Tác giả Huy Uyên |
1-
THỜI
MỚI LỚN
Ở
giữa làng là xóm chợ, bên cạnh đường quốc-lộ vắt
ngang. Mùa đông về trên những chòm hoa sầu đông đứng
lặng lẽ.
Ký
ức trong tôi với những tháng ngày hai buổi đi về. Chiếc
cầu sắt bắc qua sông và một chiếc cầu xi-măng bên
dưới đã gảy nhịp từ thời Pháp thuộc. Con sông Ô-Lâu
hiền hòa chia hai xóm, nước êm đềm chảy qua bốn mùa
yên ả. Những bờ tre làng rợp bóng soi mình trên mặt
nước trong xanh.
Lòng
cứ nhớ mãi về những mùa đông làng xóm chìm ngập một
màu trắng xóa vì cơn lụt. Những chiếc thuyền bơi
xuôi ngược giữa đại dương nước mênh mông. Nước bạc
màu đến bất ngờ, nước tuôn vào sân, vào nhà, rộn
vang những tiếng bì bõm khi lội trong nước. Làng trên
xóm dưới gọi nhau í ới.
Mùa
xuân đã đến ngoài hiên và nước vẫn ngập đầy vườn.
Đâu đó tiếng nghé ọ trên cánh đồng vàng mùa bội thu.Tiếng
hò đối đáp rộn ràng trong mùa gặt.
Tiếng
kẻo kịt của những chiếc đòn gánh nhún nhảy trên
những đôi vai người nông-phu. Những bát nước chè xanh
bốc khói bày ra trên sân với đêm đập lúa. Những ông
già rung rinh chòm râu bạc khề khà
nhấp chén rượu đầu mùa.
Đêm
treo lơ lửng ngọn trăng trên đầu, trăng bàng bạc khiến
không gian càng tỉnh lặng. Trăng soi sáng vườn khoai
đang bắt đầu xanh ngọn, vườn chè xanh biếc dưới ánh
trăng dịu hiền. Những bờ tre trở mình rên kèn
kẹt. Làm sao nói hết cái lâng lâng giữa đêm trăng qua
làng quá mường tượng, kỳ ảo.Thoảng dưới ánh
trăng tiếng hò giả gạo, khoan hụi dìu dặt rộn niềm
vui ngày mùa.
Con
đường đó tôi và em từng dìu bước nhau đi biết bao
lần. Con đường của kỷ-niệm ngàn đời ẩn nấp trong
tim đứa con trai thời mới lớn. Lời thề xa xăm. Mai sau
nếu có xa nhau cũng không quên con xóm cũ dòng sông
xưa với chiếc cầu đi về hai xóm. Thế rồi em đã ra
đi, đi biền biệt với một khung trời đầy kỷ-niệm
cháy bỏng trong tôi. Lời thề hẹn đó đã vội vàng chôn
ở nơi con dốc đầu làng khi hai đứa cầm tay từ biệt
và đã ở lại đó vĩnh-viễn. Tôi cũng ra đi ôm theo mối
tình đầu đau đớn, đứng ngắm nhìn quá khứ
chưa một lần trọn vẹn. Hỏi em giờ này còn nhớ
gì không, quê hương hai tiếng nặng lòng cho đến lúc
nhắm mắt. Quê hương với những sớm mai, những chiều
về tay trong tay kể nhau nghe những chuyện vui buồn,
những ước mơ thời trẻ dại. Lần đầu gặp em e
ấp dưới chiếc nón lá, áo dài màu tím với nụ cười
long lanh dưới nắng chiều, hoàng hôn rãi cùng
khắp xóm làng. Em đã mang đến cho tôi ngày mà cuộc đời
bắt đầu biết vui buồn chờ đợi.
Chiến
tranh đã đi qua làng ngày đêm đì đùng tiếng súng. Chiến
tranh đã cướp đi tháng năm bình lặng, yên ả. Trai
tráng lên đường để lại những cánh đồng trơ gốc
rạ. Trâu bò không người cày lơ lửng bước trong đêm.
Con
đường qua làng nhiều lần bị cắt chia bởi đạn bom và
chiếc cầu bỗng một đêm bị gảy nhịp phân chia hai
xóm. Những tiếng khóc và những chiếc quan tài mang dấu
hiệu binh lửa về đốt cháy quê hương. Những mái tranh
ngập chìm khói lửa. Mặt trận đi qua bỏ lại xóm làng
xơ xác gảy đổ. Giáo đường trơ nóc, đình chùa ngã
nghiêng.
