Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Thursday, February 14, 2019

TÌNH TRÚC PHƯƠNG - Thơ - Hoàng Yên linh



Tình Trúc Phương
                                                                          
          Nhớ Trúc Phương. Một thời mưu sinh, lưu lạc ở Sài Gòn. tháng ngày chung nhau qua đêm ở Bến xe Miền Tây. Nhũng kỷ niệm vẫn còn hằn sâu trong ký ức... Những hôm đạp xích lô được khách, tôi lại về sớm mướn sẵn đôi chiếu chờ Trúc phương về ngủ qua đêm... Có hôm Trúc Phương mang về chai rượu, cả hai nhâm nhi với bao tâm tình. Rồi đến lúc bến xe bị kiểm soát, tôi chỉ có tấm giấy ra trại, cả hai chúng tôi đành chia tay. Trúc Phương về miền Tây còn tôi lên cao nguyên kiếm sống... Từ đó cho đên khi Trúc Phương qua đời, tôi chưa lần gặp lại. Bài thơ như nỗi niềm thương nhớ gởi đến cố nhân...
HYL                                                                                                          
                               
"Con đường xưa mang tên em..."
Lời ca còn đó ngọt mềm yêu thương
Còn đâu hình bóng Trúc Phương
Một đời khổ lụy tang thương một đời
Người đi thăm thẳm mây trời
Tôi nghiêng chén rượu nhớ người năm xưa
Tình Trúc Phương tình tiễn đưa
Ngậm ngùi bao cuộc tình thua với người
Bạc đen cũng chuyện "thói đời"
Đa tình, tình lụy tình người xót xa
Thôi đành lỗi khúc tình ca
Thôi đành dang dỡ, tình là thiên thu.
                                
                                Hoàng Yên Linh


READ MORE - TÌNH TRÚC PHƯƠNG - Thơ - Hoàng Yên linh

CHIỀU CUỐI NĂM - Nhạc & Lời: Mai Hoài Thu - Ca sĩ: Đông Nguyễn

READ MORE - CHIỀU CUỐI NĂM - Nhạc & Lời: Mai Hoài Thu - Ca sĩ: Đông Nguyễn

TÂM TÌNH VỚI MÙA XUÂN - Thơ - Trường Hải Lê Văn Đông

Tác giả Trường Hải Lê Văn Đông
TÂM TÌNH VỚI MÙA XUÂN

Ơi, mùa Xuân, mùa Xuân
Mùa xuân muôn đời vẫn trẻ,
Cũng như bình minh tinh khôi,
Mỗi sáng đất trời thức dậy,
Cuộc sống ngày ngày sinh sôi.
Tuổi xuân một đời đẹp đẽ,
Nâng niu, trân trọng đời hoa,
Để rồi đến khi bóng xế,
Nhặt cánh hoa rơi chiều tà.
Mùa xuân thiên nhiên luôn trẻ,
Mùa xuân đất nước ông bà,
Mấy muôn nghìn năm có lẻ,
Xuân này thương nhớ xuân qua.
Mùa xuân đời người hữu hạn, 
Mong xuân quyến luyến cùng ta                     
Để được vui cùng con cháu,                                           
Đón chờ đất nước nở hoa.
Tổ quốc thanh bình tươi đẹp,
Cho đời vang khúc hoan ca.

Trường Hải Lê Văn Đông

READ MORE - TÂM TÌNH VỚI MÙA XUÂN - Thơ - Trường Hải Lê Văn Đông

CHÙM THƠ NGÀY VALENTINE - Châu Thạch.



BÀI THƠ MUỘN CHO NGÀY TÌNH NHÂN
Châu Thạch

Anh chẳng biết ngày tình nhân chi cả
Cũng chẳng bao giờ tặng em đóa hoa
Ta vẫn yêu nhau thắm thiết, mặn mà
Năm năm sướng ,bốn ba năm nghiệt ngã.

