Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Tuesday, September 7, 2010

XUÂN ĐỨC - Giới thiệu tập thơ CHIÊM BÁI QUÊ NHÀ của TRẦN BÌNH



TRẦN BÌNH - THAO THIẾT MỘT HỒN QUÊ


Hẳn nhiều người còn nhớ câu hát trong một ca khúc nổi tiếng thời chống Mỹ trên đất Quảng Trị "Tiếng trống trận từ Gio An vọng tới.." Gio An, một mảnh làng nhỏ âm thầm của miền tây Gio Linh-Quảng Trị, nơi có hệ thống giếng cổ là di tích văn hoá rất đặc sắc ghi dấu một thời phồn thịnh của người Chăm ở đất này. Trong lòng đồi đất đỏ ba-zan, những mạch nước ngầm trong ngần và trường cửu cứ lặng lẽ chảy ra, người dân địa phương gọi là nước mội. Nhiều thế kỷ trước, người Chăm đã biết xếp đá khoanh lại thành giếng quanh mội để lấy nước sinh hoạt và cấy lúa. Các nhà khảo cổ học gọi đó là những công trình thuỷ lợi "dẫn thuỷ nhập điền". Ở những mội nước đó có một loại rau cũng rất đặc biệt, nó chỉ sống được với khe nước trong veo chảy ra, chỉ cần vẩy chút bùn lên là rau sẽ chết. Đúng là rau sạch tuyệt đối. Rau ấy có tên là rau Liệt, hay còn gọi là xa-lách-xông...Trần Bình, tác giả tập thơ nhỏ này sinh ra, lớn lên và hiện vẫn đang sống lặng lẽ trong lòng mảnh làng ấy.


Sở dĩ tôi nói lan man về giếng nước mội và giống cây rau Liệt trước khi bàn đến tập thơ bạn có trong tay, bởi nếu ai đó quen biết Trần Bình rồi. đọc thơ anh hẳn sẽ có cùng nhận xét với tôi, anh là hiện thân của cọng rau thuần khiết đó, tâm hồn anh được nuôi dưỡng bằng chính dòng nước trong veo và cũng rất thuần khiết của đất Gio An. Con người sống trên đời và sống trong thơ, ai cũng có nỗi buồn, niềm vui, ai cũng không thể thoát ra khỏi vòng thế tục, cũng nhớ nhung, dằn vật, trở trăn, thậm chí cả giận hờn uất ức...Nhưng tất cả các cung bậc cảm xúc đó đối vơí Trần Bình đều rất tinh khiết và chân chất.


Nơi chốn người đi qua nhớ nhung

Ta đau tình ấy những mùa trăng

Ngọt trong nguồn cội dòng tinh khiết

Ta tắm lời yêu nguyện đá vàng..

(Ta về giếng cổ thăm người cũ)


Bình làm thơ cũng đã lâu nhưng rất ít khi gửi thơ đăng báo nên ít người biết được anh đã có đến hàng trăm bài thơ. Cũng như hầu hết những người làm thơ khác, cảm xúc đầu tiên, cảm xúc sâu nặng nhất là tình yếu ngỡ như vô hạn đối với mảnh đất đã nuôi dưỡng nên mình. Vùng đất đỏ Gio An của Trần Bình không chỉ âm thầm trong vắt mạch nước hàng trăm năm chắt ra các giếng cổ, mà đã từng có một thời đất rung, cây đổ, vòm trời mù mịt khói bom, và máu đổ đầm đìa nhuộm sẫm thêm màu đất đỏ. Tuổi thơ Trần Bình lớn lên giữa những năm tháng bi hùng đó. Bởi vậy mà bạn đọc sẽ chẳng hề ngạc nhiên khi những dòng thơ viết về quê hương, không có nhiều cái chất hương đồng cỏ nội, cây đa bến nước nên thơ như rất nhiều trang viết ban đầu của các thi nhân khác. Đổi lại, quê hương trên trang thơ anh thật da diết, thật nặng sâu, nhiều lúc còn thao thiết đến nghẹn lòng.Mẹ sinh tôi ra giữa làng.


Năm bom đạn

Quê tôi thành làng trắng

Ngày khói lửa theo mẹ đi sơ tán

Tuổi thơ lưu lạc, xa nhà..

(Làng ơi )


Cũng có cánh cò trên rẻo làng quê, nhưng cánh cò trong thơ Trần Bình nhoi nhói một nỗi đau của tấm lòng đứa con đất nghèo tự thấy nặng tội với mẹ vì chưa làm nên được gì để tròn đạo hiếu.


Để rồi khi con bĩu môi thả một ánh nhìn lạ lẫm

Vào cái mặt trăng nhăn nheo đồng quê

Vào câu hát ru, mẹ à ơi bến bãi

Cánh cò, cánh vạc chao chiều

Buốt lòng trái đắng cò ơi..

