Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Sunday, August 30, 2020

VỌNG TƯỞNG BÌNH YÊN - Thơ Đỗ Anh Tuyến



 VỌNG TƯỞNG BÌNH YÊN


Cả thế giới đang gào thét tên em

Chỉ riêng anh âm thầm và vẫy gọi

Bình yên về trào dâng trong vọng tưởng

Suốt bốn mùa em vẫn chỉ là em.

 

Cả thế giới đang khao khát yêu em

Chỉ riêng anh là lao xao nức nở

Nụ thanh xuân ngọt ngào và rực rỡ

Đêm trái mùa chẳng có một giọt sương.

 

Còn lại em giữa thế giới yêu đương

Anh hát khúc du ca quạnh quẽ

Trên chuyến đò chỉ mình anh lặng lẽ

Làm Trương Chi đưa tiếng khóc vào bờ.

 

Nàng Mị Nương vẫn vô cảm thờ ơ

Em đi lại giữa muôn trùng khói nhạt

Niềm vọng tưởng bình yên anh khao khát

Chảy vào đời những kí ức loanh quanh.

*.

ĐỖ ANH TUYẾN

 Khu Cộng Hòa, thị trấn Thanh Nê,

huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình

Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn


READ MORE - VỌNG TƯỞNG BÌNH YÊN - Thơ Đỗ Anh Tuyến

CHO SÓNG BẠC ĐẦU NHỚ THƯƠNG NHAU - Thơ Nguyễn An Bình

 


NGUYỄN AN BÌNH

 

CHO SÓNG BẠC ĐẦU NHỚ THƯƠNG NHAU


Chiều buông sợi nắng lên tiếng hát

Ngả xuống đồi tây những đóa vàng

Tìm bước chân người in trên cát

Chỉ thấy bờ hoang dấu dã tràng.


Tim tím mùa hoa rau muống biển

Yêu chi màu tím thuở xuân thì

Chân sóng vô tình làm khách lạ

Áo người bay qua cõi tà huy.


Khơi xa đèn biển trầm thiên cổ

Một kiếp phù sinh có đợi chờ

Cổ thạch chập chùng soi bóng núi

Tàn đêm còn thắp mãi tâm hư.


Chim nhạn lẻ bầy bay qua biển

Lô nhô ghềnh đá dẫu mưa ngàn

Hỏi người xa khuất tầm tay với

Neo bờ thuyền lạc bến trần gian. 


Tóc có bao giờ nguôi cơn gió

Thả trôi theo sóng tự lúc nào

Cúi hôn bờ cát buồn đến lạ

Cho sóng bạc đầu nhớ thương nhau.


*Mũi Kê Gà-Phan Thiết 27-7-20

  Sài Gòn 5-8-20

N.A.B.







 






READ MORE - CHO SÓNG BẠC ĐẦU NHỚ THƯƠNG NHAU - Thơ Nguyễn An Bình

ĐỀN KIẾP BẠC VÀ NIỀM TIN CẦU PHÚC, TRỪ TÀ, BAN CON, BAN CHỨC - Đặng Xuân Xuyến

 


ĐỀN KIẾP BẠC VÀ NIỀM TIN CẦU PHÚC, TRỪ TÀ, 

BAN CON, BAN CHỨC

 

Trong tâm thức dân gian, Hưng Đạo Đại Vương được vinh danh là đức Thánh Trần và đồng nhất Ngài với Ngọc Hoàng thượng đế, từ đó tạo nên một dòng Đạo Nội - đạo Thanh Đồng, mà đức Thánh Trần là giáo chủ.

 

 Suốt mấy trăm năm qua, Đức Thánh Trần đã thực sự có ảnh hưởng sâu đậm tới đời sống tâm linh của người dân Việt. Nhất là tín ngưỡng hầu đồng, ban ấn... ở đền Kiếp Bạc.

 

Hầu đồng là một nghi thức trong hoạt động tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Về bản chất, đây là nghi thức giao tiếp với thần linh thông qua các ông đồng, bà đồng. Người ta tin các vị thần linh có thể nhập hồn vào thân xác các ông đồng, bà đồng nhằm phán truyền, diệt trừ tà ma, chữa bệnh, ban phúc, ban lộc cho các con nhang, đệ tử. Khi thần linh nhập vào đồng thì lúc đó các ông đồng, bà đồng không còn là mình nữa mà là hiện thân của vị thần nhập vào họ. Người đứng giá hầu đồng gọi chung là Thanh Đồng, Thanh Đồng là nam giới thì được gọi là "Cậu", nữ giới được gọi là "Cô hoặc Bà đồng".

