Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, February 18, 2019

Chùm ảnh NÉT ĐẸP QUÊ HƯƠNG - Hồ Phú












READ MORE - Chùm ảnh NÉT ĐẸP QUÊ HƯƠNG - Hồ Phú

CHÙM THƠ " CẢM THÁN VỚI TÌNH YÊU" - Phạm Ngọc Thái




Nhậu say tỏ tình với 4 crush, cô gái đau đầu khi cả 4 người cùng đồng ý

                 TẠ TỘI TRƯỚC TÌNH YÊU

                               Tặng người nữ sinh yêu dấu của đời tôi

                                                       *
Đã xa lắm! Tình xưa bùng cháy lại
Thưở mơ màng đâu còn nữa, em ơi!
Tóc anh nay nhiều sợi bạc rồi
Em ở tận phương trời, biệt tích ...

Nhớ những đêm trăng cùng nhau dạo bước
Nụ hôn nào đang dính giọt sương đêm
Người nữ sinh ? Anh không thể quên 
Dù đã yêu bao nhiêu lần khác.

Tình đổ vỡ. Trái tim anh tan nát
Tháng năm qua, hàn vá được đâu em?
Đời trôi đi ... trăm nỗi u phiền ...
Cuộc sống phong trần. Tình nhạt nhòa, tẻ ngắt.

Có lỗi lầm không sao xóa được
Là phút giây anh gạt bỏ tình em
Ánh mắt thơ xưa tha thiết nhìn anh
Vết thương cũ xiết mãi lòng đau nhói

Em hiển hiện, người thiếu nữ dịu dàng biết mấy
Bao áng thơ ta từng viết về em
Nhìn thấy không gái ơi?
              Mảnh trăng khuyết bên thềm 
Ta thao thức gọi tên nàng trong hoang vắng

Anh quì xuống giữa không gian sâu thẳm
Tạ tội với đất trời ! Vì đã bội phản cuộc tình em ...

          11.2.2019
  
ANH ĐỨNG NHÌN THEO BÓNG CHIM CÂU

Mấy chục năm rồi ... Em ở đâu ?
Ơi, người con gái của thời yêu !
Chiều nay thành phố trong mưa lạnh
Anh đứng nhìn theo bóng chim câu

Kìa ! Dáng hình xưa lại hiện về
Gót thon bước nhẹ dưới đường quê
Gió bay mái tóc hương thơm ngát
Để cả trời xanh phải đê mê

Tiếng hát ai đưa vọng bên hồ
Đã xa năm tháng hãy còn mơ
Mắt em thăm thẳm soi làn nước
Tận đáy hồn anh cứ ngẩn ngơ

Chiều nay mà ngỡ buổi chiều nao
Vẫn đến trường em lối cổng vào
Đón cô thiếu nữ xinh xẻo ấy
Chạy đến bên anh tủm tỉm chào

Thôi thế, hết rồi ... Bé yêu ơi !
Bụi cát lầm lên phủ cuộc đời
Giá em mãi tuổi đôi mươi nhỉ 
Và anh cũng đừng vội già người

Mấy chục năm trời ... Em ở đâu ?
Anh đứng nhìn theo bóng chim câu ...

          13.2.2019
   PHẠM NGỌC THÁI
READ MORE - CHÙM THƠ " CẢM THÁN VỚI TÌNH YÊU" - Phạm Ngọc Thái

VỀ ĐỒNG HỚI QUÊ EM - Thơ Nguyễn Đại Duẫn

Tác giả Nguyễn Đại Duẫn



VỀ ĐỒNG HỚI QUÊ EM
Anh về Đồng Hới quê em
Bên dòng Nhật Lệ trôi êm hiền hòa
Mến em cái nết thật thà
Nụ cười chúm chím mặn mà nét duyên


Cùng em bãi biển triều lên
Đuổi con còng gió trăng lên chưa về


Hoa Hồng thành phố uy nghi
Đêm đêm ánh điện những vì sao xinh


Đến đây như thể quê mình
Rừng dương mê mãi rung rinh nắng hè


Cánh diều no gió bờ đê
Vi vu điệu nhạc đồng quê êm đềm


Trên dòng Nhật Lệ trăng lên
Thuyền ai thả lưới cất lên giọng hò


Điệu hò vang vọng đôi bờ
Xôn xao bến nước con đò lung linh


Quê em Đồng Hới đẹp xinh
Về đây anh muốn chúng mình quê chung


Nguyễn Đại Duẫn
Hội viên Hội VHNT Trường Sơn

READ MORE - VỀ ĐỒNG HỚI QUÊ EM - Thơ Nguyễn Đại Duẫn

TẾT NGUYÊN TIÊU - Trần Kiêm Đoàn




TẾT NGUYÊN TIÊU

Hình ảnh và nội dung tết Nguyên tiêu vẫn còn là một khái niệm tương đối xa lạ với phần đông người Việt Nam thuộc thế hệ trẻ, nhất là người Việt tại hải ngoại.

Vậy sau tết Nguyên Đán thì tết Nguyên Tiêu là gì?
Tết Nguyên Tiêu - Rằm tháng Giêng Âm lịch - là ngày lễ hội cổ truyền tại Trung Quốc và là tết Thượng Nguyên tại Việt Nam. Lễ hội trăng rằm từ giữa đêm 14 trọn ngày 15 và kéo dài cho đến nửa đêm 15 ( có trăng Rằm vằng vặc) vào tháng giêng âm lịch.

Ở Việt Nam, ngày rằm Tháng Giêng là dịp dân chúng lên chùa cúng sao giải hạn, cầu nguyện điều lành; mặc dầu tín lý nhà Phật không nói đến. Các chùa thường tụng kinh Dược Sư với sự quy tụ quần chúng Phật tử cùng tụng niệm và hồi hướng công đức để thế giới được an lành.

Lễ hội đêm trăng rằm hiện được nhiều nơi Việt Nam khôi phục truyền thống văn hóa cổ, tổ chức đêm Nguyên tiêu của Ngày Thơ Việt Nam. Cho đến nay tinh thần “Thơ Nguyên Tiêu Việt Nam” đã thành nếp sinh hoạt văn nghệ rất đẹp ở nhiều địa phương.

Đặc biệt tại Huế, tết Nguyên tiêu vẫn được duy trì và tổ chức dưới hình thức lễ hội như một ngày truyền thống đầu năm. Hầu hết các chùa đều có có mở Đàn Tràng Dược Sư để cầu an và cầu nguyện sự an vui trong năm mới.