(Cò ơi thao thiết)


Cũng có cây đa, nhưng cây đa trên quê của Bình là chứng nhân của máu và hương hồn người liệt sĩ bị kẻ thù găm đạn đến nát thịt xương. Người liệt sĩ ấy đã trở thành Thành Hoàng của làng Gio Bình. Cây đa ấy cũng là liệt sĩ, cũng vảng vất hồn vía nơi đây để chứng tích cho một thời bom lửa:


Hết chiến tranh chúng tôi tìm về

Cây đa chứng tích giờ thành thiên cổ

Trồng lại một cây đa lá đỏ

Đồng đội ơi, thương nhớ tháng năm dài..

(Cây đa và đồng đội)


Cũng có giếng nước, có mái đình, có cả ánh nắng chiều, đêm trăng thanh và bãi cỏ mịn...Tóm lại, trong thơ Trần Bình có tất thảy những gì được gọi là hồn quê. Nhưng tất cả đều day dứt, nặng trĩu và thao thiết. Ngay cả những bài thơ chỉ mang tính thù tạc, chạm chén rượu với bạn bè nơi đất khách quê người thì cái men nồng vẫn không đủ nguôi ngoai nỗi trở trăn hồn quê, đôi lúc còn xen cả sự mặc cảm, hay chút giỗi hờn của một tâm hồn đầy mặc cảm:


Vô tư đi. Cứ vào nam mà sống...

Chả nhẽ rời quê- muôn kiếp mặn mòi

Chả nhẽ vì mẹ cha nghèo cực

Mà ta mơ thành kẻ mồ côi?

( Đồng hương)


Là nói vậy, nhưng cũng không hoàn toàn chỉ có vậy. Hồn quê trong thơ Trần Bình không phải chỉ có sự dằn vật, ưu tư. Cuộc sống của chàng thi sĩ chân quê này không chỉ có những đêm thao thức.Vẫn còn đó những mùa trăng rời rợi sắc tình, vẫn có đêm đi hội Sim ngất ngây khúc hát ghẹo, vẫn có nhịp trống rộn ràng lễ hội Khe Me và tiếng đàn Ta-Lư réo rắt len lỏi vào trong từng giấc ngủ. Bởi lẽ giản đơn là, dài hơn những năm tháng máu lửa quặn đau là những mạch nước ngọt ngào trường cửu, sâu hơn nỗi ưu tư trăn trở vì cuộc sống mưu sinh và sự thiệt thòi bản thân một con người cụ thể là lòng đất đỏ quê hương ấm áp nghĩa tình. Và trên tất cả cõi riêng của một đời người cụ thể là khí chất của con người Quảng Trị gan góc,lạc quan. Vì vậy mọi cay đắng rồi sẽ qua, men đời cứ say trong từng câu hát. Cái chất ấy làm nên màu xanh của khung trời Quảng Trị, màu xanh thuần khiết của cọng rau liệt quê anh. Tôi thích bài lục bát này bởi nó rất Trần Bình, rất là trai Quảng Trị:


KHÚC TƠ TÌNH HỘI SIM

Rủ nhau lên bản mà chơi

Mà nghiêng câu hát lý lơi đêm tình

Sơn nữ ơi! Ta đi tìm

Đằm trong mắt suối cái nhìn lúng la

Bập bùng ngọn lửa kiêu sa

Ngực trần phô với núng na nói cười

Từng đôi,bên suối từng đôi...

chén yêu say khướt nghiêng trời tình nhân

Phập phồng đồi núi trăng ngân

Chung chiêng trắng một đêm xanh

hội tàn


Cuộc sống đang từng ngày đổi thay trên đất Gio An cũng như trên tất cả những mảnh làng khác của đất nước. Thơ Trần Bình cũng vậy. Tập thơ mỏng đầu tay này chỉ mới như là những lô đất vừa vỡ hoang. Chúng ta rất tin và có đầy đủ cơ sở để tin vào một hồn thơ đang lặng lẽ làm mùa trên vùng đất âm thầm mà sâu nặng, bên những mạch nước ngàn đời trong vắt đã nuôi những cánh rau thuần khiết nên xanh


Trúc Sơn Trang, Đông Hà, 9/12/2009

Xuân Đức

Nguồn: tiengdantalu.vnweblogs.com

READ MORE - XUÂN ĐỨC - Giới thiệu tập thơ CHIÊM BÁI QUÊ NHÀ của TRẦN BÌNH

MINH TỨ - MÂY TRẮNG BAY TRÊN ĐỈNH TRƯỜNG SƠN



Ảnh từ trang www.varchi.com


Bút ký


"Trường Sơn đông nắng tây mưa

Ai chưa đến đó như chưa rõ mình."

Câu thơ của nhà thơ Tố Hữu viết thời chiến tranh mà bây giờ đọc lại vẫn thấy xốn xang kỳ lạ. Với Trường Sơn, chúng tôi cứ đi đi, về về với các bản làng đồng bào dân tộc Vân Kiều, Pa Cô, và mỗi lần như thế luôn thắp lên ước vọng về một cuộc đổi đời cho miền tây gian lao nhưng anh dũng kiên cường.