 

Ngoài việc lên đồng để giao tiếp với thần linh, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam còn tin rằng sau khi chết, linh hồn người chết vẫn còn và theo dõi cuộc sống của người thân đang sống.

 

Do đó, khi lên đồng, linh hồn của người chết có thể nhập vào Đồng Cô, Đồng Cậu để trò chuyện với thân nhân đang sống. Thông qua cuộc trò chuyện này, người sống sẽ biết được những yêu cầu của người thân đã quá cố và người sống cũng biết được vận mạng tương lai của mình.

 

Trong ngày hội, những người đàn bà mắc chứng vô sinh, hiếm muộn hoặc mắc các chứng bệnh của phụ nữ... đến Đền cúng bái. Thầy cúng sẽ dùng roi dâu đánh vào người “bệnh nhân” và “bệnh nhân” ấy lăn lộn, thậm chí lăn xuống sông, thì coi như tà ma đã được diệt trừ (xuất phát từ truyền thuyết Hưng Đạo Đại vương chém Phạm Nhan). Người ta tin rằng, với uy danh của đức Thánh Trần trừ diệt được Phạm Nhan thì mọi tà ma đều được trừ diệt.

 

Ngoài ra, trong hội đền Kiếp Bạc, nhân dân còn đến Đền mua thuốc ở Nam Tào (Dược Sơn) về uống rất là hiệu nghiệm.

 

Dân trong vùng có tục lệ đầu năm đến đền Kiếp Bạc để cầu được bình an, học hành hiển đạt, làm ăn phát tài, tránh được mọi điều xui xẻo và phổ biến nhất là việc cầu được có con nối dài hương hỏa.

 

Tục truyền, người đến cầu con khi đến Đền, phải tuân thủ: "Vào cửa cha, ra cửa mẹ" (Dưới pho tượng đồng của Đức Thánh Trần và Đức Quốc mẫu có cửa chui qua) hay xin một ít đất ở mô cao sau Đền thì thế nào cũng sẽ được thỏa nguyện. Dân gian còn tín: nhà nào "hữu sinh vô dưỡng" hoặc con sinh phạm vào giờ quan sát, thiết tỏa...  khó nuôi thì làm lễ bán khoán vào Đền. Đến năm đứa trẻ 12 tuổi thì gia đình biện lễ chuộc con về, làm như thế đứa trẻ sẽ được bình yên vô sự.

 

Theo lệ cổ, đêm 18 tháng 8 (Âm lịch), trước ngày ngày giỗ Đức Thánh Trần, chính quyền sở tại cùng với thủ từ làm lễ đóng ấn vào một tấm lụa màu vàng để đến hội ban cho khách thập phương.

 

- Ấn thứ nhất, kích thước 10cm x 10cm, khắc chữ Trần triều Hưng Đạo vương chi ấn (ấn của Hưng Đạo vương triều Trần).

 

- Ấn thứ hai, kích thước 5,5cm x 5,5cm, khắc 4 chữ Quốc pháp Đại vương (Đại vương nắm (giữ) phép nước).

 

- Ấn thứ ba, kích thước 4,3cm x 4,3cm, khắc 4 chữ Vạn Dược linh phù (Bùa thiêng Vạn Dược).

 

- Ấn thứ tư, kích thước 5,2cm x 7,8cm, khắc 6 chữ Phi thiên thần kiếm linh phù (Bùa thiêng phi thiên thần kiếm).

 

 Muốn cầu được thăng quan tiến chức thì xin ấn Triều triều Hưng Đạo vương chi ấn, hoặc Quốc pháp Đại vương; cầu được sinh con, cầu xin việc trừ tà sát quỷ, diệt giặc dã, giữa bệnh, thì xin ấn Phi thiên thần kiếm linh phù.

 

Sau khi làm lễ ban ấn, nhân dân xin ấn về treo ở nhà để gặp nhiều may mắn. 