Những
trảng cát bây giờ đã lấp đầy những ngôi mộ nằm
san sát. Những hàng bạch-đàn mọc thẳng tắp thay thế
tre làng bị thiêu cháy. Lớp lớp người đi không trở về
mà còn nằm lại đâu đó. Biệt ly và chia rời ngày một
lớn dần thêm, xóm nhỏ bỗng tiêu điều sau những cơn
đánh phá của bom Mĩ.
Rồi
người cũng quay về khi một mai tin vui hòa-bình trở lại.
Trên bờ đê, những trai tráng trong làng vai vác cày
theo sau đàn trâu chậm rải bước. Đồng quê lại rộn
ràng tiếng cười tiếng nói sau mùa binh lửa. Những
cụ già lại khề khà chén rượu bên bầy con cháu
vui đùa ngoài sân. Con đường về xóm dưới bây giờ đã
được bắc qua sông một chiếc cầu chắc chắn thay
chiếc cầu tre đã gảy nhịp từ lâu rồi. Ngày tôi đưa
em qua chiếc cầu này với bao rộn ràng của con tim
mới lớn. Em bảo giá mà hai ta suốt đời đưa đón đi
về.Thế rồi em bỏ đi mà không bao giờ quay lại.
Sông
xưa vẫn nước chảy hiền hòa. Sông nuôi đồng ruộng
quanh năm. Núi kia vẫn ngàn đời lừng lững che chắn
những cơn gió Lào rát bỏng mùa hè. Hàng tre làng vẫn
kẻo kẹt rung rinh trước gió.Tre che mát cho đời người
nông phu quanh năm suốt tháng.Trong vườn đã lắt lay từng
nụ hoa cà, hoa bí mang lại cho người niềm vui bình dị.
Những mùa đông sớm mai bà con vói những cũ khoai luộc
hay những bắp ngô nướng thơm giòn. Niềm vui ấm áp
nhân đôi với tiếng hít hà phả ra những làn khói trắng
trên đường đến trường. Thầy cô, bạn bè đã bay
đi khắp bốn phương trời, mỗi người một đoạn đời
riêng rẻ. Có mấy ai quay về đúng trước mái trường
xưa để ngậm ngùi với những tàn phá của ngày xưa
cũ.
Ở
đầu làng là ga xép quanh năm phơi mình dưới trảng cát
trắng xóa nóng, nằm chờ những chuyến tàu qua hiếm khi
dừng lại. Vẻ đìu hiu trùm lên vài người khách lẻ lên
xuống từ đầu hạ đên cuối đông. Một mình đi, một
mình về thui thủi. Lòng lại nghẹn khuất với những hồi
còi tàu kéo lên giữa không gian xám xịt. Tiếng còi như
ứ nghẹn ở trong tim. Ôi những tiếng còi tàu buồn bã
qua làng đến não nuột. Ngày tôi tiễn em đi sân ga chỉ
có hai người. Tay trong tay bịn rịn nói lời chia biệt
hẹn hò. Em nước mắt lưng tròng ngã lên vai tôi. Chiếc
khăn tay em thêu tên hai đứa lồng vào nhau nghẹn ngào đưa
tay vẫy khi tôi làm người ở lại. Con tàu bỏ đi mang
theo em làm cho tôi thêm quạnh hiu tiếc nhớ. Ngày đó đã
qua mất rồi.
Cô
đơn xưa hình như trở lại quanh đây. Nơi đó tít mờ
ánh sương mai, nơi ánh nắng chiều rọi soi ngày đầu tôi
gặp em lung linh dưới nắng. Nụ cười rạng rỡ tỏa
sáng quanh em. Làm sao tôi nói hết nỗi bồi hồi lao xao
với một buổi chiều đầy kỷ-niệm.
Em
còn đó với hiện thân của một bóng hình miên viễn
quanh tôi. Vẫn dịu dàng với hai bàn tay vẫy vẫn đong
đưa từng nhịp bước, từng tiếng thở dài về một mối
tình đến sớm đầy tràn niềm hạnh-phúc mong manh của
thời trẻ dại.
Ngày
tôi đưa em qua chiếc cầu chông chênh, không lối nhỏ về
nhà. Em chợt im lặng níu giữ một mối tình vừa mới
hái. Hạnh phúc quá mỏng manh, sương khói. Ngày em đi qua
nhà tôi, bước chân không hề có tiếng động dấu
kín một mối tình. Em trong tôi cuộc tình đầu chứa chất
bao đắng cay khốn khó.
