Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Wednesday, January 9, 2013

BÀI THƠ "NGẪM SỰ ĐỜI" CỦA VUA TỰ ĐỨC - Nguyễn Hồng Trân sưu tầm và bình luận


Bài thơ “Ngẫm sự đời” của vua Tự Đức là một bài thơ chữ Nôm, thể loại Đường luật (Thất ngôn- bát cú) đã nói lên nỗi niềm tâm sự của ngài về cuộc đời với mối quan hệ gia tộc và xã hội.

NGẪM SỰ ĐỜI

Sự đời ngẫm nghĩ, nghĩ mà ghê!
Sống gửi rồi ra thác lại về
Khôn dại cùng chung ba tấc đất
Giàu sang chưa chín một nồi kê
Tranh giành trước mắt, mây tan tác
Đày đọa sau thân, núi nặng nề
Thử đến hỏi Tiên, Tiên chẳng thấy
Gượng làm chút nữa để mà nghe…

Ngay hai câu đầu “mở đề”, ta có thể hiểu được nhà vua cảm thấy lòng mình ngao ngán với sự đời thực tại:

Sự đời ngẫm nghĩ, nghĩ mà ghê!
Sống mãi rồi ra thác lại về

Ngài cho rằng, cứ sống mãi với nhiều chuyện rắc rối làm chi rồi cũng đến lúc chết cả thôi.  Đến hai câu tiếp là hai câu “thực”, tác giả muốn nói lên một triết lý là người khôn, kẻ dại cuối cùng cũng chung số phận về  với đất mà thôi, chẳng còn ý nghĩa gì:

Khôn dại cùng chung ba tấc đất
Giàu sang chưa chín một nồi kê

Và giàu sang rồi cũng không được dài lâu, bền vững. Từ triết lý cuộc đời như thế, ngài đã dẫn đến hai câu “luận”:

Tranh giành trước mắt, mây tan tác
Đày đọa sau thân, núi nặng nề

Việc tranh giành nhau quyền lợi, địa vị đã mất mát tình nghĩa, làm tổn thất nặng nề đến đạo lý gia đình, tộc phái. Hai câu này nói lên tâm trạng của nhà vua rất buồn trong hoàn cảnh anh em ruột thịt đã mất đoàn kết muốn hại nhau làm tổn thương đến họ hàng, làng xã…
Cuối cùng hai câu “kết” của bài thơ nói lên sự bế tắc nỗi buồn của nhà vua được chưa giải tỏa:

Thử đến hỏi Tiên, Tiên chẳng thấy
Gượng làm chút nữa để mà nghe…

Ngài không còn hy vọng gì đến đấng thần tiên để giải cứu ưu phiền cho mình nữa mà đành theo số phận cố chịu đựng gắng gượng làm vua để mà nghe thêm những điều thiên hạ luận bàn, phán xét huyện đời mà thấm thía tiếp thu…

Nguyễn Hồng Trân


READ MORE - BÀI THƠ "NGẪM SỰ ĐỜI" CỦA VUA TỰ ĐỨC - Nguyễn Hồng Trân sưu tầm và bình luận

CHỒN CÁI CÓ NGHĨA - truyện ngắn Kha Tiệm Ly



Lư sinh người Hồ Nam, cha mẹ mất sớm, chỉ để lại mảnh đất bạc màu, trồng cây chẳng ra trái, trồng lúa chẳng trỗ bông. Học hành không tới nơi tới chốn nên lỡ sĩ lỡ nông. Được có bộ dạng khá khôi ngô, lại được tài ăn nói, bèn ra chợ viết mướn “kiêm” coi tướng độ nhật. Dù vậy, ngày thăng ngày giáng, kiếm ăn vất vả.

Mé tây có cô gái họ Cù, cha mẹ cũng đã qua đời, thương cùng cảnh ngộ nên  thường qua nhà Lư quét dọn, nấu giùm ấm nước nồi cơm, hoặc có món nào ngon đều đem qua biếu Lư rồi cùng ăn, cùng chuyện trò vui vẻ.

Cù nhan sắc đã tầm thường, mà má phải lại có một bớt đen lớn nên càng khó nhìn. Do đó, dù đã hai mươi tuổi mà chưa có trai nào ngó tới. Dù vậy, Cù lại là cô gái rất hiền lành, nói năng khuôn phép, giỏi việc nấu nướng, đảm đang việc nhà, nên mọi người đều thương mến, kính nể.