Những năm về sau này, tết Nguyên tiêu ở Huế đã trở thành một lễ hội mang tính nghệ thuật đầy thú vị trong đại chúng. Địa điểm được chọn là núi Ngự Bình. Đêm rằm Nguyên tiêu, thường có rất nhiều người, đặc biệt là giới trẻ văn nghệ Huế, hẹn nhau lên núi Ngự Bình để uống rượu thưởng trăng trên núi Ngự Bình mà người ta thường cho rằng đây là hình ảnh mặt trăng treo trên bầu trời trong sáng và đẹp nhất trong năm. Những hình thức và tục lệ khả ái, mỹ thuật như làm thơ, ngâm thơ, vịnh thơ, bình thơ, thả thơ... cũng được nhiệt tình hưởng ứng.

Theo truyền thống Thả Thơ tại Trung Quốc trong dịp Nguyên tiêu thì phổ thông nhất là thể thơ Đường luật được sáng tác, ngâm vịnh, họa thơ, bình thơ và thả thơ. Thơ được làm ra viết trên giấy thả theo dòng nước hay là thả bay tung lên không gian qua nhiều hình thức khác nhau.

Các vị sính thơ tại Việt Nam thì thường dùng ba hình thức thơ phổ biến nhất là: Thất ngôn Bát cú, Song thất Lục bát và Lục bát. Vẫn có hình thức thơ tự do nhưng còn hiếm.

Sau đây, người viết những dòng này xin thả thơ với một bài Thất ngôn Bát cú “Con Cóc” như sau:

CÓC DẠ NGUYÊN TIÊU

Đêm trăng vằng vặc Tết Nguyên Tiêu,
Cóc nhớ Hằng Nga phải đánh liều.
Ra khỏi hang sâu trăng sáng quá,
Trở về chốn cũ bóng cô liêu.
Da cóc quản chi đời ấm lạnh,
Tâm trong chẳng ngại cảnh tiêu điều.
Cóc dạ Nguyên tiêu nhìn bốn hướng,
Thả thơ tặng bạn với thân yêu.

Tại Hoa Kỳ, California, nơi chúng tôi đang định cư trên 35 năm nay, tục lệ tết Nguyên tiêu thường được tổ chức trong các chùa theo môn phái Đại thừa Tịnh Độ mà các tăng ni chủ trì phần lớn xuất thân từ Huế.
Tết Nguyên tiêu năm nay, tôi được tham dự lễ hội tại chùa Kim Quang. Đây là một trong những ngôi chùa đầu tiên của người Việt Nam tại Mỹ được xây dựng sau 1975. Và theo truyền thống “Đông Tây đề huề” thì bất cứ lễ hội nào, dẫu quan trọng đến đâu tại các nước Âu Mỹ cũng phải tổ chức vào dịp Weekend - cuối tuần, nên “Nguyên Tiêu” năm nay là ngày Chủ Nhật, dẫu mới là ngày 13 tháng giêng Âm lịch.

Sau ba ngày hành lễ Đàn tràng Dược sư, Tết Nguyên tiêu kết thúc với một chương trình văn nghệ đặc biệt của Gia đình Phật tử Kim Quang với hơn 200 đoàn sinh tập luyện công phu từ nhiều tháng trước. Các cháu đã trình diễn khá xuất sắc, thu hút và tạo được sự hưởng ứng, cổ võ nồng nhiệt của đông đảo khán giả ngồi chật sân chùa.

Chào hội Nguyên tiêu và xin chúc mọi người tiếp tục hưởng một Năm Mới Kỷ Hợi 2019 sức khỏe và an vui.

                                     Sacramento, Nguyên tiêu 2019
                                               Trần Kiêm Đoàn

READ MORE - TẾT NGUYÊN TIÊU - Trần Kiêm Đoàn

ĐỌC BÀI THƠ “NGHIÊNG” CỦA LA THỤY - Phạm Đức Nhì



                       Nhà bình thơ Phạm Đức Nhì


ĐỌC BÀI THƠ “NGHIÊNG” CỦA LA THỤY


NGHIÊNG

Ai từng chao nghiêng
Chắt lắng hết hương mê
Chừ hoài niệm
Len lỏi ngoằn ngoèo trong ký ức
Tình xưa hẹn ước
Chông chênh rơi mất ánh trăng thề?

                                        La Thụy

Tứ thơ chỉ là một câu hỏi của tác giả “Có ai từng đang ngắm trăng, hồn bỗng chao nghiêng, hương mê lắng đọng, tình xưa hẹn ước, kỷ niệm hiện về, để cuối cùng trời đất cũng chao nghiêng, ánh trăng thề chông chênh rơi mất, chỉ còn ta với những bóng hình xưa?”

Với tôi, La Thụy làm thơ đều tay và chắc tay. Đọc một số thơ anh tôi có cảm tưởng anh “thích” lối dàn quân của Thơ Mới.. Nhưng không hiểu sao mấy bài sau này trên VNQT (Hòn Chồng, Mẹ) anh đã mạnh dạn thay đổi số chữ trong câu. Đặc biệt đến bài Nghiêng thì anh lại nổi hứng bứt phá hết những sợi dây trói buộc của thơ truyền thống và Thơ Mới.

Có lẽ khi “chao nghiêng” tâm hồn thi sĩ đang bồng bềnh chơi vơi ở một nơi xa nào đó - đủ xa để “quên hết lời em dặn dò”, ở đây là quên hết luật tắc của thơ và “rơi mất ánh trăng thề”. Nhưng chẳng phải quên như vậy lại là cái hay hay sao?

Có thể nói Nghiêng của La Thụy là bài thơ phá hết mọi lề luật - chỉ giữ lại chút vần. Vần không chỉ thoang thoảng rất vừa độ ngọt mà vị ngọt cũng khác lạ. Không phải cái ngọt bình thường của đường mía hay đường thốt nốt mà hình như là vị ngọt của mật ong nguyên chất từ chốn rừng sâu núi thẳm.

Cách ngắt dòng, dàn trận của Nghiêng, theo tôi cũng rất tuyệt, chứng tỏ tác giả đã nắm trong tay toàn quyền tự do sắp xếp, điều khiển đội quân chữ nghĩa của mình. Chữ “mê” đang lơ lửng trong không gian; “Chừ hoài niệm”“Tình xưa hẹn ước” nên đọc khe khẽ, hơi lướt qua để câu “len lỏi ngoằn ngoèo trong ký ức” được sóng đôi với câu kết “Chông chênh rơi mất ánh trăng thề”. (Cả 2 câu đều 7 chữ). Chữ “mê” đang thơ thẩn đợi chờ, thấy bóng chữ “thề” ở cuối đường, chạy bay lại như gặp người tình trong mộng. “Mê” “thề” ôm ghì chặt nhau trong niềm hạnh phúc vô biên.
Người đọc nào đọc hết bài thơ mà không lây cái niềm hạnh phúc ấy!