Tôi
một mình biết bao lần quay lại nơi xưa tìm kiếm mối
tình đầu đời dù trải qua những tháng năm dâu bể,
ngược xuôi. Em về một phương trời xa xăm nào đó để
lại trong tôi ánh mắt nụ cười. Điều đó đã theo tôi
suốt đoạn đời còn lại,đã mang trong tôi dấu ấn đậm
đà mãi mãi xa người. Hỏi em có còn nghĩ lại, hỏi em
có còn nhớ về ảnh hình của thời xưa cũ, giấu trong
tim hết cả thời mới lớn.
Em
đi rồi làng xóm bổng chìm khuất trong nổi buồn lặng
lẽ. Không gian bỗng chìm sầu vạn cổ. Những ước
mộng ban đầu, đẵng cay theo bóng hình em. Có thể trong
tôi vẫn mãi giữ những kỷ-niệm buồn. Có thể trong em
vẫn ẩn chứa hình dáng quê hương. Nơi đó được đặt
tên là nơi trú ngụ của tình yêu.
Có
chăng mong một lần quay lại, trở về bên sông cũ, xóm
nghèo xưa để nhớ để nghĩ về cuộc tình tan vỡ. Đau
đớn cho đến lúc bạc mái đầu có còn để gọi nhau là
cố nhân không?
Ở
giữa làng là xóm Chợ, nơi em ngày hai buổi sáng chiều
bán cá.Vẫn khuôn mặt đỏng đãnh, nụ cười chúm chím.
Em đã để lại trong tôi mãi hoài của những nụ hôn xa,
của con tim liên hồi đập mỗi lần đón đợi người
thương. Em còn lại trong tôi những đêm trăng hò hẹn,
những đêm lễ hội, lòng hồi hộp dưới ánh trăng cổ
tích. Tay cầm tay không nói thành lời chờ một thủy
chung mai mốt. Thế rồi em đi. Xóm làng xưa vẫn bên cuối
bãi biền sông. Con sông xưa vẫn đổ từ triền núi ra
biển cả.
Ngày
đó ai mơ một ngày về.
2-
QUÊ
NHÀ VÀ TRƯỜNG LỚP:
Bến
Đá, Hải-Lăng & Nguyễn-Hoàng.
Lần lữa hẹn mãi lòng
một lần quay về với Bến-Đá, nơi quê nhà xưa đã một
thời tắm mát bên dòng sông Ô-Lâu xanh biếc hiền
hòa. Nơi những người thân hai mùa mưa nắng dầm mình
đồng chiêm cày ải. Nơi tiếng chim bìm bịp kêu chiều
theo con nước ròng nước lớn. Nơi tuổi thơ tôi vốn
sinh ra trong một gia đình lam lũ nghèo nàn.
Tôi
mất cha từ năm lên một. Cha tôi hi sinh ở mặt trận
Ba-Lòng thời kháng chiến chống Pháp. Mẹ tôi ở vậy tảo
tần sớm hôm nuôi tôi khôn lớn. Những đêm, những ngày
quanh quẩn sau lũy tre làng với con đường quê hai bữa
đến trường. Ngoài những buổi học, tôi phụ mẹ tôi
bắt ốc mò cua, mót khoai mót lúa. Cuộc sống cơ cực ở
thôn làng đã rèn luyện cho tôi nên người từ thuở đó.
Đến năm mười hai tuổi mỗi ngày tôi phải đi bộ mười
cây số ra phố quận Hải-Lăng để theo bậc
trung-học.Tháng ngày dãi dầm mưa nắng. Những ngày hè oi
bức mồ hôi trên con đường cái quan rãi nhựa bốc khói.
Những sớm mai, chiều đông rét lạnh căm căm, tôi bó
mình trong chiếc áo tơi do tôi chằm từ lá nón, lầm lũi
bước với bụng đói lép kẹp cho đến ngày khôn lớn.
Tuổi học trò trôi đi với những buổi trưa đói lòng
qua bữa bằng một chiếc bánh chưng nhỏ dưới gốc bàng
trước đình làng Diên-Sanh thật tội-nghiệp.
Người
ta gánh về đặt bên ngoài hàng rào phía tây dồi cát của
trường chừng mười xác chết. Những vết đạn băm
đầy mình cháy đen nham nhở. Người ta bảo đó là
Việt-cộng bị sát hại bởi trận phục-kích đêm qua.