Cũng vì bộ mặt nầy mà ban đầu làm Lư khó chịu, nhưng sau lại bị những đức tánh của nàng cảm hoá, Lư dần dần đổi thái độ với Cù. Lại nghĩ chẳng mất mát gì, còn được người giúp việc không công!

Thế mà hai người ăn ở như vợ chồng lúc nào không hay. Việc nầy đối với Cù là cả một tấm lòng; còn với Lư, chẳng qua là việc “lửa gần rơm”!

Trước khi có Cù, nhà Lư sờ gạo hết gạo, sờ muối hết muối; ngổn ngang vật dụng trong nhà, rác có khi ngập tới cổ chân! Khi có bàn tay Cù thì mọi việc đâu vào đấy hẳn hoi. Hàng ngày Cù nuôi tằm dệt vải, bắt thêm mớ ốc mớ rau nên cũng cải thiện cuộc sống đôi phần. Vậy mà nhiều khi Cù nhịn ăn cho Lư no cũng là chuyện rất thường.

Một lần Lư bệnh, mình nóng như lửa đốt, lại gặp lúc bão tố triền miên. Trong nhà hạt gạo chẳng còn, mà thấy Lư như mê như dại, lòng Cù đau như dao khứa, bèn cầm chiếc trâm của mẹ bao đời truyền lại mà lo thuốc thang cho Lư.

Ngày tỉnh lại, thấy trên mâm cháo gà bốc khói. Nước bọt tuôn ngập chân răng. Lư hỏi:

- Tiền đâu mà nàng có thứ quí giá nầy?

- Có con gà rừng ở đâu đến trú bão mà như hết sức lực, nên thiếp bắt đó thôi.

Lư ngờ ngợ, chợt thấy chỉ có một đôi đũa, bèn hỏi:

- Sao nàng không ăn cùng ta?

- Thiếp ăn rồi.

Mấy lời “thiếp ăn rồi” làm Lư xót xa. Cũng chỉ vì tin “thiếp ăn rồi” mà bao lần Lư vô tình thấy sau bếp Cù đã gom từng hạt cơm cho vào miệng một cách vội vàng!

Lư cương quyết:

- Nếu nàng không ăn cùng ta, ta quyết cũng không ăn. Từ nay vợ chồng no cùng no, đói cùng đói. Nàng hà tất vì ta mà chịu thiệt thòi như vậy.

Lòng Cù ngập tràn hạnh phúc vì hai tiếng “vợ chồng” của Lư. Nước mắt sung sướng rơi tự bao giờ!

Với Cù như thế đã quá đủ đầy.

Mùa thu năm sau Lư phải về đất Phong thọ tang.

Đường còn diệu vợi, cứ nóng lòng về nơi cắt rún chôn nhau. Lư định bụng qua khỏi U Lâm sẽ tìm chỗ trú đêm. Nhưng đến lưng chừng đèo thì người ngựa đều mệt. Nhìn quanh, núi rừng mù mịt. Mặt trời lại khuất đỉnh non cao, bóng chiều miền núi càng lúc càng xuống nhanh. Gió từng cơn thổi lạnh buốt xương. Quay trở lại cũng dở, mà phía trước thì bóng tối lờ mờ. Vừa lo vừa sợ, bỗng thấy thấp thoáng ánh đèn ẩn hiện sau lớp cây rừng. Lòng mừng vô hạn.

Đó là một ngôi nhà bề thế. Lư đang tần ngần trước ngõ, thì hai a đầu niềm nở đón mời:

- Chủ nhân đã chờ công tử lâu lắm rồi!

Chủ nhân mặt ngời như ngọc, mắt phụng mày ngài, dung quang thoát tục. Trong nhà, các vật dụng hết sức cầu kì, mọi thứ như bằng thất bảo, chạm trỗ tinh vi, phản chiếu dưới anh đèn, lấp lánh nhiều màu rực rỡ.

Yến tiệc được truyền, đầy rẫy sơn hào hải vị mà cả đời Lư chưa từng được nhìn qua. Chén lưu li trong vắt, rượu màu hổ phách long lanh. Nữ nhạc tưng bừng, đàn sáo du dương, áo lụa như mây dán vào những bộ da thịt nõn nà hớ hênh khêu gợi. Người nào người nấy xinh tựa hoa buổi sớm, cùng cất tiếng hát, khi bổng khi trầm. Lư ngỡ ngàng, cứ tưởng mình đang lạc vào chốn đào nguyên, hay đã nằm mơ, hồn bay về nơi nguyệt điện!

