ánh nắng vào, thế là bực, rượt đuổi em ù té chạy.
     Em thích dạo biển. Nhưng vì chút hơi điên mang trong mình, em toàn dạo những khi trời trở nắng. Hẳn trên bờ, khi mọi người nhìn thấy hai kẻ điên đang rảo bước trên những triền cát tưởng có gì buồn cười lắm. Nhưng em yêu nắng mà. Còn tôi, ừ thì, tôi chẳng biết. Tự nhiên em ngồi sụp xuống rồi ngẩng lên nhìn tôi:
     -Em bị hàu cứa vào chân rồi anh ơi!
     Câu nói thản nhiên của em khiến tôi hơi xót xa, dường như em chẳng đau, chỉ là cái lí do cho việc em muốn dừng lại. Con người ta, cứ như giỏi nói dối lắm vậy, có đớn đau cũng giấu kín, để rồi trong một phút nào đó bộc phát ra, có một sự việc tưởng chừng như tương đồng lại lây ra làm cớ mà nói, lại lấy ra làm cớ mà nói, mà đau. Tôi tặc lưỡi:
     -Để mình cõng em!
     Em ngoan ngoãn leo lên lưng tôi. Bỗng nhiên em bấu chặt vào tôi như sợ mấ
     -Em, đau lắm anh ơi! Em đau lắm.
     -Rỗi sẽ hết đau thôi mà, về mình sẽ sát trùng cho em!
     Tôi biết em sẽ chẳng đau vì vết thương ấy đâu,. Tôi cũng biết ngày người ấy đi khỏi cuộc đời em, nắng chẳng về
     Trên đôi mắt ấy. Có chăng nắng chỉ về trong vòng tay anh ôm em sau cuối, cái thứ vòng ôm ấm nồng, cháy bỏng rồi anh ra đi chẳng còn lại gì, ngay cả vòng tay cũng lạnh dần, thứ còn lại chỉ là mùi hương vấn vít trên ve áo và cái vòng tay khép hờ hãy còn ấm những mùi hương. Nắng có về trong lòng, ráo hoảnh những yêu thương. Cuộc đời nghĩ cũng kì lạ thật, sao yêu thương chẳng thể nào giữ lại, cứ vội đến rồi đi, cái lí do bao giờ cũng vì tình yêu mới chia tay, nhưng nếu đã yêu thương thì tội tình gì phải làm tổn thương nhau như thế? Đau đớn nhất chẳng phải nhìn người mình yêu nhất mực bỗng trở thành những người dưng hay sao? Thứ tình cảm chứa chan tưởng chừng có thể dùng sinh mệnh mà đánh đổi trong phút chôc bị vỡ tan chẳng phải vì lí do gì chỉ với sự cợt đùa là “ vì yêu” thì chẳng phải lời nói đó là lời nói dối trắng trợn nhất hay sao? Người ta, cứ luôn cho mình là đế vương của lí trí thế nhưng luôn bị cảm xúc nắm quyền. Lúc nào cũng vỗ ngực phình phịch sẽ không buồn đâu, không khóc đâu, nhưng cuối cùng trong bờ đêm lại gào khóc, lí trí đã cản ngăn nhưng con tim thì từng giây cứ như vò xé. Cứ như người nô lệ. Cũng giống như dẫu lí trí có cười khẩy, có dằn xé, có thôi thúc bảo đừng nên thì thực tại, hình như, tôi đã vô tình yêu cô gái ấy.
     -Anh có yêu nắng không?
     -Không, mình thích mưa!
     -Thế anh yêu gì?
     -Yêu em!
     Em nhìn tôi mắt chớp chớp, rồi ôm bụng cười ngặt nghẽo, Tôi cũng cười, nhưng trong vị cười có trái
     Đắng trên đầu môi. Sau hôm ấy, em vẫn như thế, cùng tôi dong ruổi trên khắp chặng đường. Còn tôi, chẳng còn như thế, có gì đó thuộc về tình lên ngôi trong trái tim tôi. Ngồi trong quán café, qua khung cửa kính, lớp nắng huyền diệu chiếu soi qua ô cửa, tạo một mảng màu lóng lánh soi rọi trên chậu cây xương rồng tí hon tôi vừa tặng.
     -Anh thấy nắng đẹp không? Nhìn này, nắng chạy trên những bông xương rồng này anh! Chẳng phải nắng cũng chạy nhảy trên nụ cười của em đó sao?          
     Tia nắng tinh nghịch. Tự nhiên em chích tay vào cây xương rồng ấy, giọt máu đào rơi ra rồi tôi chưa kịp nâng niu đôi tay em đã vội đưa vào miệng mút chụt một cái:
     -Em có thể tự làm được mà anh. Chắc cây xương rồng này nó không thích em rồi anh. Cái gì đã không thuộc về nhau thì miễn cưỡng cũng không là hạnh phúc anh nhỉ?
     Tôi nghiêng đầu nhìn em. Đôi mắt em híp lại cười toe. Em khuấy ly café thật sánh rồi nhìn tôi:
     -Em chuẩn bị vào Sài Gòn.
     -Làm gì?
     -Em chuyển nhà. Em muốn tìm kiếm mình ở vùng đất mới.
     -Ở đây, em cũng tìm được chính mình mà.,
     -Ở đây không có thứ thuộc về em.
     -Thế còn ba mẹ? Còn bạn bè? Họ sẽ buồn lắm nếu không thây em.
     -Không sao đâu anh, còn liên lạc mà.
     “Thế còn mình?”. Nhưng chẳng hiểu sao tôi chẳng bật nổi ra câu ấy. Rồi em đi, ngày em đi nắng cũng về
Trên đôi mắt tôi, ánh nắng chứa chan khiến đôi bờ mắt tôi ráo hoảnh. Nhưng mưa, nó đổ ập trong lòng tôi khi ấy. Tôi muốn giơ tay ôm lấy em, vòng tay của người anh trai giành cho em gái. “ Em thương anh|”, cô gái bé nhỏ nói vào tai tôi, nhưng thương và yêu là hai khái niệm hãy khác nhau lắm. Thương có thể là tình cảm giành cho những người thân yêu hoặc là thứ cảm xúc chẳng thể nào vươn tới nỗi tình yêu cho được. Còn yêu là ái tình thuộc về nhau và chỉ riêng nhau mà thôi. Có phải chẳng trong ngày nắng hôm ấy, em nói với tôi những điều cũng giống như ví tôi như cây xương rồng ấy không? Và nếu thế thật, dường như em đã hiểu tình cảm tôi giành cho em là gi? Đã đổi khác ra sao. Bỗng nhiên, một mình ngồi đi dạo trên con đường thênh thang nắng ấy tôi chợt thấy đau. Cái đau mà tôi vẫn hay cười em rắng yếu đuối, và khi ngồi phịch xuống, nhìn những bóng nắng nhảy đùa trên mắt tôi, hạt mưa bỗng rơi ra từ đôi mắt ấy…