Một đặc điểm nữa của Nghiêng là sự cô đọng. Bài thơ chỉ có 30 chữ, nhưng để “tóm tắt” đại ý của tứ thơ tôi đã phải “gói gọn” trong 45 chữ. Sức nén của ngôn ngữ thơ trong Nghiêng thật đáng nể.
Cảm xúc từ tầng 1 (câu chữ) và tầng 2 (thế trận) - đặc biệt là tầng 2 - khá mạnh. Độc giả thật sảng khoái khi bài thơ – lúc ấy cũng là bản nhạc – đi đến giai kết hoàn toàn (cadence parfaite). Chữ “thề”, có âm vang của chữ “mê” trợ lực, trở về chủ âm hết sức ngọt ngào. Vì bài thơ quá ngắn, có cảm xúc ở tầng 3 nhưng rất nhẹ.

Tóm lại, Nghiêng là bài thơ ngắn, ngắn nhưng hoàn chỉnh. Thi ảnh đẹp, thi pháp mới lạ, Chỉ thế thôi cũng đủ làm thi sĩ nở mày, nở mặt với đứa con tinh thần của mình. Hy vọng La Thụy nhận ra thế mạnh từ thi pháp của Nghiêng để khi có tứ thơ hay, cảm xúc dạt dào sẽ cho ra đời những bài thơ bề thế hơn. Và dĩ nhiên, còn hay hơn nữa.

                                                               Phạm Đức Nhì

READ MORE - ĐỌC BÀI THƠ “NGHIÊNG” CỦA LA THỤY - Phạm Đức Nhì

BÀN VỀ BÀI BÌNH THƠ “THUYÊN NEO BẾN LẠ” CỦA ĐĂNG XUÂN XUYẾN - Châu Thạch



        Nhà bình thơ Châu Thạch


BÀN VỀ BÀI BÌNH THƠ “THUYÊN NEO BẾN LẠ”
CỦA ĐĂNG XUÂN XUYẾN

Nhân được nhà thơ Đặng Xuân Xuyến báo tin cho tôi đọc bài viết “Tưng Tưng bảy chuyện cùng…Nguyễn Đăng Hành” tôi tò mò tìm đọc thêm một vài bài của anh trên trang web dangxuanxuyen.blogspot.com. Nhờ vậy bài bình thơ “Vài suy nghĩ khi đọc Thuyền Neo Bến Lạ của Phúc Toản” đập vào mắt tôi. Cái khiến cho tôi dừng lại để đọc không phải là bài bình mà chính là bài thơ “Thuyền Neo Bến Lạ” của nhà thơ Phúc Toản. Đọc bài thơ xong, xúc cảm với bài thơ đưa tôi đọc tiếp bài bình. Xin mời thưởng bài thơ trước:


THUYỀN NEO BẾN LẠ
          (Gửi NTPT)

Lạnh lùng cơn gió chiều đông
Xô con thuyền nhỏ theo dòng về xa ...
Dây đời buộc tím nhành hoa
Ngày vui ...mà lệ ướt nhòa câu thơ ...

Thật rồi... vẫn ngỡ là mơ
Lấy chồng! Em lấy chồng! Ơ! Lấy chồng...
Gừng cay, muối mặn xát lòng
Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng...
Một luồng gió thổi sau lưng
Tân bao kỷ niệm, đoạn từng nhớ thương...
Mùa xuân phía trước dâng hương
Đằng sau lạnh buốt một phương trời buồn...

                            Tân Yên, tháng 01.2001
                                  PHÚC TOẢN

Nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã viết lời bình ngắn, trình bày lướt qua vài cảm nhận mà anh đã có khi đọc bài thơ nầy. Để bài viết không dài, Châu Thạch xin nêu những ý chính trong bài bình của Đặng Xuân Xuyến và đóng góp những ý kiến của mình như là một cuộc trò chuyện văn chương, hầu góp vui cho bạn đọc thư giản năm, mười phút mà thôi.

Trong bài bình thơ ngắn, gọn và xúc tích nhà thơ Đăng Xuân Xuyến đã nêu cảm nhận của mình  đại ý như sau:   

1 - “Tôi thích khổ thơ thứ hai, khổ thơ gây nhiều ấn tượng với tôi.
Cách chuyển nhịp từ 2/4 (tiết tấu chậm) ở câu lục: "Thật rồi... vẫn ngỡ là mơ", sang nhịp 2/3/1/2 (tiết tấu nhanh) ở câu bát: "Lấy chồng! Em lấy chồng! Ơ! Lấy chồng...", đã khéo léo đặt tâm trạng của nhân vật "tôi" cùng (lúc) rơi vào nhiều cung bậc tình cảm. Với cách ngắt nhịp đặc biệt ở câu bát như thế, nhà thơ Phúc Toản đã thành công trong việc miêu tả nội tâm của chàng trai khi được tin người yêu lấy chồng chỉ trong một câu thơ”
“Tôi nghĩ, đấy là câu thơ độc đáo, đã giúp bài thơ sáng lên.”

Phần nầy nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã nói đủ, Châu Thạch tôi chỉ xin bàn về việc vì sao nhà thơ dùng chữ “Ơ!” mà không dùng chữ “Ơi!” hay chữ “ÔI” trong câu thơ “Lấy chồng! Em lấy chồng! Ơ! Lấy chồng…” mà thôi.

Ta thử tìm nghĩa của các chữ trong tự điển:
Nghĩa của chữ ơi: “Là cảm từ, tiếng dùng để gọi một cách thân mật”
Nghĩa của chữ ôi: “Là cảm từ, tiếng thốt ra biểu lộ ý than thở”
Nghĩa của chữ ơ: Không tìm thấy nghĩa

Chữ “Ơ!” là một cảm từ hay là một tiếng tán thán không có trong tự điển  nhưng có ở ngoài đời. Theo tôi,nhà thơ Phúc Toản thật là tinh tế khi dùng chữ “Ơ!” để diển tả sự ngạc nhiên đến bất ngờ do người thân yêu đem tới mà mình chưa kịp cảm nhận nỗi đau xảy ra trong lòng, chưa đủ bình tỉnh mà than thở bằng chữ “Ơi!” hay ta thán bằng chữ “Ôi!”. Chữ “Ơ!” là một tiêng kêu ngập ngừng được thốt lên giữa chữ “Ơi!” và chữ “Ôi!”,nó diễn tả được toàn bộ và rốt ráo diễn biến rất thật xảy ra trong lòng chàng trai khi hay tin người yêu lấy chồng “Thật rồi…vẫn ngỡ là mơ”. Chàng trai không biết rõ mình đang ở giữa sự thật hay chỉ là mơ nên nhà thơ dùng chữ “Ơ!” để cho chàng trai kêu lên. Đó là một cảm từ ít dùng trong văn, nhưng lại có trong thực tế, tác giả đã dùng để lột tả được biểu cảm của con người một cách rất hay.