Rượu nóng người Lư mới dám nhìn rõ mặt chủ nhân. Đó là một thiếu nữ chưa quá đôi mươi, nhan sắc cực kì diễm lệ. Nàng tự xưng là Xảo Ngọc, nói nói cười cười, âm thanh trong vắt, mà êm đềm, mát dịu như gió thoảng bên tai. Âm thanh hoà theo tiếng nhạc não nùng, tan theo men rượu làm Lư chuếnh choáng, cơ hồ tiếng được tiếng không.

Nhành liễu phất phơ trước gió đưa ánh trăng thu nhảy múa trên mặt, làm chàng tỉnh giấc. Nghe mùi hương dậy ở bên mình, bèn nghiêng qua, kinh hoàng khi thấy Xảo Ngọc nằm bên, yếm đào lệch lạc; nhìn lại mình thì thấy mình trần trùi trụi. Lắp bắp nói chẳng ra lời. Xảo Ngọc tươi cười bảo:

- Vạn sự tuỳ duyên, chàng tất lo ngại.

Từ đó, ngày ngày được ngủ giường ngà cùng với mỹ nhân, ăn sơn hào, uống mỹ tửu, mũi thở thanh phong, thân tắm dương quang, mắt được tận nhìn cảnh vật muôn sắc diệu kì. Lại được người hầu một mực tôn kính; Lư quên phăng đi người vợ xấu xí và cuộc sống cùng khổ năm nào.

Được hai năm, hương lửa mỗi lúc thêm mặn nồng, thì Xảo Ngọc nói có việc phải vắng nhà vài ngày.

Một buổi sáng như thường lệ, Lư vào phòng ăn, vừa ngạc nhiên, vừa  vui mừng khi thấy Xảo Ngọc ngồi đợi tự bao giờ. Nhìn nét hoa ủ dột; Lư hỏi:

- Nàng về tự bao giờ? Đường sá xa xôi làm nàng mệt chăng?

Xảo Ngọc gượng gạo cười, không đáp; giây lâu mới hỏi lại:

- Chàng có biết ai đây chăng?

Tức thì Cù thị bước ra. Lư tái cả mặt, luống cuống một hồi mới nói được:

- Đó là ... con hầu nhà ta đó mà!

Vừa nói Lư vừa nhìn Cù trân trối, nửa như van xin, nửa như ra lệnh cho Cù phải đồng tình theo ý  của mình. Cù lặng thinh, nước mắt chứa chan.

Xảo Ngọc nghiêm sắc mặt:

- Chàng lại dám mở miệng nói những lời bạc ác đó sao? Đạo vợ chồng một đêm ân ái là bá vạn ân tình. Chàng vì bóng sắc mà quên đi người vợ xấu xí quê mùa, quên đi thời cháo rau dưa muối. Xem vợ mình là con hầu con ở, thì có đâu là tình, có đâu là nghĩa? Tiền tài chẳng qua là của tạm phù du, sắc đẹp khác gì mây nổi? Ai có của để lại ngàn đời, ai có sắc hương trăm tuổi? Cứ dựa vào vào của tiền, vào sắc hương mà sống là kẻ phàm phu. Cứ dựa những thứ đó thì sao đo được lòng chung thuỷ? Cái chơn hạnh phúc của vợ chồng mà cứ dựa vào những thứ ấy, thì làm sao được vững bền? Cù tỉ tỉ đây là người tiết hạnh khả phong, một đời khó gặp, đó mới chính là chỗ vững chắc mà chàng phải dựa về sau.

Bèn truyền cho một đãi kim ngân, rồi bảo:

- Phụ thân thiếp năm xưa thọ ân chàng mà chưa có dịp báo đền, nay thiếp vì người mà trả nghĩa. Số kim ngân nầy cũng đủ cho chảng và tỉ tỉ sống trọn kiếp giàu sang. Nên nhớ, từ nay phải chăm lo tỉ tỉ, bỏ thói phong lưu. Nếu sau nầy còn đem lòng dạ một dạ hai, thì đừng trách thiếp.

Lư không vui, nhưng không dám nói lời nào.

Xảo Ngọc tiếp:

- Chàng và thiếp hôm nay ân tròn nghĩa vẹn. Sợi dây oan trái cũng không còn. Phần còn lại là chàng và tỉ tỉ đó.

Rồi tiễn hai người một đoạn. Mặt trời rực rỡ vừng đông, chim rừng ríu rít, vạn vật tưng bừng mừng ánh nắng lên, mà lòng Lư như đeo nặng nỗi buồn. Luyến lưu cảnh cũ, bồi bồi quay lại, thì chỉ thấy cây rừng cao vợi, khí núi lạnh lùng. Kinh sợ vô cùng, vội nhanh chân bước.

