Tác giả Nguyên Lạc
VÀI
KHÁI NIỆM VỀ VIỆC DÙNG CHỮ
TRONG THƠ
TRONG THƠ
Nguyên Lạc
Lời nói đầu:
Trong bài viết CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ “NGHIÊNG”
CỦA LA THỤY (http://vannghequangtri.blogspot.com/2019/02/cam-nhan-ve-bai-tho-nghieng-cua-la-thuy.html
)
được nhiều độc giả
đồng cảm, tôi đã bị nhà bình thơ Châu Thach-
Tran Trương Văn và fans tấn
công
bằng "ngôn
ngữ văn hóa
đường phố", tôi
bắt buộc phải trả lời
ông,
nếu không
thì "thất kinh".
Đây
là vài lời của "văn hóa
chửi, văn hóa
đường phố" của ông:"Với lại những người dốt nát
mà háu danh thì tự
kiêu tự đại, diễn đàn có góp ý đúng cũng cho sai". (Trạn Trương Văn - Châu Thạch)
Để trả lời những "chủ quan" về phê
bình của ông Châu Thạch, cũng như nói rõ tiêu
chí của riêng
tôi về thơ, giải thích
thêm rõ về cảm nhận bài
thơ "Nghiêng" của
La Thụy tôi - "người dốt nát" như ông CT đã
chửi - post bài
này lên các web trong và
ngoài nước. Bài này đã được in trong tạp chí văn học nghệ thuật VĂN HỌC MỚI xuất bán
tại California tháng
nầy 2/2019. Đây
là web side của VĂN HỌC MỚI
( https://vanhocmoi.com/)
Trân trọng - Nguyên Lạc
***
Dẫn nhập
Bài này được viết ra với tấm lòng yêu thương tiếng Việt, yêu thương văn thơ Việt. Tác giả muốn dâng tấm tình này đến các người trẻ đồng cảm thương yêu thơ văn nước nhà. Ngôn ngữ Việt nhiều nghĩa và tuyệt vời lắm, tiếng nước ngoài
(ngoại ngữ) không bì được. Có một số người vì ngộ nhận, vì "sính ngoại", muốn chứng tỏ ta đây, khoe mẽ... nên đã rẻ rúng nó. Tôi sẽ thử bàn về cách dùng từ Việt trong thơ hầu giúp
các người trẻ suy nghĩ lại, kẻo bị chao đảo bởi những nhận xét
sai lầm, đánh giá thấp chữ nghĩa quê nhà.
Bài này trinh bày sơ lược những trãi nghiệm tác giả kinh qua trong quá trình học hỏi các bậc đàn anh với tấm lòng cầu tiến, bỏ qua câu "văn
minh, vợ người". Các
bạn trẻ
hãy luôn luôn học hỏi và
trau dồi , đừng tự thỏa mãn
nếu muốn tiến xa.
Hy vọng các
bạn tìm
được trong nầy vài
điều hữu ích.
Cũng xin cẩn báo rõ: Đây chỉ là ý kiến chủ quan, chắc còn nhiều sai sót, có gì xin các bậc tiền bối có tiếng tăm bỏ qua cho.- Nguyên Lạc
CÁC KHÁI NIỆM
Vài khái niệm cần thiết:
1. Theo Nguyễn Anh Khiêm (Ký Ức Sơ Sài) thì tiến trình ngôn ngữ như sau: Đủ chữ/ đủ ý: Thoại –> đủ chữ/
nhiều ý:
Văn –> ít chữ/ nhiều ý: Thơ.
Do vậy trong thơ càng ít chữ mà càng nhiều nghĩa (NÉN) thì thơ càng hay;
không cần phải ầu ơ ví
dầu ,”hoa lá
cành” cho dài ra, làm bài thơ loãng, dễ chán.
2.
Theo tôi: Trong văn chương, dùng chữ bình thường, bình dị mà đủ nghĩa tốt hơn dùng chữ hoa mỹ mà vô nghĩa, sáo rỗng. Tuyệt nhất là dùng chữ bình thường mà tạo được nghĩa bất thường.