Xin nói thêm về tiết tấu nhanh cúa câu thơ ở nhịp 2/3/1/2 mà nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã đề cập đến.
Nhà thơ Nguyễn Bính có một câu thơ tiết tấu hơi giống chớ không phải là giống toàn bộ câu thơ nầy: “Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm”(3/3/2). Ta đặt hai câu thơ cận nhau sẽ thấy rõ sự khác biệt về tiết tấu thơ, về ý nghĩa thơ khác nhau tất cả:

Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buôm (3/3/2)
Lấy chồng! Em lấy chồng! Ơ! Lấy chồng! (2/3/1/2)

Câu thơ của Nguyễn Bính chỉ dùng để chỉ sự vật, mô tả sự nhấp nhô của cánh buồm. Ngược lại câu thơ của Phúc Toản diễn tả nội tâm. Đem hai câu thơ nầy để so sánh câu nào hay hơn câu nào thì thật là khập khiểng. Thế nhưng ta có thể thấy rõ nhà thơ Phúc Toản chỉ dùng thêm chữ “Ơ!” mà câu thơ của anh có tiết tấu na ná như Nguyễn Bính lại khác hẳn đi trong cảm xúc của ta. Câu thơ của Phúc Toản bị dừng lại đột ngột ở chữ “Ơ!”, cho thấy sự thảng thốt xảy ra trong lòng chàng trai, giống như con thuyền ngừng lại bất ngờ trong phút chốc vì sự cố nào đó, rồi lại tiếp tục lên đường, còn câu thơ của Nguyễn Bính thì ta thấy con thuyền êm ái đi về cuối phương trời.

Đặng Xuân Xuyến tiếp tục suy nghĩ về bài thơ nầy như sau:

2) “Không than vãn, kế nể, không nặng lời trách móc khi người yêu theo "thuyền neo bến lạ", nhà thơ Phúc Toản đã gói ghém tất cả sự trách giận, nỗi xót xa của chàng trai vào 2 câu thơ:

"Gừng cay, muối mặn xát lòng
Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng ..."

“Nỗi đau ấy không chỉ bào xót trái tim chàng trai mà còn làm rức buốt trái tim cô gái - người đang cử hành hôn lễ với một người đàn ông xa lạ.”

Ý kiến của Châu Thạch:
Có người cấm dùng câu thơ “Gừng cay muối mặn xát lòng” vì cho rằng cặp trai gái phải động phòng hoa chúc, thành vợ thành chồng mới được dùng câu nầy.
Hiểu như vậy thì thật là quá khắt khe.
Biểu tượng muối mặn- gừng cay là một biểu tượng kép, ghép biểu tượng muối và biểu tượng gừng thành một với ý nghĩa tượng trưng cho cho tình duyên chung thủy cùng nhau, trong đó vợ chồng là một trong những ngữ cảnh mà thôi. Ngữ cảnh là hoàn cảnh lúc hành văn. Một câu nói nhưng đặt trong ngữ cảnh khác nhau thì mang nghĩa khác nhau. Ở đây nhà thơ Phúc Toản không đặt biểu tượng kép “Gừng cay muối mặn” vào ngữ cảnh vợ chồng mà đặt vào ngữ cảnh tình yêu. Đó là quyền của tác giả mà người đọc thơ phải thẩm thâu ý nghĩa đó thì mới thấy cái hay của nó. Ngược lại nếu người đọc thơ cứ xoi mói, tìm kiếm để bắt bẻ thì không bao giờ hiểu được cái hay của nó.

Về câu thơ “Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng”.
Câu thơ trên bị điệp từ chữ “nỗi”, có người cho là không hay. Thế nhưng điệp từ dưới những cây bút lão luyện thì đó là  “biện pháp tu từ nhắc đi nhắc lại nhiều lần, có tác dụng làm tăng cường hiệu quả diễn đạt, nhấn mạnh, tạo ấn tượng, gợi liên tưởng, tăng cảm xúc cho câu thơ rất nhiều”. Hai chữ “nỗi” trong câu thơ trên là điệp từ như vậy

Cuối xùng xin đặt ra một câu hỏi rất cắc cớ. Vì sao “nỗi buồn” lại nằm chung với “nỗi mừng”? Có nghịch lý chăng?
Có người cho rằng:
“Nỗi mừng”? Người yêu vu quy lấy chồng mà mừng? cũng lạ?
Nếu ‘mừng” này ở cô gái thì “không chân thật” trong tình yêu càng rõ ràng.

Xin thưa. Câu thơ không có gì là nghịch lý. Hai người yêu nhau nhưng nàng phải đột ngột chia tay để làm “thuyền neo bến lạ” tất nhiên bên trong cuộc tình phải có một nan đề gì đó. Nửa mừng nửa vui có thể là tâm trạng thật sự của riêng chàng trai, của riêng cô gái hay có khi, của cả hai người. Đọc thơ, ta cảm nhận được nỗi éo le trong cuộc tình, ta thổn thức với sự dở khóc dở cười của nhân vật trong thơ, chứ không đọc thơ để ta làm anh chàng ngồi lê, móc cái tâm sự của thiên hạ ra mà diểu cợt. Người đọc thơ cũng là người làm thơ. Khi không hiểu một điều mà tác giả không nói hết trong thơ được thì ta phải tự hư cấu lên mà thưởng thức cái hay của nó, chớ không ngồi đó mà hỏi tại sao thế nầy, tại sao thế nọ, phải như thế nầy phải như thế nọ thì muôn đời cũng không hiểu được thơ. Đọc thơ như thế thì thà ta ngồi chợ đấu khẩu nhau thú vị hơn nhiều. Nỗi buồn xen với nỗi mừng cũng có khi là tâm trạng của chính tác giả bài thơ. Cũng có thể nhà thơ đã  đặt cảm xúc của mình lên câu thơ đó, thấy hôn nhân thì vui, nhưng thấy sự sự tan vỡ thì buồn. Cảm xúc đó có ngay trong sâu kín của lòng ta khi đọc thơ mà ta không thấy được đấy thôi.

Cuối cùng tôi xin cảm ơn cả hai nhà thơ Phúc Toản và Đặng Xuân Xuyến đã đem đến cho tôi một niềm vui thưởng thức thơ và bình thơ đầu xuân Kỷ Hợi. Cả hai đều có phong cách viết ngắn gọn mà xúc tích, truyền tải đến người đọc sự rung cảm của chính mình bằng lời thơ, lời văn có âm vọng và có cánh bay cao.