Những xác chết nguội ngắt trần truồng. Ai đã cắc cớ
gắn trên môi người chết những điếu thuốc lá còn bốc
khói nghi ngút. Nắng bắt đầu rát và những xác chết
cũng bắt đầu trương lên. Ký-ức tôi xót đau cho phận
người từ đó. Ý nghĩa về chiến tranh cháy đỏ trong
tôi về một sự hi sinh đầy máu, nước mắt của hai
phía, của nhân dân lớn dần lên. Trong cuộc chiến trả
giá bằng những cái chết, mất mát đau thương để dành
lấy sự tồn tại. Chính là những người đang nằm đó.
Cũng là người mà ai nỡ đầy đọa nhau dường ấy. Hận
thù cứ buộc mãi mà không bao giờ tháo bỏ. Tôi bắt đầu
lớn lên bằng những ý niệm chiến tranh giữa những
người anh em thù hận trong không khí chiến cuộc đầy
mùi thuốc súng, phía sau rình rập đêm đêm ở làng quê
cho đến phố chợ vốn nghèo lại càng nghèo xơ xác."Phố
nhỏ Diên-Sanh lạnh buồn tê tái" giữa bốn mùa xuân
hạ thu đông im lìm lặng khuất rêm mình dưới thời
chiến. Lại những đợt hành-quân càn quét. Quê nhà vốn
đã chìm sầu trong khói lửa - cây không mọc nổi giữa
hai làn đạn, ruộng không người cày vì người đã bỏ
lên núi. Trâu bò lơ lững bước trong đêm nhớ về một
mùa vàng bội thu, êm đềm dưới trăng đêm giã gạo. Hồi
đó quê nhà bình yên đầy ắp giọng nói tiếng cười.
Thế
rồi đầu năm sáu lăm tôi được ra tỉnh học lớp
tú-tài. Hình ảnh ghi đậm trong tim tôi là ngày bác (Sáu)
tôi đứng bồi hồi chờ trước cửa trường nam-tiểu-học
khi tôi thi Trung-học. Bác vốn thay cha tôi cùng mẹ tôi
bảo ban nuôi nấng tôi nên người, bởi tôi vốn không
cha từ lúc lọt lòng.Trưa bụng đói bác đưa cho tôi ổ
mì "xíu" mà lần đầu trong đời tôi được ăn.
Cái hương vị tuyệt vời mãi đi theo tôi cả chiều dài
năm tháng. Cái mùi cay bùi đó không làm sao tôi quên được.
Chiều trời đổ mưa tôi gói mình trong tấm ni-lông màu
nước mắm băng qua đường gặp bác, hai mắt của bác
nhìn tôi ứa lệ với cảnh tình túng thiếu của tôi. Bác
nhẹ nhàng cởi tấm ni-lông rồi lặng lẽ mặc cho tôi
chiếc áo mưa (đầu đời) hiệu Blair màu khói hương. Tôi
nuốt nước mắt vào lòng mừng vui khôn tả.Tôi lặng
thinh nắm lấy tay bác đi bộ về chỗ trọ lòng đầy bồi
hồi xúc động. Kỳ đó tôi đổ trung-học.
Để
có cơm ăn tôi đi làm précepteur suốt ba năm học trường
Nguyễn-Hoàng.Với một bà mẹ quê quanh năm ruộng lúa
nương khoai lo cho cái ăn cái mặc thì làm sao kham nổi cho
con ăn học xa nhà nên đành phó thác tôi cho trời cho đất.
Những ngày đầu bỡ ngỡ với lớp với trường tôi xoay
quanh với nghề gia-sư ở nhà sách Tao-Đàn, đêm kèm ba
đứa nhỏ tiểu-học. Cho đến năm đệ-nhị thì chuyển
lên kèm cho một gia đình xóm chài Quảng-Trị. Cái
xóm chài ven sông Thạch-Hãn cứ theo mãi tôi đén bây giờ,
những con đò nằm sát bên nhau nơi bến đổ đầy … và
rong rêu dại dập duềnh theo từng đợt sóng lô xô. Những
bữa cơm trưa với hạt gạo chan mùi dầu diesel nhà binh
thiếu đói.
Nhà
tôi dạy kèm vốn nghèo nên nửa niên khóa sau tôi ghi tên
ăn cơm xã-hội miễn phí và thuê một cái giường để
ngủ và học hàng ngày. Vì đói mà tôi đã cố nuốt cho
qua bữa cá mòi, cá mối sình thiu.