Đây
là ý kiến của nhà văn Nguyễn Thị Thảo An
[...Dùng những từ đời thường đôi khi nghe ngô
nghê, tưởng chừng như không
thể là
ngôn ngữ thơ, nó
là ngôn ngữ trẻ con, của vỉa
hè,...
nhưng nếu biết đặt đúng
vị trí
nó sẽ trở thành
những "viên
ngọc" sáng
lóng lánh, làm nổi bật ý
nghĩa của câu
thơ.
Ví dụ: "Đem thân làm gã tù lưu xứ/ Xí xóa đời ta với đất trời".
Chữ "xí
xóa" là chữ của trẻ con, thế mà đặt ở câu thơ này thật tuyệt]
(Nguyễn Thị Thảo An)
3. Trong văn, văn phạm phải rõ ràng và chữ thường có một nghĩa chính xác. Ngược lại trong thơ, sự chính xác văn pham đôi khi không cần thiết lắm; chữ càng nhiều nghĩa càng tốt, để người đọc suy đoán theo trãi nghiệm riêng mình. Thơ phải mở ra để độc giả dự phần vào - thơ mở - thì mới hay. Xin xem thêm về điều này ở bài: "Show Do Not Tell" của tôi đã đăng trên các trang Web (1)
4.
"Thơ khác hơn văn xuôi ở chỗ đặt cơ sở trên cảm giác về âm vận, tiết điệu. Cũng thời bao nhiêu
chữ, bao nhiêu
câu đó, phải lựa chỗ, lựa
nơi, thêm chữ nầy, bớt chữ kia, cố sắp xếp làm sao tạo được cái cảm giác bồi hồi cho người đọc. Mỗi chữ, mỗi lời phải xôn
xao, nhảy múa,
linh động… Từ cái
tính chất xao xuyến, chơi
vơi đó, nhà thơ dẫn dắt độc giả vào cõi mông lung
của cảm giác,
chuyện khó
như nhảy xuống nước mò
trăng" (Võ Kỳ Điền – Vài nét lạ
trong thơ Lưu Nguyễn)
5.
-- Một bài thơ hay phải hội đủ ba yêu tố: Vần, nhạc và họa
. Thơ hay là phải
có
vần điệu, nhạc diệu và
hình ảnh (họa). Nhờ những điều này,
thơ mới dễ đi vào
hồn người; thiếu một trong ba thì không thể là thơ hay
được
Đọc,
cảm nhận thơ như "làm tình", gặp được giai nhân (thơ hay) sẽ đạt tới thống khoái. Thơ không có vần, nhạc và họa cũng giống như "bộ xương", thịt da đã mất hết, ai có thể ôm ấp, làm tình với bộ xương?
-- Một con đường thẳng có 2 ngả :trước, sau. Tùy theo "hệ quy chiếu" của riêng mỗi người mà đi, cho nên cái gọi là tiến bộ hay lạc hậu chỉ là cách gọi. Hệ quy chiếu của "con ếch" ngồi đáy giếng khác với hệ quy chiếu của con chim trong bầu trời xanh rộng. Bạn có quyền đi theo con đường cửa bạn, chỉ có điều quan trọng là con đường đó dẫn tới đâu và phía trước có HỐ THẲM hay không? kẻo rồi tiêu đời . Ở đời người ít hiểu biết thường tìm lý lẽ để biện minh. Không rành hoặc không làm được về vần luật thường viện cớ này
cớ nọ!