                                                               Châu Thạch

READ MORE - BÀN VỀ BÀI BÌNH THƠ “THUYÊN NEO BẾN LẠ” CỦA ĐĂNG XUÂN XUYẾN - Châu Thạch

VÀI KHÁI NIỆM VỀ VIỆC DÙNG CHỮ TRONG THƠ - Nguyên Lạc



                              Tác giả Nguyên Lạc



       VÀI KHÁI NIỆM VỀ VIỆC DÙNG CH 
                                                     TRONG THƠ
                                                        Nguyên Lạc
Lời nói đầu:
Trong bài viết CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ “NGHIÊNG” CỦA LA THỤY (http://vannghequangtri.blogspot.com/2019/02/cam-nhan-ve-bai-tho-nghieng-cua-la-thuy.html ) được nhiều độc giả đồng cảm, tôi đã bị nhà bình thơ Châu Thach- Tran Trương Văn và fans tấn công bằng "ngôn ngữ văn hóa đường phố", tôi bắt buộc phải trả lời ông, nếu không thì "thất kinh". Đây là vài lời của "văn hóa chửi, văn hóa đường phố" của ông:"Với lại những người dốt nát mà háu danh thì tự kiêu tự đại, diễn đàn có góp ý đúng cũng cho sai". (Trạn Trương Văn - Châu Thạch)
Để trả lời những "chủ quan" về phê bình của ông Châu Thạch, cũng như nói rõ tiêu chí của riêng tôi về thơ, giải thích thêm rõ về cảm nhận bài thơ "Nghiêng" của La Thụy tôi -  "người dốt nát" như ông CT đã chửi - post bài này lên các web trong và ngoài nước. Bài này đã được in trong tạp chí văn học nghệ thuật VĂN HỌC MỚI xuất bán tại California tháng nầy 2/2019. Đây là web side của VĂN HỌC MỚI ( https://vanhocmoi.com/)
Trân trng - Nguyên Lạc
***
Dẫn nhập
Bài này được viết ra với tấm lòng yêu thương tiếng Việt, yêu thương văn thơ Việt. Tác giả muốn dâng tấm tình này đến các người trẻ đồng cảm thương yêu thơ văn nước nhà. Ngôn ngữ Việt nhiều nghĩa và tuyệt vời lắm, tiếng nước ngoài (ngoại ngữ) không bì được. Có một số người vì ngộ nhận, vì "sính ngoại", muốn chứng tỏ ta đây, khoe m... nên đã rẻ rúng nó. Tôi sẽ thử bàn về cách dùng từ Việt trong thơ hầu giúp các người trẻ suy nghĩ lại, kẻo bị chao đảo bởi những nhận xét sai lầm, đánh giá thấp chữ nghĩa quê nhà.
Bài này trinh bày sơ lược những trãi nghiệm tác giả kinh qua trong quá trình học hỏi các bậc đàn anh với tấm lòng cầu tiến, bỏ qua câu "văn minh, vợ người". Các bạn trẻ hãy luôn luôn học hỏi và trau dồi , đừng tự thỏa mãn nếu muốn tiến xa. Hy vọng các bạn tìm được trong nầy vài điều hữu ích.
Cũng xin cẩn báo rõ: Đây chỉ là ý kiến chủ quan, chắc còn nhiều sai sót,  có gì xin các bậc tiền bối có tiếng tăm bỏ qua cho.- Nguyên Lạc

CÁC KHÁI NIỆM

Vài khái niệm cần thiết:
1. Theo Nguyễn Anh Khiêm (Ký Ức Sơ Sài) thì tiến trình ngôn ngữ như sau: Đủ chữ/ đủ ý: Thoại  –> đủ chữ/ nhiều ý: Văn  –> ít chữ/ nhiều ý: Thơ.
Do vậy trong thơ càng ít ch mà càng nhiều nghĩa (NÉN) thì thơ càng hay; không cần phải ầu ơ ví dầu ,”hoa lá cành” cho dài ra, làm bài thơ loãng, dễ chán.

2.  Theo tôi:  Trong văn chương, dùng ch bình thường, bình dị mà đủ nghĩa tốt hơn dùng ch hoa mỹ mà vô nghĩa, sáo rỗng. Tuyệt nhất là dùng ch bình thường mà tạo được nghĩa bất thường.
Đây là ý kiến của nhà văn Nguyễn Thị Thảo An
[...Dùng những từ đời thường đôi khi nghe ngô nghê, tưởng chừng như không thể là ngôn ngữ thơ, nó là ngôn ngữ trẻ con, của vỉa hè,... nhưng nếu biết đặt đúng vị trí nó sẽ trở thành những "viên ngọc" sáng lóng lánh, làm nổi bật ý nghĩa của câu thơ.
Ví d: "Đem thân làm gã tù lưu xứ/ Xí xóa đời ta với đất trời".  Chữ "xí xóa" là chữ của trẻ con, thế mà đặt ở câu thơ này thật tuyệt] (Nguyễn Thị Thảo An)

3. Trong văn, văn phạm phải rõ ràng và chữ thường có một nghĩa chính xác. Ngược lại trong thơ, sự chính xác văn pham đôi khi không cần thiết lắm; chữ càng nhiều nghĩa càng tốt, để người đọc suy đoán theo trãi nghiệm riêng mình. Thơ phải mở ra để độc giả dự phần vào - thơ m - thì mới hay. Xin xem thêm về điều này ở bài: "Show Do Not Tell" của tôi đã đăng trên các trang Web (1)

4.  "Thơ khác hơn văn xuôi ở chỗ đặt cơ sở trên cảm giác vâm vận, tiết điệu. Cũng thời bao nhiêu chữ, bao nhiêu câu đó, phải lựa chỗ, lựa nơi, thêm chữ nầy, bớt chữ kia, cố sắp xếp làm sao tạo được cái cảm giác bồi hồi cho người đọc. Mỗi chữ, mỗi lời phải xôn xao, nhảy múa, linh động… Từ cái tính chất xao xuyến, chơi vơi đó, nhà thơ dẫn dắt độc giả vào cõi mông lung của cảm giác, chuyện khó như nhảy xuống nước mò trăng" (Võ Kỳ Điền – Vài nét lạ trong thơ Lưu Nguyễn)

5.
-- Một bài thơ hay phải hội đủ ba yêu tố: Vần, nhạc và họa . Thơ hay là phải có vần điệu, nhạc diệu và hình ảnh (họa). Nhờ những điều này, thơ mới dễ đi vào hồn người; thiếu một trong ba thì không thể là thơ hay được
Đọc, cảm nhận thơ như "làm tình", gặp được giai nhân (thơ hay) sẽ đạt tới thống khoái. Tkhông có vần, nhạc và họa cũng giống như "bộ xương", thịt da đã mất hết, ai có thôm ấp, làm tình với bộ xương?
-- Một con đường thẳng có 2 ngả :trước, sau. Tùy theo "hệ quy chiếu" của riêng mỗi người mà đi, cho nên cái gọi là tiến bộ hay lạc hậu chỉ là cách gọi. Hệ quy chiếu của "con ếch" ngồi đáy giếng khác với hệ quy chiếu của con chim trong bầu trời xanh rộng. Bạn có quyền đi theo con đường cửa bạn, chỉ có điều quan trọng là con đường đó dẫn tới đâu và phía trước có HỐ THẲM hay không? kẻo rồi tiêu đời . Ở đời người ít hiểu biết thường tìm lý lẽ để biện minh. Không rành hoặc không làm được về vần luật thường viện cớ này cớ nọ!