Tác giả : Lê Hứa Huyền Trân,
Hội viên Hội VHNT Tỉnh Bình Định.
Mọi thư từ phúc đáp xin chuyển về địa chỉ : Lê Hứa Huyền Trân, Hội VHNT Tỉnh Bình Định, 103 Phan Bội Châu, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. 
Email: phongtruongtu201@gmail.com



READ MORE - HẠT NẮNG ĐỔ MƯA - Truyện ngắn Lê Hứa Huyền Trân

LẶNG LẼ TÌNH ĐI _ Thơ Yên Dạ Thảo _ Nhạc Nguyễn Văn Thơ

READ MORE - LẶNG LẼ TÌNH ĐI _ Thơ Yên Dạ Thảo _ Nhạc Nguyễn Văn Thơ

TIẾNG HÁT NỬA ĐÊM - Nhạc: Mai Hoài Thu - Thơ: Nhật Thụy Vi - Ca sĩ: Diệ...

READ MORE - TIẾNG HÁT NỬA ĐÊM - Nhạc: Mai Hoài Thu - Thơ: Nhật Thụy Vi - Ca sĩ: Diệ...

BÊN ĐỜI TRONG ĐỤC - Thơ Hoàng Yên Lynh

 
                Nhà thơ Hoàng Yên Lynh



BÊN ĐỜI TRONG ĐỤC
                           
Bao nhiêu năm ngỡ ta là chiếc bóng
Ngữa mặt lên trời ồ ta còn sống
Dao rựa lên rừng xới đất trồng khoai
Đêm gối câu Kiều đau lòng  thế sự.

Ta con vụ xoay tròn theo nắng gió
Khóc hay cười ta gói trọn vào thơ
Đời đục trong ta làm người thua cuộc
Lạc lối về rừng núi chốn dung thân.

Lòng người hẹp mà đất trời quá chật
Tìm đâu ra Nghiêu Thuấn ở đời này
Chúa vẫn buồn bơ vơ trên thập giá
Đất trời này nghiêng ngả với cơn say.

Lưng bầu rượu lên rừng như đánh trận
Uống mà nghe cay đắng bụi phong trần
Uống mà say để lòng mình thanh thản
Trăm năm rồi cũng gió thoảng mây trôi.


                                      Hoàng Yên Lynh


READ MORE - BÊN ĐỜI TRONG ĐỤC - Thơ Hoàng Yên Lynh