6. Theo tôi, một bài thơ hay khi ta cảm thấy hình như thơ ấy viết riêng cho mình, thấy có cuộc đời riêng của mình trong đó. Thơ mở rộng cánh cửa để ta đặt cuộc đời riêng mình vào. Nó
bây giờ không
phải của riêng
tác giả nữa, mà
là của chung, hoặc nói
theo cách khác, của riêng
người đọc, người đồng cảm. Cùng
cái HỒN THƠ đồng cảm này,
người đọc có
quyền nghĩ theo, dịch theo - nếu
thơ tiền nhân - kinh nghiệm đặc thù riêng mình, có quyền diễn đạt theo ngôn ngữ, chữ nghĩa hiện đại riêng mình
Xin ghi ra những điều tôi tâm đắc về thơ từ Nguyễn Hưng Quốc:
"Thơ mở
ra, gợi ra man mác những nỗi niềm tâm sự chung. Thơ là một cảm xúc đi tìm một đồng cảm. Thơ là tiếng nói một người nhân danh tất cả mọi người trong hoàn
cảnh ấy, số phận ấy.
Nhà thơ chỉ độc quyền được cho mình
một cánh
cửa. Sau cánh
cửa kia là
của mọi người.
Trên
núi Kính Đình ngày xưa chỉ
một mình Lý Bạch ngồi buồn hiu hắt ngắm mây
bay chim bay nhưng còn nỗi
cô
đơn của ông,
nỗi cô
đơn ấy là
của chung của nhân
loại. Cả ngàn
năm nay, mỗi khi con người lẻ
loi trước thiên nhiên thì chợt nhớ lại, đọc lại "Chúng
điểu cao phi tận / Cô
vân độc khứ nhàn
/ Tương khan lưỡng bất yếm /
Duy hữu Kính Đình san". Ngỡ như nỗi cô đơn và niềm bâng khuâng ấy là của riêng mình. [Nguyễn Hưng Quốc]
7. Là
thơ Việt, người thơ,
kể cả người bình thơ phải thủ đắc một số thơ của tiền nhân,
căn bản triết lý
Đông Phuơng để dùng
nó khám phá những hàm
ẩn, “ý tại ngôn ngoại” của bài thơ. Người thơ cũng nên học hỏi thêm để biết vài thủ pháp về thơ, biết sơ lược về cách phân tách
ngôn ngữ cần thiết cho thơ,
cho sự bình thơ [Nguyên Lạc: MỘT CÁCH BÌNH THƠ] (2)
8. Không có sự may rủi trong thơ hay như một thi sĩ "có
tiếng" đã
nói: -
"Đây là trường hợp sự biểu
hiện của tác phẩm
lớn hơn ý đồ tác giả. Người đọc phân tích cái hay cái đặc dị mà tác giả không hề nghĩ tới"[ thi sĩ Nguyễn Hàn Chung]
Theo tôi
thì ngược lại:
Người làm thơ hay cũng giống như "người đánh cờ giỏi",
"nhà quân sự tài" phải đoán trước các thế trận sẽ xảy ra:
-- Một người đánh cờ giỏi là người phải đoán trước những nước cờ mà mình phải gặp khi đặt con cờ xuống. Biết mình
tại sao thắng, chứ không
phải hên
xui. Nếu không
tiên đoán được thì
là người đánh
cờ dở.
-- Nhà chiến lược, quân sự tài giỏi cũng giống vậy, phải tiên đoán trước tiến quân của ta / địch, dự đoán trước các nước để giành chiến thắng, chứ không có chiến thắng nhờ may rũi. Như truyền thuyết nhà
chiến lược Khổng Minh. Nếu nhờ mày
rủi mà
thắng thì
tướng đó
không phải là
người tài
Câu nói: "Biểu hiện tác phẩm lớn hơn ý đồ tác giả, tác giả không biết" thì rõ ràng có "sự may rủi hên xui" rồi. Như vậy thì tác giả tài gì?
9. Xin lại được ghi ra đây những câu bàn về thơ hay mà tôi tâm đắc của ông Lê Hữu:
[... Ngôn ngữ thơ là chữ nghĩa, hình ảnh, ý tưởng … chỉ có ở trong thơ hơn là trong đời thực. Có điều, khi đọc, nghe, ta cảm thấy như là
có thực, có
ý nghĩa và chấp nhận được;
hơn thế nữa, lại còn rung cảm vì thứ ngôn ngữ ấy. Bất kỳ cách diễn đạt nào làm cho người ta đọc ra thơ, nghe ra thơ, hiểu ra thơ muốn “nói”
điều gì,
đều là
ngôn ngữ thơ.