6. Theo tôi, một bài thơ hay khi ta cảm thấy hình như thơ ấy viết riêng cho mình, thấy có cuộc đời riêng của mình trong đó. Thơ mở rộng cánh cửa để ta đặt cuộc đời riêng mình vào. Nó bây giờ không phải của riêng tác giả nữa, mà là của chung, hoặc nói theo cách khác, của riêng người đọc, người đồng cảm. Cùng cái HỒN THƠ đồng cảm này, người đọc có quyền nghĩ theo, dịch theo - nếu thơ tiền nhân - kinh nghiệm đặc thù riêng mình, có quyền diễn đạt theo ngôn ngữ, chữ nghĩa hiện đại riêng mình
Xin ghi ra những điều tôi tâm đắc về thơ từ Nguyễn Hưng Quốc:

"Thơ mở ra, gợi ra man mác những nỗi niềm tâm sự chung. Thơ là một cảm xúc đi tìm một đồng cảm. Thơ là tiếng nói một người nhân danh tất cả mọi người trong hoàn cảnh ấy, số phận ấy. Nhà thơ chỉ độc quyền được cho mình một cánh cửa. Sau cánh cửa kia là của mọi người.
Trên núi Kính Đình ngày xưa chỉ một mình Lý Bạch ngồi buồn hiu hắt ngắm mây bay chim bay nhưng còn nỗi cô đơn của ông, nỗi cô đơn ấy là của chung của nhân loại. Cả ngàn năm nay, mỗi khi con người lẻ loi trước thiên nhiên thì chợt nhớ lại, đọc lại "Chúng điểu cao phi tận / Cô vân độc khứ nhàn / Tương khan lưỡng bất yếm / Duy hữu Kính Đình san". Ngỡ như nỗi cô đơn và niềm bâng khuâng ấy là của riêng mình. [Nguyễn Hưng Quốc]

7. Là thơ Việt, người thơ, kể cả người bình thơ phải thủ đắc một số thơ của tiền nhân, căn bản triết lý Đông Phuơng để dùng nó khám phá những hàm ẩn, “ý tại ngôn ngoại” của bài thơ. Người thơ cũng nên học hỏi thêm để biết vài thủ pháp về thơ, biết sơ lược về cách phân tách ngôn ngữ cần thiết cho thơ, cho sự bình thơ [Nguyên Lạc: MỘT CÁCH BÌNH THƠ] (2)

8. Không có sự may rủi trong thơ hay như một thi sĩ  "có tiếng" đã nói:  -  "Đây là trường hợp sự biểu hiện của tác phẩm lớn hơn ý đtác gi. Người đọc phân tích cái hay cái đặc dị mà tác giả không hề nghĩ tới"[ thi sĩ Nguyễn Hàn Chung]
Theo tôi thì ngược lại: Người làm thơ hay cũng giống như "người đánh cờ giỏi",  "nhà quân sự tài" phải đoán trước các thế trận sẽ xảy ra:
-- Một người đánh cờ giỏi là người phải đoán trước những nước cờ mà mình phải gặp khi đặt con cờ xuống. Biết mình tại sao thắng, chứ không phải hên xui. Nếu không tiên đoán được thì là người đánh cờ dở.
-- Nhà chiến lược, quân sự tài giỏi cũng giống vậy, phải tiên đoán trước tiến quân của ta / địch, dự đoán trước các nước để giành chiến thắng, chứ không có chiến thắng nhờ may rũi. Như truyền thuyết nhà chiến lược Khổng Minh. Nếu nhờ mày rủi mà thắng thì tướng đó không phải là người tài
Câu nói: "Biểu hiện tác phẩm lớn hơn ý đồ tác giả, tác giả không biết" thì rõ ràng có "sự may rủi hên xui" rồi. Như vậy thì tác giả tài gì?

9. Xin lại được ghi ra đây những câu bàn về thơ hay mà tôi tâm đắc của ông Lê Hữu:
[... Ngôn ngữ thơ là chữ nghĩa, hình ảnh, ý tưởng … chỉ có ở trong thơ hơn là trong đời thực. Có điều, khi đọc, nghe, ta cảm thấy như là có thực, có ý nghĩa và chấp nhận được; hơn thế nữa, lại còn rung cảm vì thứ ngôn ngữ ấy. Bất kỳ cách diễn đạt nào làm cho người ta đọc ra thơ, nghe ra thơ, hiểu ra thơ muốn “nói” điều gì, đều là ngôn ngữ thơ.
Chữ nghĩa cần có sự phát minh, sáng tạo hơn là lặp lại rập khuôn người đi trước. Những vô thường, vô vi, phù vân, phù ảo, hư ảo, hư không, tà huy, miên trường… mà người làm thơ cố đưa vào bằng được trong thơ mình thường có một vẻ gì khập khiễng, gượng gạo như một kiểu tạo dáng kém tự nhiên, đôi lúc khiến câu thơ tối tăm, khó hiểu.
Thường, thơ khó hiểu thì khó hay; thơ tạo dáng thì khó tạo được cảm xúc.
-- Ý tưởng
Câu thơ đẹp thường có mang theo ý thơ đẹp. Ý tưởng mờ nhạt, có mới mà không hay, hoặc có hay mà không mới, thường kém sức hấp dẫn. Ý tưởng cần sáng tạo hơn là vay mượn.
Biệt ly dù ở ga nào,
cho tôi ngồi một toa tàu lãng quên     (Hôm nay, Nguyễn Tất Nhiên)
-- Hình ảnh
Hình ảnh tô đậm thêm những tình ý trong thơ. Ý tưởng đẹp, minh họa bằng hình ảnh đẹp, thường đọng lại về lâu về dài trong tâm tưởng người yêu thơ.
Người lên ngựa, kẻ chia bào  
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san     (Truyện Kiều, Nguyễn Du)
-- Âm điệu:Thơ, nhạc và tranh
-Thơ, nhạc và tranh nhiều lúc vượt ra ngoài biên giới của ngôn ngữ. Cái làm cho thơ “không biên giới” là ý tưởng và hình ảnh (đôi lúc chữ nghĩa) hơn là âm điệu - vần điệu, nhịp điệu hay nhạc điệu. Đọc một bài thơ hay của nước ngoài ta thấy nhiều phần cái hay là hay vý tưởng hoặc hình ảnh...]
[Lê Hữu: Thơ lục bát còn, tiếng Việt còn] [3]