 ***

(Trích từ VÀO CHÙA LỄ PHẬT NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT của Đặng Xuân Xuyến ; Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin 2006)

 

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

READ MORE - ĐỀN KIẾP BẠC VÀ NIỀM TIN CẦU PHÚC, TRỪ TÀ, BAN CON, BAN CHỨC - Đặng Xuân Xuyến

THÊM MỘT TƯ LIỆU CHO CUỘC HÀNH TRÌNH ĐI TÌM LĂNG MỘ VUA QUANG TRUNG - Hoàng Hương Trang


 
         Tác giả Hoàng Hương Trang


Từ trước đã có nhiều nhà nghiên cứu sử học đưa ra nhiều giả thuyết về nơi chôn cất vị anh hùng vĩ đại Nguyễn Huệ Quang Trung, nhưng chúng ta vẫn chưa tìm ra được cụ thể nơi nào là lăng tẩm của Người. Vừa rồi, nhân đọc một số tư liệu văn học xứ Thanh, tôi tình cờ bắt gặp một bài thơ lạ từ trước đến nay ít người đọc đến, chưa ai lưu tâm đến bài thơ này, nhưng lại là một bài thơ đặc biệt có nhắc đến nơi chôn cất vua Quang Trung. Tác giả bài thơ đã từng thấy linh cữu vị anh hùng áo vải cờ đào này một cách cụ thể, suy ra là chính tác giả đã từng tham dự trong đám tang này nên mới có bài thơ như thế.

Nhà thơ chính là ông Cả Triệu (1771 – 1846). Tên thật là Lê Triệu, tự Ôn Phủ, hiệu Liên Khê, sinh năm 1771 mất năm 1846, thọ 76 tuổi. Quê ở làng Liên Sơn, nay thuộc xã Hoàng Phong, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông tuy là một nhà nho không đỗ đạt, nhưng được người đời ca tụng là rất giỏi chữ nghĩa văn chương. Tài năng của ông được đánh giá qua câu nói cửa miệng của dân chúng còn lưu truyền: “Nghệ Hai Hành, Thanh Cả Triệu” (Hai Hành, tức Nguyễn Hành, cháu gọi Nguyễn Du là chú ruột). Cả Triệu có tài xuất khẩu thành thơ, ứng đối nhanh nhẹn, thơ phú cứ tuôn ra một cách tự nhiên. Nhưng ông lại rất phóng khoáng. Những bài thơ phú, ngâm vịnh, đọc xong là ông quên luôn, không bao giờ ghi chép lại. Cho đến nổi những bài thơ phú đó có khi bạn bè ông nhớ được, chép ra, và cũng tự nhiên “cho là bài của mình” ông cũng không có ý kiến gì. Ông quan niệm “Thơ làm xong là thả bốn phương, không còn là của mình nữa”. Do vậy tác phẩm của ông đã bị tiếm dụng rất nhiều. Đến nay con cháu chỉ còn tìm thấy có một tập nhan đề “Liên Khê Nam Hành tạp vịnh” gồm trên 200 bài thơ. Trong cuốn này đặc biệt có bài “Kiến Quang Trung linh cữu” (thấy linh cữu vua Quang Trung) như sau:

KIẾN QUANG TRUNG LINH CỬU

“Trấp niên sất sá tấu phong vân
Như thử anh hùng cổ hãn văn
Hàm Dã độc lưu thiên vạn cốt
Khuân sơn họa tại bách niên phần
Không hàm chỉ chỉ thiên thu hận
Cô phụ đường đường bát xích thân
Quan cảnh nhất ban thành phấn mị
Linh nhân chung cổ tiếu Doanh Tần”.

Cả Triệu Dịch thơ:

NHÌN THẤY LINH CỮU VUA QUANG TRUNG

“Bao năm thét mắng át phong vân
Đủ thấy anh hùng – bậc vĩ nhân
Hàm Dã hận vùi muôn vạn xác
Khuân Sơn phần mộ họa trăm năm
Ngậm hờn chỉ trích ngàn thu hận
Nỡ phụ đường đường tám thước thân
Quang cảnh thảy đều thành cát bụi
Khiến đời muôn thuở cợt Doanh Tần”.