Chữ nghĩa cần có sự phát minh, sáng tạo hơn là lặp lại rập khuôn người đi trước. Những vô thường, vô vi, phù vân, phù ảo, hư ảo, hư không, tà huy,
miên trường… mà
người làm
thơ cố đưa vào
bằng được trong thơ
mình
thường có
một vẻ gì
khập khiễng, gượng gạo
như một kiểu tạo dáng kém tự nhiên, đôi lúc khiến câu thơ tối tăm, khó hiểu.
Thường, thơ khó hiểu thì khó hay; thơ tạo dáng thì khó tạo được cảm xúc.
-- Ý tưởng
Câu thơ đẹp thường có
mang theo ý thơ đẹp. Ý tưởng mờ nhạt, có mới mà
không hay, hoặc có hay mà không mới, thường kém sức hấp dẫn. Ý
tưởng cần sáng tạo hơn là
vay mượn.
Biệt ly dù ở ga nào,
cho tôi ngồi một toa tàu lãng quên (Hôm nay, Nguyễn Tất Nhiên)
-- Hình ảnh
Hình ảnh tô đậm thêm những tình
ý trong thơ. Ý tưởng đẹp, minh họa bằng
hình
ảnh đẹp, thường đọng lại về lâu về dài trong tâm tưởng người yêu thơ.
Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu
quan san (Truyện Kiều, Nguyễn Du)
-- Âm điệu:Thơ, nhạc và tranh
-Thơ, nhạc và tranh nhiều lúc
vượt ra ngoài biên giới của ngôn
ngữ. Cái làm cho thơ “không biên giới” là ý tưởng và
hình ảnh (đôi lúc chữ nghĩa) hơn là
âm điệu - vần điệu, nhịp điệu hay nhạc điệu. Đọc một bài thơ hay của nước ngoài ta thấy nhiều phần cái hay là hay về ý
tưởng hoặc hình ảnh...]
[Lê Hữu: Thơ lục bát còn, tiếng Việt còn] [3]
10. Theo tôi: "Cảm nhận đưa tới cảm xúc -tức cảnh sinh tình- rồi cuối cùng đưa tới thơ", do đó điều quan trọng nhất ở
thơ là cảm xúc - "cảm xúc thật" của lòng. Những bài thơ sắp xếp chữ do lý trí do kinh nghiệm có thể hay, nhưng chắc chắn sẽ không có HỒN, nghĩa là sẽ không tồn tại lâu trong tâm tưởng con người
VỀ VIỆC PHÂN
TÍCH VÀ DÙNG CHỮ*
Để minh họa những
điều nói
trên, chúng ta hãy xét sự
dùng
vài chữ
trong các câu thơ sau đây
Cố hương mất dấu, đoài phương ấy
Vẫn mãi
trong tôi bóng nguyệt
đầy!
(Nguyên
Lạc tự chế để minh họa)
Tôi ở nơi này thương nhớ lắm
Xứ đoài
bóng nguyệt vẫn rạng,
hay?
(Nguyên
Lạc tự chế để minh họa)
Trong các câu thơ này, tôi sẽ lần lượt phân tích 5 chữ: đoài, nguyệt , bóng, đầy và
chữ "hay"mà
tác giả dùng
với chủ ý.
-- Nhận xét đầu tiên: Trong các câu thơ trên, có
"đoài" mà có cả
vầng trăng (nguyệt)
chứng nhân. Đoài là hướng tây (giải thích sau).Tây là từ địa dư giữa bai bờ Đai Dương.
Tây còn là phương thương nhớ, vùng
ký ức...
và còn là cõi về của Nguòi
- "về cõi
Tây phương" khi chết.