10. Theo tôi: "Cảm nhận đưa tới cảm xúc -tức cảnh sinh tình- rồi cuối cùng đưa tới thơ", do đó điều quan trọng nhất ở thơ là cảm xúc - "cảm xúc thật" của lòng. Những bài thơ sắp xếp chữ do lý trí do kinh nghiệm có thể hay, nhưng chắc chắn sẽ không có HỒN, nghĩa là sẽ không tồn tại lâu trong tâm tưởng con người

 V VIỆC PHÂN TÍCH VÀ DÙNG CH*

Để minh họa những điều nói trên, chúng ta hãy xét sự dùng vài ch trong các câu thơ sau đây

Cố hương mất dấu, đoài phương ấy
Vẫn mãi trong tôi bóng nguyệt đầy!
(Nguyên Lạc tự chế để minh họa)

Tôi ở nơi này thương nhớ lắm
Xứ đoài bóng nguyệt vẫn rạng, hay?
(Nguyên Lạc tự chế để minh họa)

Trong các câu thơ này, tôi sẽ lần lượt phân tích 5 chữ: đoài, nguyệt , bóng,  đầy và chữ "hay"mà tác giả dùng với chủ ý.
-- Nhận xét đầu tiên: Trong các câu thơ trên, có "đoài" mà có cả vầng trăng (nguyệt) chứng nhân. Đoài là hướng tây (giải thích sau).Tây là từ địa dư giữa bai bờ Đai Dương. Tây còn là phương thương nh, vùng ký ức... và còn là cõi về của Nguòi - "về cõi Tây phương" khi chết.
Giờ tôi giải thích trọn nghĩa cách xử dụng các chữ trên:
-- Ch"đoài " : Trong "Hậu thiên bát quái" của Kinh Dịch, quẻ Đoài nằm vị trí hướng tây (Chấn hướng đông), các nhà Nho -  trí thức xưa ai cũng phải nằm lòng để đi thi, nên trong văn chương, nhắc tới đoài là người ta muốn nói tớiớng tây. Hướng tây là hương mặt trời lặn, tượng trưng cho buồn bã, thương nhớ, nhớ về...cũng là hướng của nước Việt Nam nếu nhìn từ Mỹ. Do đó trong câu thơ nó cũng có thể được nghĩ là phương thương nhớ, vùng ký ức, là cõi v đối với người sống ở Mỹ như  đã nhận xét trên
Đoài cũng có nghĩa đoài đoạn - "thương nhớ đoài đoạn".
Đoài ở đây có nhiều nghĩa như vậy với điều kiện:  Viết thường - danh từ chung, chứ không viết hoa -  danh từ riêng như trong bài "Đôi Mắt Người Sơn Tây" của Quang Dũng.
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
ôi mắt người Sơn Tây - Quang Dũng)
(Chữ Đoài, viết hoa danh từ riêng- ở đây chỉ nhớ người (tên Đoài) hay nhớ quê (tên Đoài) thôi)
Tôi sẽ giải thích rõ điều này sau, ở phần "Viết Hoa Hay Viết Thường"
-- Ch"nguyệt": Chữ nguyệt - viết thường, danh từ chung - tượng trưng cho trăng, chứng nhân hoặc khuông mặt, người con gái, và xa hơn nữa là khoảng trời xưa cũ, niềm nhưng nhớ.v.v...và xứ sở, quê hương. Chữ Nguyệt - viết hoa, danh từ riêng - it nghĩa hơn, chỉ là tên người con gái (Nguyệt), hoặc tượng trưng cho bóng dáng thân yêu.Có một số người ngộ nhận viết hoa thì Nguyệt mạnh nghĩa hơn, "ấn tượng" hơn; cái gì cũng muốn viết hoa vô tình làm giảm nghĩa. Như đã nói, sẽ giải thích rõ ở phần dưới
-- Ch"bóng": Ở vị trí này trong câu thơ trên, đồng nghĩa với nó là chữ "ánh" hoặc chữ "dáng". Tại sao tác giả chỉ chọn chữ "bóng"?
Lý do:
. Ch"ánh" có th là rực rỡ, vui tươi... Các câu thơ này là câu "thơ buồn", nên chọn nó thì không hợp
. Chữ "dáng": Nếu dùng chữ này - dáng nguyệt - thường được hiểu chỉ là người con gái, ít nghĩa không đúng với điều tác giả muốn nói. Lại nữa dáng là "trung tính"buồn vui không rõ, cảm xúc không hàm ẩn.
. Chữ "bóng": Đây là chữ mà tác giả nhắm vào, lựa chọn để gởi gắm tâm sự, vì nó chứa nhiều nghĩa và đầy cảm xúc. Bóng nguyệt - nguyệt viết thường - là bóng dáng người con gái, bóng dáng kỷ niệm, bóng dáng quê hương như đã giải thích trên về chữ nguyệt. Bóng thường mờ ảo, buồn. Lại nữa nó liên hệ đến "bong bóng nước", dễ vỡ nếu không cẩn trong, nâng niu. Chữ đầy cảm xúc đúng theo tác giả mong muốn
-- Ch"đầy": Ở vị trí này của câu thơ cũng có một chữ tương nghĩa là "gầy"  - nguyệt gầy - tại sao tác giả không chọn?
Giải thích:
. ch"gầy":  "Nguyệt gầy" chỉ tượng trưng cho người con gái. Ch"gầy" làm ít nghĩa câu thơ
. ch"đầy": Hợp với chữ nguyệt và tạo nhiều nghĩa hơn:  "Nguyệt đầy"nghĩa người con gái, niềm thương nhớ, chứng nhân, xứ sở, quê hương...vẫn tròn đầy, rực sáng trong tâm
Đó là lí do tác giả chọn chữ "đầy".

LIÊN HỆ THÊM VỀ NHẠC ĐIỆU, THƠ MỞ...