Cuối
ngã ba đường là MACV, từ Cine Đại-Chúng, từ Cổ-Thành
đi lại và từ Long-Hưng ra là Nguyễn-Hoàng. Tôi học ban
C nên được xếp học ở dãy nhà dọc phía trái, có cái
cổng phụ rất dễ cho những lần cúp cua lang thang ngoài
phố. Tôi vốn không có một bạn gái nào để vắt vai
một mối tình, vì nghèo đói vì thân phận hẩm hiu. Đám
nữ sinh quá cao vời vợi với tôi. Cứ mỗi chiều cuối
tuần tôi háo hức về lại quê nhà, bên mâm cơm nghèo
cùng mẹ tôi với những trái cà đọt bí. Hương vị của
đất trời tỏa một mùi thơm dìu dịu. Hình như để
bù lại cho những ngày ở tỉnh-lị thiếu đói mẹ tôi
lại chạy vạy lo cho từng bát cơm có trứng, có cá.
Ở
trường tôi có thầy cô quan tâm đến phận
nghèo như cô Thanh, thầy Gary Carkin, thầy Diên, thầy
Nguyễn-đăng-Ngọc. Hình như chỉ có Việt và Anh văn là
tôi chăm chú học còn các môn khác tôi lại lơ đểnh,
nhất là môn vạn-vật vì thế mà năm thi tú tài tôi bị
thiếu điểm của cô Toàn. Thật nghiệt ngã.
Hồi
này tôi bắt đầu có thơ trên các báo Sài-gòn.Tết đó
tôi viết bài thơ buồn:
Nói
Với Lớp Học
Dĩ
vãng đó xin người đem dấu kín
Kỷ
niệm buồn đứa con nhỏ hoang mê
Đến
với người bằng tháng ngày đông tím
Bằng
hạ buồn bằng thu chết ngất ngư .
Tôi
chong mắt nhìn đời mình ở đó
Lớp
học buồn khuôn mặt lạ trầm ngâm
Ghế
bàn trơ im lìm lên nước gỗ
Buồn
lưng đầy theo từng tháng từng năm .
....
Người
về đó xem xóm làng tôi gục chết
Bầy
trâu nghèo lơ lửng bước trong đêm
Ruộng
cằn khô bên từng khoang mạ cháy
Người
bỏ đi nhung nhớ cả trăm miền .
Xin
dung tha một đời tôi vô phước
Sớm
xa người về trong cảnh nát tan ....
Thời
gian cứ mãi trôi đi, đi mãi cho đến một ngày tôi cũng
bỏ trường mà đi sau những năm tháng sống cực nhọc,
gian khó. Có ai biết đến một đứa con Nguyễn-Hoàng
trong bỗng chốc thấy mình cô đơn quá đổi giữa một
quê hương đầy súng đạn nghèo đói. Ngày mai không có
đường về. Lại những lần ra đứng thơ thẩn bên sông
Thạch-Hãn. Nhìn bên kia ẩn hiện ngôi chùa Sắc-Tứ thong
thả từng hồi chuông. Những hàng cây liêu xiêu, dòng
nước lững lờ.
Những
đứa con xưa của Nguyễn-Hoàng có lẽ đã đơm hoa kết
trái trên vạn nẻo đường. Tiếp nối mãi về một thân
tình ấm áp, mãi cầm tay nhau cho dù tuổi đời đã sửa
soạn về chiều. May thay vẫn còn lại những trái tim
người đầy nhân ái và đậm đà thủy chung tình bạn,
tình thầy trò.
Đoạn
viết này xin được gởi đến cô Thanh để nhớ đến
một đứa học trò đã từng khốn khó.
Những
tháng ngày đói ốm, cơm thừa cá cặn lại diễn ra với
đời sống thiếu thốn ăn nhờ ở đậu. Đến nổi tôi
không có một bộ đồng-phục, quần-xanh-áo-trắng để
đi đến trường mà mặc toàn đồ cũ xì.Thầy cô hàng
ngày đã nhẵn mặt tôi, một đứa học trò nghèo khó.
Lần tôi nhớ nhất là lần cô giáo Thanh-dạy Pháp-văn,
sinh-ngữ phụ gọi tôi lên trả bài nhưng tôi không biết
một cái gì cả. Cô bảo tôi ở lại sau giờ học, sau
khi tôi trình bày về hoàn cảnh thiếu đói đi làm gia-sư
nên không có đủ sức để học. Cô thông-cảm và bảo
ban tôi như một người chị với đứa em có cảnh đời
tội-nghiệp cho dù nghèo khó vẫn ham muốn đến trường
đến lớp. Đã nhiều lần cô tìm cách giúp đỡ tôi. Thế
hệ Nguyễn-Hoàng dường như ai cũng biết cô Thanh. Những
cảm thông của cô đã chắp cánh cho tôi sau này bay lên
với cuộc đời vốn không hề bình-dị.