Giờ tôi
giải thích
trọn nghĩa
cách xử dụng các chữ trên:
-- Chữ "đoài " : Trong "Hậu thiên bát quái" của Kinh Dịch, quẻ Đoài nằm vị trí hướng tây (Chấn hướng đông), các nhà Nho - trí thức xưa ai cũng phải nằm lòng để đi thi, nên trong văn chương, nhắc tới đoài là người ta muốn nói tới hướng tây. Hướng tây là hương mặt trời lặn, tượng trưng cho buồn bã,
thương nhớ, nhớ về...cũng
là hướng của nước Việt Nam nếu nhìn
từ Mỹ. Do đó
trong câu thơ nó cũng có thể
được nghĩ
là
phương thương nhớ, vùng
ký ức, là
cõi về
đối với người sống ở Mỹ như đã nhận xét
trên
Đoài cũng có nghĩa đoài đoạn - "thương nhớ đoài đoạn".
Đoài ở đây có nhiều nghĩa như vậy với điều kiện:
Viết thường - danh từ chung, chứ không viết hoa - danh từ riêng như trong bài "Đôi Mắt Người Sơn Tây" của Quang Dũng.
Tôi
nhớ xứ Đoài
mây trắng lắm
(Đôi
mắt người Sơn Tây
- Quang Dũng)
(Chữ Đoài, viết hoa danh từ riêng- ở đây chỉ nhớ người (tên Đoài)
hay nhớ quê (tên Đoài)
thôi)
Tôi
sẽ giải thích
rõ điều này
sau, ở phần "Viết Hoa Hay Viết
Thường"
-- Chữ "nguyệt": Chữ nguyệt - viết thường, danh từ chung - tượng trưng
cho trăng, chứng nhân hoặc khuông mặt, người con gái, và xa hơn nữa là khoảng trời xưa cũ, niềm nhưng nhớ.v.v...và
xứ sở, quê
hương. Chữ Nguyệt
- viết hoa, danh từ riêng - it nghĩa hơn, chỉ là tên người con gái (Nguyệt), hoặc tượng trưng cho bóng dáng thân
yêu.Có một
số người ngộ nhận viết hoa thì
Nguyệt mạnh nghĩa hơn, "ấn tượng"
hơn; cái
gì cũng muốn viết hoa vô
tình làm giảm nghĩa. Như đã
nói, sẽ giải thích
rõ ở phần dưới
-- Chữ "bóng": Ở vị trí này trong câu thơ trên, đồng nghĩa với nó là chữ "ánh" hoặc chữ "dáng". Tại sao tác giả chỉ chọn chữ "bóng"?
Lý do:
. Chữ "ánh" có thể là rực rỡ, vui tươi... Các câu thơ này là câu "thơ buồn", nên chọn nó thì không hợp
. Chữ "dáng": Nếu dùng chữ này - dáng nguyệt - thường được hiểu chỉ
là người con gái, ít nghĩa không đúng với điều tác giả muốn nói. Lại nữa dáng là "trung tính"buồn vui không rõ, cảm xúc không hàm ẩn.
. Chữ "bóng": Đây là chữ mà tác giả nhắm vào, lựa chọn để gởi gắm tâm sự, vì nó chứa nhiều nghĩa và đầy cảm xúc. Bóng nguyệt - nguyệt viết thường - là bóng dáng người con gái, bóng dáng kỷ niệm, bóng dáng quê hương như đã giải thích trên về chữ nguyệt. Bóng thường mờ ảo, buồn. Lại nữa nó liên hệ đến "bong bóng nước", dễ vỡ nếu không cẩn trong, nâng niu. Chữ đầy cảm xúc đúng theo tác giả mong muốn
-- Chữ "đầy": Ở vị trí này của câu thơ cũng có một chữ tương nghĩa là "gầy" - nguyệt
gầy - tại sao tác giả không chọn?
Giải thích:
. chữ "gầy":
"Nguyệt gầy" chỉ tượng trưng cho người con gái.
Chữ "gầy" làm ít nghĩa câu thơ
. chữ "đầy": Hợp với chữ nguyệt và tạo nhiều nghĩa hơn: "Nguyệt đầy"nghĩa người con gái, niềm thương nhớ, chứng nhân, xứ sở, quê hương...vẫn tròn đầy, rực sáng trong tâm
Đó là lí do tác giả chọn chữ "đầy".