Nhờ số kim ngân ấy mà Lư trở nên giàu có nhất vùng; lại nhờ bàn tay của Cù mà gia sản càng ngày càng phát huy quang đại, vàng bạc mỗi lúc mỗi đầy.

Lư lại thích giao du với phường vô lại, la cà nơi tửu điếm trà đình, má tựa vai kề với bao danh kĩ; đã quên hết những lời Xảo Ngọc, còn buộc Cù phải cưới hầu thiếp cho mình.

Tỉnh Nhi xứng là một là giai nhân, nhưng bản tính lại chanh chua ngạo mạn. Được Lư ngày đêm say đắm, nên càng dưới mắt không người. Càng ngày càng lấn lướt Cù, có khi lại lớn tiếng sai bảo như kẻ tôi đòi. Cũng vì muốn gia đạo yên vui, nên Cù dằn lòng im lặng.

Một hôm Xảo Ngọc đường đột tới, thấy Cù lam lũ sau nhà bèn lớn tiếng trách:

- Đây là những việc dành cho tỉ tỉ đó sao?

Đoạn kéo Cù vào phòng rồi tự tay chải tóc, vẽ mắt vẽ mày cho Cù, vừa bảo:

- Cũng cái bớt quỉ quái nầy mà làm cho tỉ tỉ mất cả tuổi thanh xuân. Hôm nay để muội khai tử nó cho xong.

Rồi lấy từ trong tay áo một hộp diên hương, đánh hồng vào đó. Lạ thay, mới xoa vài cái, bớt đen liền biến mất; thoa vài cái nữa thì da mặt  trắng nuột, mịn màng.

Lại lấy từ trong tay áo nào trâm vàng lượt bạc, đủ thứ bảo ngọc trân châu trang điểm cho Cù, xong  lại ngắm nhìn, rồi tươi cười  tỏ vẻ hài lòng lắm:

- Hãy xem! Giờ tỉ tỉ có đáng là đường đường mệnh phụ không nào?

Rồi truyền yến tiệc nơi đại sảnh, đặt Cù ngồi trên ghế cao, bên sau có hai nha nữ đứng hầu, phong nghi Cù giờ nào khác phu nhân! Vừa lúc Lư và Tỉnh Nhi cũng vừa đổ kiệu về. Lư kinh hoàng khi thấy Xảo Ngọc, còn Tỉnh Nhi thì nổi giận khi thầy Cù như đổi thịt thay da, lớn tiếng:

- Con xú phụ (người đàn bà xấu xí) nầy, hôm nay bày trò gì đây?

Lư hoảng, vội kéo ả ngồi xuống, Xảo Nương nổi giận, vả vào má Tỉnh nhi một phát, thét:

- Đây là chỗ cho mi ngồi đó sao? Con tiện tì tì nầy nếu không dạy nó thì không được rồi!

Tức thì trên má Tỉnh nhi hiện lên một bớt đen  bằng bàn tay. Vốn tánh hung hăng, lại dựa  vào Lư, ả định bụng vả lại, nhưng vội ôm trán: Vết đen lần lần toả nhanh như mực đổ, lan qua cả hai bàn tay xinh xắn, nuốt trọn hết  gương mặt kiều diễm ngày nào!

Mọi người kinh dị, biết Xảo Nương không phải phàm nhân. Lư  kéo ả cùng quì xuống, tha thiết:

- Nàng hãy vì ta mà tha cho nàng ấy một phen.

- Thiếp đã nói, không có sắc hương nào tồn tại mãi, sao lại quên lời? Bây giờ tỉ tỉ là chủ nhân thực thụ của gia trang nầy, thiếp không có quyền quyết định.

Cù vốn sẵn lòng vị tha, lại thấy Tỉnh Nhi lạy như tế sao, cầm lòng không đậu; bèn nói:

- Hay là hiền muội tha cho ả một phen.

Xảo Nương vẫn chưa nguôi giận, nói với Tỉnh Nhi:

- Hạng người như ngươi khó thể tin bằng lời. Hãy sám hối những việc mình làm,  Vài năm sau ta  quay lại xem bụng dạ nhà ngươi thế nào đã!

Nói rồi bước nhanh ra cửa, thoắt một cái mất dạng.

KHA TIỆM LY
khatiemly@gmail.com
READ MORE - CHỒN CÁI CÓ NGHĨA - truyện ngắn Kha Tiệm Ly

CON SÔNG QUÊ TÔI: HIẾU GIANG - Hoàng Đằng

Sông Hiếu.