Ngày tình nhân có chi đâu mới lạ
Ta vẫn có hoài thời gian bên nhau
Ngày của ta đẹp hơn mọi sắc màu
Quà, hoa, rượu, socola đồ bỏ

Trái tim anh, trái tim em vẫn đỏ
Một màu son ở tuổi cổ lai hy
Trên đường đời ta cứ nắm tay đi
Tình duy nhất như lông chiên, bạch tuyết

Chúa đã dạy tình gái trai Ngài quyết
Thì trần gian không được rẽ chia nhau
Hai đứa mình đã thề nguyện trước, sau
Khi chưa biết cả những lời Thượng Đế

Điều thổ lộ chân thành thì không trể
Nên bây giờ anh mới nói cùng em
Cảm ơn em, đôi chân cứng đá mềm
Đã theo suốt đường đời anh sỏi đá!!!
CT
MỒNG TÁM TẾT
Châu Thạch

Mồng tám tết, xuân đến nhà tám bửa
Con về thăm nằm với mẹ chung giường
Tám đêm trường ta đã thiếu mùi hương
Nên đêm cứ năm mơ toàn ác mộng.

Mồng tám tết con chia tay bốn hướng
Buồn xa con cũng thấy thảm trong lòng
Nhưng đêm về ta nằm cạnh người thương
Mà ta đã yêu từ thời trai trẻ.

Em có biết tình ta luôn mới mẻ
Cứ từng ngày hoa lại nở trong vườn
Hoa lòng ta cũng thế, ngát mùi hương
Hương sắc mới, giữ cho tình cứ mới.



Đến thất thập ta vẫn mong vẫn đợi
Em nói yêu như từ thuở mười ba
Lá thứ tình em đã viết cho ta
Mùi mực tím thơm trong hồn mãi mãi!
CT
READ MORE - CHÙM THƠ NGÀY VALENTINE - Châu Thạch.

MẤY LỜI TÂM SỰ - Châu Thạch


Nhà thơ Nguyễn Đăng Hành

MẤY LỜI TÂM SỰ
(Nhân nhà thơ Nguyễn Đăng Hành nói về Châu Thạch)
*
Vừa ăn Tết xong, mồng mấy Tết không nhớ, nhà thơ Đặng Xuân Xuyến điện thoại cho Châu Thạch. Sau vài lời chúc tết, nhà thơ hỏi:

- Chú đã đọc bài “Tưng Tưng bảy chuyện cùng…Nguyễn Đăng Hành” chưa ạ?.
- Hả, mấy bữa nay bận lo Tết quá nên chú chưa đọc.
- Chú đọc đi, trong đó có nhắc về chú đấy ạ.
- Ừ, để chú đọc bây giờ.

Thế là tôi ngồi vào máy vi tính mở trang web dangxuanxuyen.blogspot.com và tìm đọc bài nầy. Bài nầy Đặng Xuân Xuyến chép lại những lần trao đổi giữa anh với nhà thơ Nguyễn Đăng Hành, bàn luận về các nhà thơ, trong đó tôi có biết vài người chớ chưa quen ai cả. Châu Thạch tôi cũng hân hạnh được đề cập đến hai lần. Lần thư nhất hai người nói về Châu Thạch như sau:

 “Mươi hôm sau, anh (tức Nguyễn Đăng Hành) điện cho tôi, vẻ rụt rè:
- Anh hỏi câu này, chú trả lời thật nhé. Bài "Ẩm trời" của chú, đáng mấy điểm.
Tôi có chút ngập ngừng:
- Tự chấm điểm thì em không biết cho điểm mấy nhưng bài đó cũng thường thôi, không thể là hay.
Anh ồ lên, lanh lảnh:
- Vậy mà bác Châu Thạch khen hết lời.
Tôi cười, nửa phân trần:
- Chú Châu Thạch khen hay ở phong cách tỏ tình mới lạ, bạo liệt chứ không khen bài thơ "Ẩm trời" hay.
Anh chậm rãi:
- Anh nghĩ bác Châu Thạch vì quý người mà quý thơ. Bác Châu Thạch nhiều bài bình rất sâu, rất hay, anh rất phục nhưng đọc mấy bài bình kiểu quý người quý thơ như thế không sướng.”