LIÊN HỆ THÊM
VỀ NHẠC
ĐIỆU, THƠ MỞ...
Sẵn đây tôi liên hệ thêm về nhạc điệu, thơ mở
--
Về nhạc điệu
thử xét
các câu:
Ai rồi. như áng mây trôi
Trong tôi vẫn mãi. một thời đã xa!
(Nguyên Lạc tự chế để minh họa)
Chú
ý chữ
"mây trôi". Gần giống với nó là chủ "mây trời"
- "mây trôi" tượng trưng cho người con gái, cuộc đời ... bị đưa đẩy trôi đi, nhưng nó vẫn còn tồn tại.
- "mây trời"
nhiều nghĩa hơn: - Nó bao gồm cả mây trôi đi, nhưng cũng có thể mây tan, không còn hiện hữu nữa... Lại nữa, "mây trời" lại có nhiều màu, tùy theo tâm trạng người đọc, do đó ẩn tàng nhiều nghĩa hơn.
- Giữa hai cụm từ nầy còn có nhạc điệu: Ta chú ý thấy "mây trời"2 chữ khác thanh nên nhạc trầm bổng hơn "mây trôi" cùng thanh. Phải liên hệ đến những chữ đứng
trước và sau nó , để chọn chọn chữ nào cho nhạc điệu trầm bổng.
Và cũng nên nhớ cái nghĩa của chữ so với ý, tứ bài thơ.
Ở bài
này tôi chọn "mây
trôi", ít nghĩa hơn, nhưng vì bóng hình người con gái chỉ xa khuất, vẫn tồn tại; trong khi "mây trời" nhiều nghĩa hơn nhưng không
hợp, kể cả nhạc điệu khi liên
hệ với những chữ trước sau
nó
-- Về thơ mở:
Chữ
"hay?" trong câu thơ trên tác giả để mở, mời độc giả dự phần đoán: Vẫn rạng hay hết rạng
VIẾT
HOA HAY VIẾT THƯỜNG?
1.
Để minh họa về phần này, tôi xin được ghi ra đây trích đoạn từ bài viết "VIẾT
HOA HAY VIẾT THƯỜNG" đã đăng trên Web
[...Hãy xét bài ca dao
Công
cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng
thờ mẹ kính
cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
(Công Cha Nghĩa Mẹ)
Theo tôi, hai chữ "thái
sơn" phải viết thường. Thái Sơn (viết hoa) là sai.
Các
bạn chắc sẽ hỏi tại sao?
Giải thích:
Vì
nếu hai chữ thái sơn viết hoa, chúng
ta sẽ đem hữu hạn thế cho
vô
hạn!
Này nhé:
- "thái
sơn" (viết thường, danh từ
chung)
là núi rất lớn, vô hạn (thái= rất bự, rất lớn;
sơn = núi). Còn "THÁI SƠN" (viết hoa, danh
từ riêng)
là một
ngọn
núi bên Tàu, chỉ cao
khoảng 1450 m
(đo được, hữu hạn). Vậy
nếu viết hoa: THÁI SƠN thì không
phải
là hữu
hạn
thay cho vô hạn
sao?
- Nghĩa mẹ = "nguồn nước chảy ra vô
tận, không
dứt",
đối với "THÁI SƠN"
(viết hoa:
danh từ riêng
) đo được chỉ vài trăm hoặc ngàn mét. So sánh ra thì công cha như số không ! Sao BỘI BẠC VỚI CHA quá thế!
- Còn
nếu viết
"thái sơn" (viết thường:
danh từ chung) = lớn,
bự vô
hạn",
công cha sẽ gần như bằng công mẹ.
Do điều này, ta phải dùng thái sơn danh từ chung (viết thường) . Hai câu đó tôi nghĩ như vầy
Công
cha như núi, ...... thái sơn (to vô cùng)
Nghĩa mẹ như nước,.... trong nguồn chảy ra (luôn
không dừng).