 Sẵn đây tôi liên h thêm về nhạc điệu, thơ mở
--  Về nhạc điệu
thử xét các câu:
Ai rồi. như áng mây trôi
Trong tôi vẫn mãi. một thời đã xa! 
(Nguyên Lạc tự chế để minh họa)
Chú ý ch "mây trôi". Gần giống với nó là chủ "mây trời"
- "mây trôi" tượng trưng cho người con gái, cuộc đời ... bị đưa đẩy trôi đi, nhưng nó vẫn còn tồn tại.
- "mây trời" nhiều nghĩa hơn: - Nó bao gồm cả mây trôi đi, nhưng cũng có thể mây tan, không còn hiện hữu nữa... Lại nữa, "mây trời" lại có nhiều màu, tùy theo tâm trạng người đọc, do đó ẩn tàng nhiều nghĩa hơn.
- Giữa hai cụm từ nầy còn có nhạc điệu: Ta chú ý thấy "mây trời"2 chữ khác thanh nên nhạc trầm bổng hơn "mây trôi" cùng thanh. Phải liên hệ đến những chữ đứng trước và sau nó , để chọn chọn chữ nào cho nhạc điệu trầm bổng.
Và cũng nên nhớ cái nghĩa của chữ so với ý, tứ bài thơ.
Ở bài này tôi chọn "mây trôi", ít nghĩa hơn, nhưng vì bóng hình người con gái chỉ xa khuất, vẫn tồn tại; trong khi "mây trời" nhiều nghĩa hơn nhưng không hợp, kể cả nhạc điệu khi liên hệ với những chữ trước sau
-- Về thơ mở:
Chữ "hay?" trong câu thơ trên tác giả để mở, mời độc giả dự phần đoán: Vẫn rạng hay hết rạng

VIẾT HOA HAY VIẾT THƯỜNG?
1.
Để minh họa về phần này, tôi xin được ghi ra đây trích đoạn từ bài viết "VIẾT HOA HAY VIẾT THƯỜNG" đã đăng trên Web

[...Hãy xét bài ca dao 
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
(Công Cha Nghĩa M)
Theo tôi, hai ch"thái sơn" phải viết thường. Thái Sơn (viết hoa) là sai.
Các bạn chắc sẽ hỏi tại sao?
Giải thích:
Vì nếu hai chữ thái sơn viết hoa, chúng ta s đem hữu hạn thế cho vô hạn! Này nhé:
- "thái sơn" (viết thường, danh từ chung) là núi rất lớn, vô hn (thái= rất bự, rt ln; sơn = núi). Còn "THÁI SƠN" (viết hoa, danh từ riêng) là mt ngn núi bên Tàu, chcao khong  1450 m (đo được, hữu hạn). Vy nếu viết hoa: THÁI SƠN thì không phi là hu hn thay cho vô hạn sao?
- Nghĩa m= "nguồn nước chy ra vô tận, không dứt", đối với "THÁI SƠN" (viết hoa: danh từ riêng ) đo được chỉ vài trăm hoặc ngàn mét. So sánh ra thì công cha như số không !  Sao BỘI BẠC VỚI CHA quá thế!
- Còn nếu viết "thái sơn" (viết thường: danh từ chung) =  lớn, bự vô hạn", công cha s gần như bằng công m.
Do điều này, ta phải dùng thái sơn danh từ chung (viết thường) . Hai câu đó tôi nghĩ như vầy
Công cha như núi, ...... thái sơn (to vô cùng)
Nghĩa mẹ như nước,.... trong nguồn chảy ra (luôn không dừng).
- Xin nói thêm: thái sơn, sơn hà (viết thường, danh từ chung) tượng trưng đất nước, tổ quốc; nếu chúng viết hoa (trở thành danh từ riêng) thì sẽ không còn nghĩa này nữa, mà thành tên ngọn núi Tàu, tên riêng vùng nào đó ...] (VIẾT HOA HAY VIẾT THƯỜNG - Nguyen Lac)

2.
Tháp dụng những điều bàn trên vào các câu thơ sau đây của nhà thơ Nguyễn X. xem sao?
Câu thơ Nguyễn X (tên hư cấu) viết như vầy:
Trưa chín HÈ, PHƯỢNG đỏ thật thương
Tiếng ve nấc nỗi niềm vương rất lạ
(Ví dụ minh họa)
Nhà thơ Nguyễn X cố tình viết chữ HÈ và PHƯỢNG hoa, chắc anh cho là nó "ấn tượng" hơn!
Theo tôi, chữ "phượng" viết thường hay hơn và nhiều nghĩa hơn. Lý do?
Giải thích:
- PHƯỢNG viết hoa  là danh t riêng chỉ chính xác một nghĩa: người con gái - tên người con gái. Viết hoa chữ PHƯỢNG, s làm nó trở thành "nội gián" phá hỏng ý bài thơ. Rõ ràng là bài thơ nói về mùa hè buồn hoa phượng nở đỏ. Nếu viết hoa PHƯỢNG thành ra cô gái PHƯỢNG  ỏ mặt" - hoa phượng mất dấu ở đây - thì cón thể thống gì nữa mà liên hệ đến ve sầu câu dưới? Chữ phượng viết thường, danh từ chung bao gồm cả hoa phượng, mùa phượng, mùa bãi trường và người con gái...
Tuong t như vậy về chữ - viết hoa - cũng khiến người ta nghĩ đến một anh chàng tên HÈ nào đó
Rất mong nhà thơ Nguyễn X, nói rộng ra các nhà thơ tr chú ý đến điều này.  Hãy mở lòng lắng nghe tha nhân góp ý, ai tự thỏa mãn sẽ bị dừng lại, hay đúng ra sẽ lùi so với sự tiến bộ của người khác

LỜI KẾT

Qua trên là những gì tôi muốn chia sẻ với các bạn trẻ. Chữ Việt chúng ta tuyệt vời lắm, đừng "ngộ nhận" nó kém so với chữ nước ngoài
Nên nhớ rằng: Trong các "nghề chơi", chơi văn chương chữ nghĩa là cao sang nhất, nh ta mới phân biệt được người thấp người cao, ai sang ai hèn, chứ không phải ở giàu nghèo.

Nghề chơi cũng lắm công phu
Làng chơi ta phải biết cho đủ điều
(Kiều - Nguyễn Du)
Chơi cho lịch mới là chơi,
Chơi cho đài các, cho người biết tay.
(Cầm Kỳ Thi Tửu - Nguyễn Công Trứ)
Đọc một bài văn, bài thơ mà giống như ăn "mì ăn liền", chỉ ăn cho no; không cần biết hương vị thơm tho của bát mì, công phu nghệ thuật của người nấu ra nó thì chỉ là "phàm phu tục tử".
Nguyên Lạc
---------------
[*] Tôi đồng ý với Trần C. Trí không dùng chữ “từ”, vì nó chính là cội rễ của tất cả những “từ” độc hại khác. Xin xem:
từ và chữ - Trần C. Trí
Ghi chú:
[1] Nguyên Lạc: BÀN VỀ THỦ PHÁP SHOW, DO NOT TELL
[2] Nguyên Lạc: MỘT CÁCH BÌNH THƠ
[3] Lê Hữu: Thơ lục bát còn, tiếng Việt còn

READ MORE - VÀI KHÁI NIỆM VỀ VIỆC DÙNG CHỮ TRONG THƠ - Nguyên Lạc