Trước hết tôi thành thật cảm ơn nhà thơ Nguyễn Đăng Hành đã thốt lên những lời có cánh khen tôi, khiến trong tôi, niềm vui đầu năm ập đến bất ngờ.
Sau đó thấy bài ghi chép của Đặng Xuân Xuyến được đăng lên facebook tôi có comment mấy lời như sau:
Nhà thơ Nguyến Đăng Hành viết có cái chưa hiểu tôi:
Khi nói về bài bình “Ấm Trời” của Đặng Xuân Xuyến, nhà thơ Nguyễn Đăng Hành nói: “bác Châu Thạch quý người nên quý thơ”. Thật ra khi bình bài “Ấm Trời” tôi chưa hề quen biết gì Đặng Xuân Xuyến và cho đến nay cũng chưa hề gặp Đặng Xuân Xuyến lần nào hay trao đổi với nhau quá 5 phút trên điện thoại, còn trên email thì hoàn toàn không có. Vậy thì phải nói tôi “QUÝ THƠ NÊN QUÝ NGƯỜI” mới đúng.”
Nói cho đúng, tôi biện hộ cho mình như thế cũng chưa chính xác, vì nếu nói quý người nên quý thơ thì tôi còn quý nhiều người hơn quý Xuyến, mà thơ họ không thua gì thơ Xuyến, nhưng tôi chưa bình cho họ lấy một bài thơ. Ví dụ như nhà thơ Phan Minh Châu ở Nha Trang. Anh đã là bạn thơ với tôi gần 10 năm, tôi yêu thơ anh như điếu đổ nhưng cho đến khi anh qua đời, tôi chưa hề viết một câu về thơ anh. Tôi đau đớn và chua xót trong lòng.
Tôi nghĩ người làm thơ và người bình thơ có một sợi dây liên kết vô hình nào đó, nên có sự đồng điệu trong cảm thụ, tri kỷ nhau ít nhất trong chính bài thơ được đem ra tán thưởng. Ví dụ như bài thơ “Ấm Trời” của Đặng Xuân Xuyến, nhà thơ Nguyễn Đăng Hành tỏ ý không vừa lòng nhưng với tôi nó là bài thơ hay thật thụ.
Ở trên, nhà thơ Đặng Xuân Xuyến trả lời nhà thơ Nguyễn Đăng Hành như sau:  “Chú Châu Thạch khen hay ở phong cách tỏ tình mới lạ, bạo liệt chứ không khen bài thơ "Ẩm trời" hay.”. Đó chỉ là một câu nói khiêm nhường thôi. Thật ra bài thơ phải hay mới làm bộc lộ “phong cách tỏ tình mới lạ, bạo liệt” và độc đáo được. Thơ hay là ở chỗ diễn tả sống động cái phong cách ấy.
Từ sự trao đổi giữa hai nhà thơ trên, tôi mở bài bình thơ của tôi đọc lại. Bài viết có đầu đề là: “Ấm Trời” thơ Đặng Xuân Xuyến: Một phong cách tình khác lạ.
Để hiểu những đoạn sau của bài viết nầy, xin mời đọc lại một lần bài thơ của Đặng Xuân Xuyến:      
ẤM TRỜI
Em gạ một đêm chồng vợ
Cho mùi da thịt thơm hương
Mấy ngày hôm nay mưa tợn
Ẩm trời, khó ở, thấy ghê.
 .
Ừ thì, một đêm thôi nhé
Mai đừng, nữa gạ một đêm
Mùa này ẩm trời dài lắm
Da đây thịt đấy đến mòn.

Mở đấu bài bình tôi đã viết:

Có những bài thơ nói về tình yêu thiên về tinh thần nhẹ nhàng như bướm bay, lãng mạn như gió trăng và êm đềm như tiếng suối chảy. Cũng có những bài thơ nói về tình yêu thiên về nhục dục hừng hực như lửa cháy, cuốn hút như phong ba và cuồng nộ như con thiêu thân sa vào hố lửa. Giữa hai lằn ranh đó có những bài thơ nói về tình yêu khô khan như một lời bông đùa dí dỏm, nhưng nó lại hoàn toàn thể hiện sự độc đáo của một phong cách yêu”.
 Như vậy bài thơ nầy không phải hay ở chỗ lời thơ hoa bướm mà hay ở chỗ lời thơ ngổ ngáo, có mãnh lực cuốn hút người đọc nhìn thấy một cuộc truy hoan hoàn toàn vì nhục dục sẽ diển ra.