Quê tôi là Đông Hà, tỉnh Quảng Trị – nơi có dòng Hiếu Giang chảy qua.

Hiếu Giang - thường gọi là sông Hiếu - bắt nguồn từ trên núi rừng Trường Sơn, nơi các đồng bào dân tộc ít người: Pa-Kô và Vân Kiều sinh sống, rồi chảy qua vùng đồng bằng, tưới mát cho ruộng vườn làng mạc của đồng bào Kinh, cuối cùng đổ ra biển Đông. Con sông là dòng kết nối Kinh -Thượng một nhà.

Sông không tự mình đổ ra biển Đông. Sông chảy khoảng 70 km thì nhập vào sông Thạch Hãn ở ngã ba Gia Độ; sông biến thành sông nhánh của sông Thạch Hãn; sông Hiếu làm nhánh vì sông Thạch Hãn có bề rộng lớn hơn và trước đây chảy qua tỉnh lỵ Quảng Trị, nơi ở của quan chức – các bậc quyền thế nhất tỉnh. Ở đời, cái gì nhỏ phải phụ thuộc vào cái cao to hơn.

Ngoài tên Hiếu Giang, ở thượng nguồn, sông mang tên Cam Lộ, nơi có huyện lỵ và có chợ phiên nổi tiếng; ở hạ nguồn, sông mang tên Điếu Ngao, một làng nằm cạnh sông ở mạn đông thành phố Đông Hà. Ngày xưa, con đường thiên lý Bắc-Nam đi ngang giữa làng này, đến mép sông, hành khách phải qua đò ngang tại bến đò Điếu; vì vậy từ “sông Đò Điếu” cũng khá thông dụng. Một con sông nhỏ mang những 4 tên; ba tên ghi dấu các địa danh dòng sông đi qua; còn tên “Hiếu Giang” thì sao? Có nguồn cho rằng sông được đặt tên như thế để ghi nhận tấm lòng của công chúa Huyền Trân đã vâng mệnh cha (Trần Nhân Tông) anh (Trần Anh Tông) vượt sông vào Nam làm vợ vua Chế Mân, nước Champa đổi lấy hai châu Ô, Lý vào năm 1306. Vào thời điểm đó, sông là biên giới giữa nước ta và nước Champa. Chính cái tên Hiếu Giang khiến, mỗi lần nhắc đến, người ta rạo rực trong lòng cái thông điệp đạo lý: dù đi đâu, ở đâu, làm gì cũng phải nghĩ về nguồn cội – nơi mình sinh ra, nơi làm điểm tựa cho mình bay cao, bay xa. Có lẽ ít tên con sông nào trên thế giới mang nội hàm có tính giáo dục đến thế. 

Ngày xưa, việc di chuyển, vận tải chủ yếu bằng đường thủy. Đường bộ không bằng phẳng, lầy lội về mùa mưa, bụi bặm về mùa nắng, khi lên đèo khi xuống dốc, qua những khu vực hoang vắng có thể gặp trộm cướp, thú dữ – nguy hiểm; phương tiện quá thô sơ, mất nhiều thời gian và nhọc xác.

Sông Hiếu là một thủy lộ địa phương quan trọng.

Cụ Trần Minh Tiết (1918 – 1990), người làng Cam Lộ Hạ, huyện Cam Lộ, một học giả uyên thâm về các vấn đề thế giới, viện sĩ viện Hàn Lâm Khoa Học Hải Ngoại nước Pháp, đã từng đưa ra đề án đào một con kênh từ sông Mê-kông cắt ngang lãnh thổ Lào đi qua Savanakhet vào sông Hiếu qua Đông Hà ra cửa Việt (Un canal dans l’isthme de Kra et un canal Mékong-Océan Pacifique par Savanakhet-Đông Hà-Cửa Việt – Nouvelles Éditions Latines, 1966, Paris). Đề án ấy nếu như được thực hiện, sông Hiếu đã trở thành một thủy lộ quốc tế. Thôi … hãy chờ tương lai, biết đâu!