- Xin nói thêm: thái sơn, sơn hà (viết thường, danh từ chung) tượng trưng đất nước, tổ quốc; nếu chúng viết hoa (trở thành danh từ riêng) thì sẽ không còn nghĩa
này nữa, mà thành tên ngọn núi Tàu, tên riêng
vùng nào đó ...] (VIẾT HOA HAY VIẾT THƯỜNG - Nguyen Lac)
2.
Thử áp dụng những điều bàn trên vào các câu thơ
sau đây của nhà
thơ Nguyễn X. xem sao?
Câu
thơ Nguyễn X (tên hư cấu) viết như vầy:
Trưa chín HÈ, PHƯỢNG đỏ thật thương
Tiếng ve nấc nỗi niềm vương rất lạ
(Ví dụ minh họa)
Nhà thơ Nguyễn X cố tình viết chữ HÈ và PHƯỢNG hoa, chắc anh cho là nó "ấn tượng" hơn!
Theo tôi, chữ "phượng" viết thường
hay hơn và nhiều nghĩa hơn. Lý do?
Giải thích:
- PHƯỢNG viết hoa là
danh từ
riêng chỉ chính xác một nghĩa: người con gái - tên người con gái. Viết hoa chữ PHƯỢNG, sẽ làm
nó trở thành
"nội gián"
phá hỏng ý
bài thơ. Rõ ràng là bài thơ nói về
mùa
hè buồn hoa phượng nở đỏ. Nếu viết hoa PHƯỢNG thành ra cô gái PHƯỢNG "đỏ mặt" - hoa
phượng mất dấu ở đây - thì cón thể thống gì nữa mà liên hệ đến ve sầu câu dưới? Chữ phượng viết thường, danh từ chung bao gồm cả hoa phượng, mùa phượng, mùa bãi trường và người con gái...
Tuong tợ như vậy về chữ HÈ - viết hoa - cũng khiến người ta nghĩ đến một anh chàng
tên HÈ nào đó
Rất mong nhà thơ Nguyễn X, nói rộng ra các nhà thơ trẻ chú ý đến điều này. Hãy
mở lòng lắng nghe tha nhân góp ý, ai tự thỏa mãn sẽ bị dừng lại, hay đúng ra sẽ lùi so với sự tiến bộ của người khác
LỜI KẾT
Qua trên là những gì tôi muốn chia sẻ với các bạn trẻ. Chữ Việt chúng ta tuyệt vời lắm, đừng "ngộ nhận" nó kém so với chữ nước ngoài
Nên nhớ rằng: Trong các "nghề chơi", chơi văn chương chữ nghĩa là cao sang nhất, nhờ nó ta mới phân biệt được người thấp người cao, ai sang ai hèn,
chứ không phải ở giàu nghèo.
Nghề chơi cũng lắm công phu
Làng chơi ta phải biết cho đủ điều
(Kiều - Nguyễn Du)
Chơi cho lịch
mới là chơi,
Chơi cho đài các, cho người biết tay.
(Cầm Kỳ Thi Tửu
- Nguyễn Công Trứ)
Đọc một bài văn, bài thơ mà giống như ăn "mì ăn liền", chỉ ăn cho no; không cần biết hương vị thơm tho của bát mì, công phu nghệ thuật của người nấu ra nó thì chỉ là "phàm phu tục tử".
Nguyên Lạc
---------------
[*] Tôi đồng ý với Trần C. Trí không dùng chữ “từ”, vì nó chính là cội rễ của tất cả những “từ” độc hại khác.
Xin xem:
từ và
chữ - Trần C. Trí
Ghi chú:
[1] Nguyên Lạc: BÀN VỀ THỦ PHÁP SHOW, DO NOT TELL
[2] Nguyên Lạc: MỘT CÁCH BÌNH THƠ
[3] Lê Hữu: Thơ lục bát còn, tiếng Việt còn
No comments:
Post a Comment