Đoạn giữa của bài bình thơ tôi viết như sau:

Người ta có thể tìm thấy trong ca dao hay trong thơ những câu đối đáp rất hay của những chàng trai trả lời cô gái đang gặt lúa trên đồng hay ban đêm giã gạo cùng nhau. Những câu đó chắc chắn rất trữ tình nhưng chắc chắn không bao giờ thân ái như lời thơ trong khổ thơ này. “Ừ thì một đêm thôi nhé”: chúng ta nghe như lời của anh nói với em. Chúng ta tưởng tượng lời từ cửa miệng chàng trai thốt ra âu yếm vô cùng, ấm áp vô cùng. Rồi thì “Mai đừng, gạ nữa một đêm”: Câu thơ không phải là lời từ chối đâu, ngược lại đó là lời hẹn hò những đêm kế tiếp bằng một câu bông đùa tế nhị.”
Như vậy, bài thơ hay ở chỗ diễn tả được cái chân tình, cái tình yêu ẩn kín phía sau những lời tưởng như trắng trợn đó. Nhà thơ đã dùng ngôn ngữ thật thô cứng nhưng lại diễn tả hết cái mềm mại nằm trong sâu kín tâm hồn của hai người có bản tính bông đùa và thích diễu cợt cùng nhau.

Đoạn cuối của bài bình thơ tôi viết như sau:

Bài thơ hay là hay ở chỗ đó, diễn đạt cái kín đáo mà bề ngoài không mấy ai thấy được, không mấy ai trân trọng, có khi còn khinh ghét nữa. Bài thơ hay cũng là hay ở chỗ “nói tục giảng thanh”. Đọc “Ấm Trời” ta nghe tiếng thơ như của một nhân vật bất cần đời, một cặp trai gái ngổ ngáo xem tình như cỏ rác, nhưng ngẫm kỹ, đọc đi đọc lại nhiều lần ta tìm thấy ở đó những tâm hồn đẹp mà ta yêu quý, một mối tình có thể làm cho ta se lòng và cảm mến
Tất nhiên ở đây tôi chỉ trich lại những phần chính trong bài bình thơ của tôi, mục đích để biện hộ cho mình. Biện hộ rằng tôi quý thơ Đặng Xuân Xuyến mà viết những lời có cánh cho thơ anh chớ không phải vì quý anh mà viết những có cánh cho thơ ấy. Quý vị nào có vui thì tìm trên web dangxuanxuyên đọc trọn bài bình cúa tôi cho “ẤmTrời” sẽ tường tận hơn.
Sau đó hai nhà thơ còn đề cập đến việc tôi và nhà thơ Nguyên Lạc cãi cọ nhau.
Khi nói về thái độ của ông Nguyên Lạc đối với tôi, nhà thơ Nguyễn Đăng Hành nhận xét: “Ông Nguyên Lạc thâm và đểu khi dùng thái độ nhã nhặn lịch thiệp để ra đòn với ông Châu Thạch”.
Thật ra ông Nguyên Lạc dùng chữ “không lương thiện” để chửi tôi thì không thể nói là “nhã nhặn lịch thiệp” được. Phải nói đó là một câu nặng nề nhất khi dùng cho một người đã từng viết khen ngợi ông ta từ khi chưa hề biết ông ta là ai và chưa đòi hỏi ông ta một món quà nhỏ nào. Nghĩa của chữ Lương thiện là “không làm những gì trái với đạo đức và pháp luật”. Vậy ông ấy nói tôi “không lương thiện” là ông ấy nói tôi “vô đạo đức và phạm pháp”. Ông ấy có nhiều bằng đại học, là một nhà văn thì phải ý thức đầy đủ lời nói của mình, không vu khống làm xúc phạm nhân phẩm kẻ khác chứ. Nhưng thôi, tôi đã hứa với mọi người quên đi nên không nhắc lại nữa.

Cuối cùng xin gởi đến hai nhà thơ Nguyễn Đăng Hành và Đặng Xuân Xuyến lời chúc một mùa xuân an lành, một năm mới phát triển và viết thật hay. Xin gởi đến quý vị đã đọc bài nầy lời cảm ơn và ước nguyện nhận nhiều niềm vui, an khang, thịnh vượng trong năm Kỷ Hợi nầy./.
                                             Châu Thạch

READ MORE - MẤY LỜI TÂM SỰ - Châu Thạch

CÁNH XUÂN CHỜ - Thơ Tăng Tấn Tài

Tác giả Tăng Tấn Tài
CÁNH XUÂN CHỜ ... 
30.1.2019

Lật chiều sắp lại gió đông
Bao nhiêu cơn gió qua lòng mùa quê
Dặm trường xa, tính ngày về
Xun xoe kỷ niệm vân vê đếm tròn.