Xưa kia, thủy lộ sông Hiếu đã từng nhộn nhịp. Chợ phiên Cam Lộ cứ 5 ngày họp một lần vào các ngày 03, 08, 13, 18, 23 và 28 Âm Lịch mỗi tháng; chợ phiên là nơi trao đổi hàng hóa giữa miền xuôi và miền ngược; trong những ngày ấy, thuyền buôn lên xuống không ngớt trên sông, kể cả ban đêm. Thuyền buồm nương theo chiều gió; vào những lúc lặng gió, thuyền lướt theo nhịp đẩy của các mái chèo. Để tránh mệt mỏi và buồn ngủ, các chị các o buôn đò dọc, hò hát, trêu ghẹo nhau rồi cười đùa khúc khích xé tan cái im lặng của màn đêm.  Một cô gái nào đó trên thuyền cất tiếng hò thánh thót lơ lửng giữa dòng sông:

“Eng ngồi mần chi côi bờ, nhìn ai mà con mắt ngơ ngác.

Lắng tai nghe em đây hát để liệu mà trả lời:

Cực lòng em lắm eng ơi!

Hãy tìm một nơi mô vắng vẻ cho đôi ta ngồi hàn huyên …”

Một chàng trai nào đó trên bờ thấm tình thấm ý đáp lại:

“Em cực lòng thì eng cũng khổ tâm,

Hỏi: em mà  thiệt chưa ai ngỏ ý thì cho eng bỏ mâm cau trầu …”

Nhiều trường hợp, hai bên đã đi tìm nhau theo sự thúc giục của con tim – tình yêu – rồi nên vợ nên chồng.

Hòa trong tiếng hò của thuyền buôn xuôi ngược là tiếng gỏ “lòng còng” của thuyền chài đuổi cá vào lưới, tiếng ngoắt đuôi “sộp soạp” xua ruồi nhặng của đàn trâu đã no cỏ “mẹp” tắm buổi trưa hay buổi xế chiều, tiếng “rào rào” khoát nước thi đấu vào mặt nhau của lũ trẻ trần truồng giữa các bến tắm hai bên bờ sông.

Thời ấy, dân cư còn thưa thớt, nước sông trong xanh, người ta dùng nước sông để sinh hoat: uống nước sông, nấu ăn bằng nước sông, giặt rửa bằng nước sông … Sông cung cấp tôm cá cải thiện chất lượng bữa ăn cho dân nghèo. Chỉ cần một cái rổ, bỏ ra khoảng nửa giờ sau buổi làm cỏ khoai, cỏ bắp … là có thể xúc được một mớ hến hay “chắt chắt” làm ngọt nồi canh trưa; chỉ cần cái dũi, khi nước ròng, lội xuống đẩy dọc mép sông vài vòng là kiếm được nhúm tôm, nhúm cá kho mặn để ngon cơm.

Vào mùa hè, mặt sông xao sóng khi gió Nam Lào thổi mạnh; vào mùa đông, mặt sông gợn sóng lăn tăn khi gió đông bắc rít từng luồng. Sông hiền như người mẹ. Sông chỉ hung dũ vào mùa lũ lụt. Mưa tuôn xối xả, nước chảy mạnh bào mòn đất đá trên núi đồi và hai bên bờ, cuốn cuộn  phù sa màu hồng bạc về lắng đọng tăng độ phì nhiêu cho vườn tược ruộng đồng. Dòng nước lũ còn cuốn theo các cây gỗ trốc gốc, các loại rều rác. Dân đứng hai bờ chờ vớt, kéo về làm củi đốt quanh năm. Nhiều lúc, sông cũng gây ra tai họa: phá hủy mùa màng, cuốn trôi nhà cửa, dận đuối người và vật. 

Chiến tranh bùng phát. Các chuyến đò lên về chợ phiên thưa dần, những mối tình do dòng sông đan dệt chấm dứt, thuyền chài giăng câu bủa lưới vắng đi; ngư dân lần lượt lên bờ định cư.

Sông đã trở thành chiến trường, nơi mà ai cũng có thể bị thương vong nếu rủi ro kẹt giữa hai lằn đạn.

Ban đêm sông im lìm trong không khí ngột ngạt, thỉnh thoảng, những chiếc thuyền nan của những chiến sĩ vượt sông, lướt vội, qua lại hoạt động bí mật; những tràng đạn tiểu liên bắn vu vơ trong màn đêm đen để hù dọa găm vào dòng sông – sông đau quằn quại, rên la. Sông hứng chịu những loạt lựu đạn nổ ì ầm đều đặn quanh các chân cầu để cản người nhái. Chiếc cầu bắc qua sông nối hai bờ trên quốc lộ I, không còn hình ảnh thơ mộng “chiếc cầu là nơi hò hẹn của đôi ta”. Bên giải phóng muốn phá cầu đi để cắt đứt giao thông cho tiềm lực đối phương suy giảm, bên quốc gia muốn giữ cầu lại, dựng cầu lên để kiểm soát đất giành dân. Trong chiến dịch năm 1972, bên giải phóng định dùng cầu vượt sông nhanh thì bên quốc gia giật cầu đi để cản bước. Hóa ra, người ta mặn mà với chiếc cầu chỉ vì lợi ích của phe phía mình. Cầu đã sập đi và xây lại nhiều lần. Máu bên này, máu bên kia ít nhiều đã đổ hòa vào dòng sông chảy về lòng mẹ biển Đông bao dung.