                     (Hoàng Phi phiên âm và dịch)

Trong bài thơ này đã chỉ rõ địa danh nơi an táng vua Quang Trung chính là núi Khuân Sơn. Khuân Sơn theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí là một ngọn núi ở phía Nam, huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên – Ngọn núi này còn có tên là Thương Sơn có hình dáng tròn như vựa thóc. Bài thơ trên đây là một tư liệu quý giá, xin được trích đăng và đóng góp vào cuộc hành trình đi tìm lăng mộ vua Quang Trung, một bậc anh hùng vĩ nhân của dân tộc ta. Có hai địa danh quý báu về sự nghiệp của vua Quang Trung. Một là ngọn núi Bân, nơi vị anh hùng Nguyễn Huệ lên đó tế cáo trời đất, xưng Hoàng Đế Quang Trung trước khi xuất binh thần tốc Bắc tiến đánh tan 30 vạn quân Thanh xâm lược. Hai là nơi yên nghỉ cuối cùng của Người mà lâu nay vẫn chưa tìm thấy. Núi Bân là đàn Nam Giao của vua Quang Trung vẫn còn nguyên vẹn ở gần núi Ngự Bình thuộc địa phận Thừa Thiên-Huế (*). Nhưng lăng mộ thì đã không còn, hay chưa tìm thấy. Các nhà sử học và nghiên cứu Huế học cũng đã có nhiều giả thiết, nhưng riêng tôi chưa đọc thấy bài nào có nêu địa danh núi Khuân Sơn ở huyện Phong Điền. Vây nên chăng, quý vị lại mở rộng hướng truy tìm về địa danh này. May ra hồn thiêng sông núi phù hộ chúng ta sẽ tìm được nơi yên nghỉ cuối cùng của hoàng đến Quang Trung chăng? Xuân năm Tuất 2006

                                                       Hoàng Hương Trang


(*) Hiện nay tỉnh T.T. Huế đã lấy núi Bân xây dựng Quảng Trường Quang Trung.

READ MORE - THÊM MỘT TƯ LIỆU CHO CUỘC HÀNH TRÌNH ĐI TÌM LĂNG MỘ VUA QUANG TRUNG - Hoàng Hương Trang

LỜI RU MẸ, CHUYẾN ĐÒ CHIỀU THU - Thơ Nguyên Lạc





LỜI RU MẸ

"Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chầy thức đủ vừa năm"
                          (Hát ru Nam bộ)

À ơi mẹ hỡi mùa thu
Mùa thu năm đó biệt mù con đi
Đem theo tàn mộng xuân thì
Bao năm chờ đợi... còn gì nữa đâu?!

Ngày về trông trước nhìn sau
Tìm đâu bóng mẹ? ... "Trên đầu mây bay"
Bao năm "cải tạo" đủ dài
Đủ cho mắt mẹ khóc ai hóa mù!

À ơi con hỡi mùa thu
Những lời ru mẹ nghìn thu vẫn còn
Bao năm mẹ đã ru con
Giờ con ru lại... lời buồn mẹ ru

À ơi con hỡi mùa thu
À ơi mẹ hỡi... Tìm đâu bóng hình?!


CHUYẾN ĐÒ CHIỀU THU

1.
"Chiều nay lòng sông rộng
Nắng đang khám nội soi" *
Tìm ra một căn bệnh
Bể dâu... nỗi đoạn đoài!

Trong ký ức phôi phai
Giăng giăng trời mây trắng
Bến xưa chiều nghiêng nắng
Sóng vỗ hồn mênh mang

Nhấp nhô chiếc đò ngang
Khách ra đi tìm mộng
Thẫn thờ người ở lại
Lặng lẽ bến vời trông

2.
Bao mùa tiếng thu không
Thầm lặng lòng mong ngóng
Phai tàn theo năm tháng
Người có biết hay không?

Chiều thu đi tìm mộng
Khách hẹn mùa xuân sang
Xuân thu người mắt đợi
Nhân ảnh chiếc đò ngang

3.
Khách trở về mắt lạ
Đâu phải người năm xưa
Kiêu hảnh khách ngẩng mặt
Từ chối nhìn quen xưa

Khách giờ trông lạ lẫm
Ngôn lời không như xưa
Quên mất chiều thu ấy
Chuyến đò ai tiễn đưa

4.
Hai mươi năm đủ chưa?
Cho một cuộc đợi chờ
Hẹn ước nào đã hứa
Thành hiện thực hay chưa?

Bến xưa chiều nghiêng nắng
Mây trắng vầng khăn tang
Sóng vỗ lời cay đắng
Gặp lại chi... phũ phàng!

.......

* thơ Thanh Van Pham

                     Nguyên Lạc

READ MORE - LỜI RU MẸ, CHUYẾN ĐÒ CHIỀU THU - Thơ Nguyên Lạc