Cuộn dòng xoáy nhỏ cỏn con
Thời gian kéo trải lớn vòng thương yêu
Con đò,dòng chảy ... bao điều
Hư hao còn đó,nâng niu bồng bềnh.

Ngọn chiều còn mãi lênh đênh
Ngõ về phố cổ chông chênh kinh cầu
Lặng chìm muôn nẻo nông sâu
Rêu xanh cát bụi tình đâu ngọt ngào !

Phấn son tô điểm chiêm bao
Tìm nghiêng về phía bên nào có em
Vàng mai cánh mỏng trước thềm
Nắng xuân giành tặng riêng em nụ cười .

Tăng Tấn Tài.

READ MORE - CÁNH XUÂN CHỜ - Thơ Tăng Tấn Tài

ĐÁNG KIẾP - Thơ Nguyên Lạc





ĐÁNG KIẾP

Ta yêu em mắt liếc dao cau
Liếc một cái hồn ta chết điếng
Liếc nhiều cái đời ta mất biến
Để hiện tiền một kẻ cuồng si!

Ta yêu em!...  Sao vội vã đi?
Bỏ ở lại một đời hoang dại
Người ra đi chẳng thèm ngó lại!
Còn hăm he đừng gặp kiếp sau!

Khi yêu em... ta bị con dao
Đâm lút cán ngay tim ứa máu
Em tung tăng đường hoa chân sáo
Bỏ lại người...  cùng nỗi thương đau!

Bỏ lại người giấc ngủ chiêm bao
Những hoài niệm tình đầu đau buốt!
Những vần thơ sầu ai đứt ruột!
Mắt dao cau cứa cổ một người!

Ta yêu em khổ lụy một đời!
Và biết chắc khổ luôn hậu kiếp!

Hãy yêu đi!
Cho mày đáng kiếp!
Tôi tôi ơi!
Và... em em ơi!

Nguyên Lạc


READ MORE - ĐÁNG KIẾP - Thơ Nguyên Lạc

TRỜI MƯA MƯA MÃI, MƯA HOÀI - Thơ Quách Như Nguyệt

 
              Nhà thơ Quách Như Nguyệt



TRỜI MƯA MƯA MÃI,
MƯA HOÀI

Tháng Hai mưa mưa
Ướt đẫm tâm hồn
Tháng Hai mưa bay
Nhớ người biết mấy

Nhớ lại ngày xưa
Em đến tìm anh
Gặp mặt lần đầu
Tim đập thật nhanh

Ngày em gặp anh
Trời mưa giăng giăng
Mưa mãi, mưa hoài
Trời mưa tầm tã

Sài Gòn mùa hạ
Gặp người dưng, lạ
Sao nghĩ đến hoài
Mong sao gặp lại

Tình đầu khó phai
Thuở em mới lớn
Chữ “yêu” lạ lẫm
Nỗi nhớ âm thầm

Sấm chớp ầm ầm
Đêm nay mưa mãi
Bão kéo qua đây
Dai dẳng mưa hoài!

Làm thơ miệt mài
Quá khứ sống lại
Thôi không nhớ nữa…
Mưa suốt đêm nay!

Người nơi phương ấy
Nào nhớ phương nầy
Người xưa xa lắc
Tình đầy… thơ ngây!

           Như Nguyệt
        14 tháng 2, 2019

READ MORE - TRỜI MƯA MƯA MÃI, MƯA HOÀI - Thơ Quách Như Nguyệt

BẾN ĐỢI - Thơ Đặng Xuân Xuyến





BẾN ĐỢI
(Tặng G)

Chẳng rình em tắm như người ta
Anh sỗ sàng dụ em buông thả
Vội vã thành đàn bà
Ngẩn ngơ làm "vợ người ta"
Em mặc miệng đời bủa vây mai mỉa
Lời yêu nuốt sâu cuống họng
Em thị phi khác thường...

Anh cưới vợ rồi
Em lấy chồng thôi
Chỉ là thêm cuộc chơi
Thêm nữa vắng đứng ngồi chờ đợi
Thói đời
Miệng đời
Bạc bẽo lắm mây trôi bèo dạt.