Chiến trường mỗi lúc mỗi sôi động. Sông oằn mình hứng đạn bom … xơ xác. Tàu vận tải quân sự của Mỹ lên xuống Đông Hà-Cửa Việt rầm rì, những con tàu gắn động cơ cỡ lớn xô những ngọn sóng cao vỗ vào hai bờ; đất chuồi lỡ, nước vẩn đục. Dân giảm dần dùng nước sông làm nước sinh hoạt. Những trận bom B52 rải thảm trên thượng nguồn, những trận pháo vào giữa đội hình vượt sông của quân đội bên này bên kia và những trận đánh bằng thủy lôi của bộ đội đặc công giải phóng vào tàu Mỹ. Giấy bút đâu mà ghi chép cho hết! Chỉ có một trận đánh trên sông được báo chí nhắc đi nhắc lại nhiều lần; người ta gọi đó là “trận Bạch Đằng trên sông Hiếu” để gợi nhớ lại trận Ngô Quyền tập kích quân Nam Hán năm 938 và trận Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn phá tan quân Nguyên Mông vào năm 1288 trên sông Bạch Đằng ở ngoài Bắc.

Giữa đoạn Đông Hà và ngã ba Gia Độ, để ngăn chận tàu Mỹ vận tải vũ khí đạn dược lương thực cho chiến trường, vào một đêm đầu tháng 3 năm 1968, quân giải phóng, lợi dụng màn đêm và tàu tuần tiễu của quân Mỹ vắng bóng, đã huy động lực lượng cắm cọc tre, cọc cây, giăng dây kẽm gai bùng nhùng, gài mìn và thủy lôi chận ngang sông; cùng lúc, các lực lượng vũ trang phục kích ở trên bờ sông; sáng ngày sau, như thường lệ, đoàn tàu Mỹ tiến từ cửa Việt lên Đông Hà; phát hiện có bãi cọc và bị quân giải phóng phục kích nổ súng tấn công; quân đội Mỹ huy động máy bay quần thảo, dội bom xuống dòng nước phá hủy vật cản để thông sông; cá to cá nhỏ chết nổi tấp trắng bờ; trớ trêu là người quê tôi gặp may, có dịp đi thu nhặt cá đến mấy ngày. Chiến tranh đã làm cho con người trơ lì vô cảm, hễ thấy gì lợi thì nhào vô. 

Đất nước thống nhất, hòa bình lập lại. Con sông quê tôi tưởng có cuộc sống êm đềm. Vậy mà không! Rừng đầu nguồn bị thu hẹp; người ta chặt cây vì nhu cầu xây dựng, người ta khai hoang để lập các khu kinh tế mới; vào mùa mưa, nước lũ “hỗn” hơn, xói lở đất 2 bên bờ từng mảng diện tích lớn, một số xóm làng phải thiên cư. Ai mà quên được những trận lụt 1983, 1999, 2009, 2010, nước ngập đến mái nhà; tần số lũ lụt lớn dày hơn xưa nhiều; mấy chục năm trước đó, chỉ trận lụt lớn năm 1953 là còn được nhắc đến.

Rừng đầu nguồn giảm, lượng nước ngọt giảm theo; lại thêm, các đập thủy lợi, đập thủy điện chận nguồn lại; sông bị nhiễm mặn nhiều tháng trong năm. Dân các nơi tập trung đến Đông Hà đông lên; chất thải, nước thải đổ vào dòng sông quá nhiều. Sông không còn cung cấp nước sinh hoạt nữa. Tôm cá và các nguồn thủy sản tự nhiên khác khó sống ở môi trường ô nhiễm; ngư dân đổi nghề, tất bật ngược xuôi kiếm sống trên bộ. Nước sông ô nhiễm đến nỗi dân làm giá đỗ ở 2 làng ven sông: Thanh Lương và Nghĩa An (phường Đông Thanh) bây giờ không thể ủ giá bằng nước sông như trước đây. Nước sông ô nhiễm đến nỗi các hồ nuôi tôm ở làng Điếu Ngao, làng Đông Lai, làng Lạng Phước, thành phố Đông Hà cũng thất bại – tôm chậm phát triển và chết. Cả một vùng hồ đào lên rồi bỏ không; đất lúa, đất khoai nuôi dân trở thành đất vô dụng; người ta từng lập luận: trồng lúa đất sinh lợi ít, phải nuôi tôm xuất khẩu kiếm ngoại tệ để nước mau giàu !