Lại
những lần đổ quân bên sân bay dã chiến cạnh trường.
Chiến cuộc hồi này đã ác liệt. Những tiếng nổ đêm
đêm vọng về thành-phố. Tiếng đại-bác gầm rú đêm
ngày tù phía rừng núi. Những xác chết những thương
binh ngập ngụa mùi tử khí.
Tôi
hỏng tú-tài năm đó và chỉ có hai cách là lên rừng
hoặc bị động-viên-trừ-bị vì hồi này miền Nam rất
cần những tấm bia người đỡ đạn ngoài mặt trận cho
một chính-quyền vốn rệu rã ...
Ngày
tháng rồi cũng đi qua, nhiều lần tôi đã về ngồi lại
bên sông, bên chiếc cầu tre gảy nhịp nhìn dòng nước
chảy, nhìn bóng chiều tà đậu dài hai bên bờ ngẫm nghĩ
đến đời mình cho đến khi chiều tối.Tôi vốn sinh ra
nơi quê nghèo, nơi đây ngày xưa ăm ắp những tiếng hò
mái nhì mái đẩy, gạo trắng trăng thanh, thế nhưng sau
chiến cuộc mọi chuyện đã đổi thay không còn nữa.
Biết đến bao giờ, đợi đến bao giờ cho quê nhà thay
da đổi thịt.
Quê
ơi cứ hẹn một lần về.
3-
VÀO
ĐỜI
Khi
qua khỏi cầu Mĩ-chánh, ngã ba con lộ không vui là quê
làng tôi. Hơn bốn mươi năm trước trường Trung-học
Hải-lăng nằm sát bên con đường đó đối mặt với
huyện lị Hải-lăng với hàng kẻm gai chằng chịt. Năm
1961, trường được xây trên bãi cát mọc đầy xương
rồng lẩn hoa mua sim dại. Hàng dương dập dìu trước
gió, trống trường điểm từng hồi. Tuổi thơ bồng bềnh
phiêu hốt về một ngôi trường bé nhỏ nép mình trong
thời buổi chiến-tranh loạn lạc.
Tôi
trở về đây, chốn xưa đã thành một khu mới.Giữa ngã
ba đi về khi xưa không tìm đâu dấu vết của ngôi trường
cũ. Ngày đó thời bé nhỏ ngày hai buổi đi về cùng bè
bạn thầy cô chung vui trường lớp, xẻ chia đau thương
mất mát một thời súng đạn .Trong nổi đau chung của
Hải-lăng từ cuộc chiến huynh-đệ tương tàn trong đó
có ngôi trường mẹ Hải-lăng.
Ngày
ấy làm sao nói hết những chiều thu hạ đến xuân đông
ở phố nhỏ Diên-sanh lạnh buồn. Ở giữa ngã ba đường
quốc-lộ băng ngang là những mái ngói của một thị trấn
nhỏ buồn. Ở dưới gốc đa già là bến xe nho nhỏ hằng
ngày đi về tỉnh lị. Bên cạnh đó là ngôi đình làng
trầm lặng với những cây bàng lớn hơn vòng hai người
ôm. Những buổi lên lớp nắng xiên mai chiều cát gió,
một tiếng trống, một tiếng còi tàu để lại cô quạnh
thêm cho con phố nhỏ. Ở nơi đó những Lộc, Hoa của
Mai-đàn, Tục, Tiếp của Trung-đơn đã đi qua và đã nằm
xuống. Một thế hệ buồn!
Ngôi
trường bị xóa bỏ từ mùa hè đỏ lửa 1972, sau đó thì
vĩnh viễn chết ở cái huyện lị nghèo này. Những cánh
chim bay không mỏi mãi nhớ về trường xưa. Ở đó tôi
vẫn nhớ về từng hồi chuông nhà thờ đổ trong những
mùa giáng-sinh từ nhà thờ cha Minh, tiếng chuông ngân nga
tít mãi tận đồi cát bên kia. Đã chết đi những bóng
hình xưa cũ, còn chăng chỉ còn lại những đám mây trời
trôi ngang qua đầu.
Cảnh
cũ muôn năm đi vào cổ-tích của nhớ nhung hoài niệm.
Huy
Uyên
(1961-2015)