Gửi gắm gì câu hát
Í a xang xề xề xang
“Ai mang con sáo sang sông
Để sáo sổ lồng...”
Em theo chồng
Bến nào có rộng
Sao thăm thẳm lời hát
Sao gió gằn ràn rạt...
Anh ơi
Mỏi mòn câu chờ câu đợi
Buông mái chèo
Em neo đậu bến mô...

Hà Nội, sáng 31 tháng 01.2019
     Đặng Xuân Xuyến

READ MORE - BẾN ĐỢI - Thơ Đặng Xuân Xuyến

NHÂN NĂM HỢI - KỶ HỢI, NÓI CHUYỆN VỀ HEO (Phần 2) - Hoàng Đằng


     


NHÂN NĂM HỢI - KỶ HỢI, NÓI CHUYỆN VỀ HEO
                                      (Phần 2)

Hiện nay, ngoài heo nuôi nhỏ lẻ ở từng gia đình, heo nuôi ở trang trại chiếm số lượng nhiều, nuôi heo xem như một ngành kinh doanh thu dụng nhân công cả nữ lẫn nam.
Ngày xưa, nuôi heo chỉ để kiếm thu nhập phụ, ngoài trồng trọt là sinh kế chính.
Trong mỗi gia đình nông dân, việc nuôi heo được phân công cho phụ nữ: “Heo, ca (gà) đàn bà; cửa nhà đàn ông”. Ở một xã hội trọng nam khinh nữ, việc phân công này chắc do nam giới bày ra. Tội nghiệp là nữ giới chỉ biết chấp hành, không so bì thiệt hơn, dù sự chia việc này không công bằng chút nào!
Suốt một đời người, cửa nhà tạo dựng vài ba lần đã là nhiều lắm, còn sửa chữa, nâng cấp lâu lâu mới có một lần; vậy nên, đàn ông được phân công lo việc cửa, việc nhà, ắt tương đối nhàn hạ, rảnh rỗi, có nhiều thời giờ giải trí; nhờ vậy, mấy ông thầy đồ mới có thể đắm mình vào cầm, kỳ, thi, tửu; trong khi đó, chỉ cần lo cho một hay hai con heo nuôi trong chuồng, đàn bà phải tốn rất nhiều thời gian: xắt chuối, hái rau, xay giã lúa gạo để có cám, tấm …
Đàn bà ngày xưa, nhất là đàn bà nông thôn, không có thì giờ nghỉ ngơi; việc chồng việc, việc dồn việc. Khổ nhất là cảnh: lửa tắt, cơm sôi, heo kêu, con khóc. Nếu như ngày nay, ông chồng ắt phải phụ một tay, chứ ngày xưa cứ bình thản "ăn no lại nằm". Mà ăn không yên, nằm không yên, đàn ông còn máy động:

‘Đương khi lửa tắt, cơm sôi,
Heo kêu, con khóc, chồng đòi tòng teng...’

Viết đến đây, mình, dù là đàn ông, vẫn thấy đàn ông ngày xưa "tàn nhẫn" quá.
Đàn bà ngày nay có thì giờ vui chơi, hãy nên cảm ơn Đời, cảm ơn Người đã đem đến cho mình sự bình đẳng, nguồn hạnh phúc trong cuộc sống văn minh.

Ở quê tôi, nuôi heo thỉnh thoảng để giết thịt, dùng trong cúng giỗ, dọn tiệc cưới, khao vọng, tế phái, tế họ, tế làng ...
Dùng heo cho việc gia đình, việc phái, việc họ thì không kể heo đực, cái, màu lông gì; nhưng heo dùng tế thần thì phải là heo đực, có màu lông "đen tuyền" (toàn đen), không khuyết tật trên cơ thể.
Lễ cúng, tế có heo gọi là sanh lễ (cúng, tế có dê, bò nguyên con cũng gọi là sanh lễ; dê, lợn, bò là tam sanh)
Mỗi phái, mỗi họ, mỗi làng đều có một phần điền thổ gọi là ruộng hương hoả. Mỗi năm, việc cúng tế luân phiên giữa các thành viên trong phái, trong họ, trong làng. Thành viên đến phiên chịu gọi là chủ điền nghĩa là người được canh tác phần điền thổ hương hoả dành cho việc cúng tế liên quan - có thể một sào, hai sào hay nhiều hơn tuỳ số lượng quỹ đất hương hoả - lấy hoa lợi để sắm lễ: heo, xôi, trầu, rượu, hương, hoa, vàng bạc …
Phái, họ, làng có định lệ cho mỗi loại lễ vật: heo mấy thước, nếp mấy thăng (dụng cụ đo lường bằng gỗ) …