Nước sông có màu xanh lá cây không rõ nét, trông mà rờn rợn. Thuyền gắn động cơ lên về chợ Đông Hà ồn ào, khuấy động dòng nước. Sông chỉ dành cho thuyền chở khách và phà chở cát – hình ảnh quá khô khốc, cứng đờ. Chính con người làm mất vẻ hoang sơ và nên thơ của con sông.

Tuy nhiên, cuộc sống thay đổi không ngừng; ai mà cản được. Giờ thì con người chỉ còn có việc: phải tạo cho con sông một vẻ đẹp hiện đại. Như một phụ nữ thời nay phải thường xuyên vào thẩm mỹ viện tắm gội, nắn mũi, sửa tóc, xóa sẹo, tàn nhang, trang điểm một chút phấn son, sông muốn đẹp thì con người phải giữ sạch dòng sông; không đổ rác xuống sông, không thải nước khi chưa xử lý xuống sông; phải thiết kế xây dựng làm sao tạo cho  bờ sông vẻ mỹ quan: kè đá 2 bên bờ để chống xói lở, xây dựng các công trình dân sinh xa sông một khoảng cách hợp lý, trồng cây tạo bóng mát rồi lập vườn hoa hai bờ, biến cái cù lao giữa sông phía trên cầu thành một công viên hay một một khu ẩm thực cao cấp.

Mọi người tự giác bảo vệ môi trường để nước sông quê ta không trở qua màu đen ngòm, bốc mùi hôi nồng nặc, mặt sông không lềnh bềnh những bao nylon, bao lác, bên trong chẳng ai biết chứa những gì.

Mừng là chính quyền đã và đang ra tay. Bờ bắc sông đang được kè và  những việc còn lại hy vọng sẽ tiếp tục, nhưng khốn nỗi: một số không nhỏ người dân còn xem con sông như bãi rác hay nơi phóng uế. Thay đổi nếp nghĩ của người dân mới là chuyện khó!

Để kết thúc bài viết, mạn phép nhạc sĩ Trương Quang Lục, tác giả ca khúc Vàm Cỏ Đông, xin có lời mách, nhắn với những người xa quê để an tâm:

Ở tận xứ người em có biết? 
Quê hương ta có một dòng sông. 
Anh mãi gọi với lòng tha thiết: 
Hiếu Giang ơi hãy mãi sạch trong … 

Hoàng Đằng 
07/11/2012 
(24/9/Nhâm Thìn)

Nguồn: Hội Ái hữu trường công lập Đông Hà (TruongDongHa.Com)
READ MORE - CON SÔNG QUÊ TÔI: HIẾU GIANG - Hoàng Đằng

Huy Uyên - THEO HOÀI NỖI NHỚ



Nửa đêm đi chợt thấy mắt em buồn
dòng sông rồi cũng đứng nhìn nước chảy
tình đi lạc mà trăm năm không hề thấy
có ngày rất xưa hai ta đi tìm.

Em ơi em bao giờ em quay lại
em nghe không dù có trọn đời
rồi mai Pennsyl nỗi sầu gọi mãi
chiều Quảng Trị buồn, buồn lắm em ơi!

Trái tim hôn hoàng chiều rớt bên sông
quên đi cuộc tình lệ đã cạn nguồn
nao lòng ai nụ cười buồn da diết
sao không trao nhau trọn đời mà hết yêu thương.

Bóng hình ai mang theo hoài nào thấy
để ấm lòng những lúc nhớ về nhau
người đến, đi qua theo thời trẻ dại
một thuở quay lưng quên lối quay về.

Anh ước chi ở em nơi xa xôi
hồng môi chín dù còn nhiều cay đắng
nơi đó là sông dài biển rộng
là sóng xao, là buốt giá xa khơi .

Gọi mãi tên sao em không trả lời
xa cô đơn đổ về anh vây kín
anh hoang mê chiều đi rong sắc tím
xót cạn lòng cháy đỏ đến khôn nguôi.

Nơi rất xa em có mím môi cười
có bảng lảng sầu đưa tay vĩnh biệt ...

Huy Uyên
lesinh.lesinh@yahoo.com


READ MORE - Huy Uyên - THEO HOÀI NỖI NHỚ