Cần nói thêm để những thế hệ sau được biết: Ngày xưa, mua heo, người ta không cân, chỉ dùng mắt để ước lượng con heo lớn, bé, "hạ" ra được bao nhiêu thịt. Còn đối với heo tế phái, tế họ, tế làng, người ta "nịt" để biết heo đạt lệ định hay chưa; nịt xong, cái dây nịt đem ra đo ở thước mộc (một thước mộc = 4 đề-ci-mét = khoảng 2 gang tay); ví dụ, nếu lệ định 1 thước tư mà chủ điền nuôi đến 1 thước 8 thì khi tế xong, chủ điền được trả lại 4 tấc; thịt trả lại được cắt một dãi, bề dài theo chu vi vòng hông con heo, bề ngang theo số lượng thước tấc trội ra.
Heo “chịu” việc tế, chiều hôm trước lễ chánh tế tức là lúc sắp cử hành lễ cáo yết, được gánh ra nơi tế. Trước mặt đông đủ người tham dự, hai người xỏ đùi vào dây buộc chặt hai chân trước, gánh lên, một người nhận nhiệm vụ cầm dây mây, vòng qua nách con heo, kéo sít da, hỏi: “Thưa …, được chưa?”, hai người gánh xoay con heo sang phía khác, hỏi: “Thưa …, được chưa?”. Nếu mọi người hô: “Được rồi!” thì gánh heo về địa điểm chờ mổ, còn nếu có ý kiến: “Chưa được!” thì người nịt phải kéo sợi mây cho chặt hơn chút nữa.
Heo dâng tế nguyên con, trên có con dao, bên cạnh mâm xôi lớn.
Tế xong, heo bưng xuống, xẻ, cắt, mọi người ăn, xem như hưởng "huệ" của thần linh tiên tổ - từ ngữ dùng là "thừa thần chi huệ" - cũng hơi giống với Eucharistie trong Thiên Chúa Giáo.
Xưa kia, nuôi heo là để tận dụng những thứ mà con người không còn dùng được (cơm thừa, canh cặn, nước vo gạo, nước rửa chén bát, tấm, cám, ngô, khoai bị mọt, thân cây chuối, rau già ...) thành thứ mà con người dùng được (thịt heo). Nuôi heo như thế chỉ tốn công, chứ bỏ chi phí ra rất ít, nếu đừng kể tiền mua con giống. Heo nuôi một năm chỉ lớn khoảng 40 kg hơi. Mỗi gia đình chỉ nuôi một đến hai, ba con. Do đó, mặc dù dân số ít, con người vẫn ít có cơ hội ăn được miếng thịt heo.

Bây giờ, dân đông, đời sống kinh tế cao lên cho phép bữa cơm hàng ngày của mọi nhà có thịt; mức tiêu thụ thịt nhiều. Heo nuôi ở quy mô gia đình ít đi mà ở quy mô trang trại nhiều lên, số lượng mỗi trang trại có thể lên đến hàng ngàn, hàng vạn con. Thức ăn cho heo được chế biến sẵn, đầy đủ chất dinh dưỡng, rồi nào thuốc tăng trọng, nào thuốc tạo nạc, nên heo chóng lớn - heo nuôi trong vòng 3 tháng có thể xuất chuồng, nặng đến 70, 80 kg.
Sự can thiệp nhiều của khoa học vào việc nuôi heo có cái ưu là cung ứng nhu cầu thịt đủ, thậm chí dư, cho xã hội! Tuy nhiên, việc can thiệp của khoa học làm cho quá trình sinh trưởng của con heo không còn “tự nhiên”.

Nếu nuôi heo không được kiểm soát để thịt heo được đánh giá tốt theo qui trình vệ sinh an toàn thực phẩm, thì thịt heo có thể gây hại cho sức khoẻ người tiêu dùng; thịt heo có thể tồn dư nhiều chất độc hại, nói theo ngôn ngữ thời thượng, là thịt heo “bẩn”.
Không những thế, con người thời nay sống trong xã hội trọng kim tiền, chỉ biết làm lợi cho mình mà quên rằng việc làm của mình đang tổn hại đến muôn người. Tết có nhu cầu thịt heo tăng vọt; TV có loan tin là nhiều lò tể sinh không những mổ heo bệnh mà còn tận dụng cả thịt heo chết lâu ngày đã bốc mùi hôi thối, qua những cách chế biến khéo léo, đưa ra thị trường. Nghe mà ớn!
Di hại về sức khoẻ sẽ ảnh hưởng đến sự tồn vong của giống nòi, của dân tộc, chứ không phải là chuyện "khơi khơi". Mong mọi người sẽ quan tâm đặc biệt đến vấn đề này!

Thế là đề mục mà tôi triển khai trong những "dòng suy nghĩ" mấy ngày qua tạm dừng.
Nước ta từng bị chia cắt lâu năm; lại thêm, sự chuyển đổi thể chế chính trị xoay đến 180 độ kéo theo dòng chảy văn hoá, phong tục, tập quán ... bị đứt đoạn. Tôi, trong cái rủi có cái may, là chứng nhân của thời đại. Tự xét mình không đủ trải nghiệm, đủ tư cách ... để kể những chuyện lớn, chuyện có hệ thống trong tiến trình quá độ từ giai đoạn trước sang giai đoạn sau của lịch sử, tôi chỉ lượm lặt những chuyện vụn vặt trong cộng đồng kể ra để những người cùng trang lứa ôn lại mà giải trí và để những thế hệ đàn em biết ngày xưa đã có thời như thế.

Tết đến, xuân về, xin chúc bạn đọc các "dòng suy nghĩ" của tôi trong thời gian qua NĂM MỚI AN KHANG!

                                             Hoàng Đằng
                               01/2/2019 (27/Chạp/Mậu Tuất)

READ MORE - NHÂN NĂM HỢI - KỶ HỢI, NÓI CHUYỆN VỀ HEO (Phần 2) - Hoàng Đằng

CHÙM THƠ NGÀY VALENTINE - Châu Thạch.




BÀI THƠ MUỘN CHO NGÀY TÌNH NHÂN

Anh chẳng biết ngày tình nhân chi cả
Cũng chẳng bao giờ tặng em đóa hoa
Ta vẫn yêu nhau thắm thiết, mặn mà
Năm năm sướng, bốn ba năm nghiệt ngã.

Ngày tình nhân có chi đâu mới lạ
Ta vẫn có hoài thời gian bên nhau
Ngày của ta đẹp hơn mọi sắc màu
Quà, hoa, rượu, socola đồ bỏ

Trái tim anh, trái tim em vẫn đỏ
Một màu son ở tuổi cổ lai hy
Trên đường đời ta cứ nắm tay đi
Tình duy nhất như lông chiên, bạch tuyết

Chúa đã dạy tình gái trai Ngài quyết
Thì trần gian không được rẽ chia nhau
Hai đứa mình đã thề nguyện trước, sau
Khi chưa biết cả những lời Thượng Đế

Điều thổ lộ chân thành thì không trể
Nên bây giờ anh mới nói cùng em
Cảm ơn em, đôi chân cứng đá mềm
Đã theo suốt đường đời anh sỏi đá!!!


MỒNG TÁM TẾT

Mồng tám tết, xuân đến nhà tám bữa
Con về thăm nằm với mẹ chung giường
Tám đêm trường ta đã thiếu mùi hương
Nên đêm cứ năm mơ toàn ác mộng.

Mồng tám tết con chia tay bốn hướng
Buồn xa con cũng thấy thảm trong lòng
Nhưng đêm về ta nằm cạnh người thương
Mà ta đã yêu từ thời trai trẻ.

Em có biết tình ta luôn mới mẻ
Cứ từng ngày hoa lại nở trong vườn
Hoa lòng ta cũng thế, ngát mùi hương
Hương sắc mới, giữ cho tình cứ mới.

Đến thất thập ta vẫn mong vẫn đợi
Em nói yêu như từ thuở mười ba
Lá thứ tình em đã viết cho ta
Mùi mực tím thơm trong hồn mãi mãi!

                                       Châu Thạch

READ MORE - CHÙM THƠ NGÀY VALENTINE - Châu Thạch.