Chắc có lẽ nhiều người chưa quên chuyện ông Kbo, nhà dân tộc học người Hunggari hồi những năm tám mươi của thế kỷ hai mươi đã đến với vùng đồng bào dân tộc miền tây Quảng Trị. Quá say mê với phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc Vân Kiều, Pa Cô Hướng Hóa nên ông quyết định làm nhà sàn ở lại nghiên cứu dân tộc học, để rồi vợ ông phải thân chinh qua Việt Nam nhờ Đại sứ quán tìm tung tích.

Ngày trở về, chia tay với bản làng và những người dân miền tây hào hiệp, mến khách, khi được các lãnh đạo huyện hỏi: "Qua thời gian thâm nhập thực tế dài như thế, theo ông làm thế nào để miền núi tiến kịp miền xuôi?", ông Kbo nói rằng: "Tôi không phải là kinh tế gia, cũng không phải là chính trị gia mà chỉ là một nhà dân tộc học, nhưng nếu được phép nói thì theo tôi phải có một con đường". Con đường mà ông đề cập ở đây là yếu tố để chuyển tải nền văn minh, có con đường là có tất cả.

Lời ông Kbo nói vậy ai cũng thấy được bởi có sống với miền tây hồi ấy mới thấy việc dịch chuyển đi lại ở miền núi khó khăn đến mức nào. Chuyện cũ có thật, có lần huyện gửi công văn mời cán bộ xã ra huyện họp, công văn gửi đi mười ngày sau mới đến đến được xã thì cuộc họp đã diễn ra cách đó lâu lắm rồi. Mà có nhận được sớm hơn thì ở vùng sâu Hướng Hóa, Đakrông phải cơm đùm, cơm vắt lội bộ bao nhiêu dặm đường rừng ra đến huyện mất hơn ba ngày đường, cả đi lẫn về mất một tuần chỉ để họp có một ngày.

Còn sản phẩm hàng hóa của dân làm ra thì khỏi phải nói, một quả dứa nặng một ký ở Abung, Ango, Đakrông bán 500 đồng cũng chẳng ai mua bởi không ai có thể gánh gồng trèo đèo, lội suối ra được đến chợ thị trấn để bán. Có khi đến mùa thu hoạch bà con phải bỏ đi sản phẩm mà biết bao công sức của mình đã đổ ra.

Nhắc lại một vài chuyện cũ như thế để thấy rằng đầu thế kỷ hai mươi mốt khi nhà nước mở con đường Trường Sơn thời công nghiệp hóa đã mở ra "con đường tương lai giàu có của Tổ quốc ta". Một thuận lợi là đường Trường Sơn từ miền tây Quảng Bình qua Quảng Trị có hai nhánh đi song song theo Trường Sơn Đông và Trường Sơn Tây với điểm gặp gỡ là cầu Đakrông theo đường 14 chạy dài vào Thừa Thiên- Huế có tổng chiều dài 180 km. Và, như thế những vùng núi đồi hàng ngàn năm u tịch ở miền tây của các huyện Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ, Đakrông và Hướng Hóa được đánh thức.

Cách đây mươi năm về trước, để đến được Sen Bụt, Cù Bai, chúng tôi phải đi xe ba cầu băng qua hàng chục cây số đường rừng hiểm trở, quanh năm vắng bóng con người, còn bây giờ dọc đường vào đã thấy thấp thoáng những điểm dịch vụ của dân từ Khe Sanh, Lao Bảo vào bán hàng nhan nhản khắp bản làng. Con đường khai mở đến đâu là có sự giao thương đến đó. Dọc đường lên Cù Bai chúng tôi phóng xe chạy băng băng trên con đường thảm nhựa, tha hồ ngắm nhìn những cánh rừng nguyên sinh miên man với đủ loại cây đẹp đến mê hồn.

Đã nhiều lần lên với Trường Sơn nhưng lần này tôi mới có dịp cảm nhận đầy đủ hơn vẻ đẹp của những cánh rừng. Khi nắng xuân lan tỏa xua tan màn sương mỏng buổi sớm mai, cũng là lúc tiếng chim hót líu lo chào buổi sáng vang động tạo nên một bản đại hợp xướng của rừng. Thi thoảng trên đường bắt gặp những chú sóc nhảy ngang qua đường. Thú vị hơn cả là khi đoàn chúng tôi bắt gặp đôi gà lôi lam mào trắng trên đường đi Cù Bai với bộ lông thật sặc sỡ, loài gà được ghi trong sách đỏ và còn rất ít ở Việt Nam.

Một thành viên đi trong đoàn chúng tôi tỏ ý lo ngại cho những cánh rừng nguyên sinh quý giá này liệu có được gìn giữ, bảo tồn nếu không có kế hoạch bảo vệ ngay từ bây giờ. Đường Trường Sơn đâu chỉ là con đường chiến lược phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng mà còn là con đường của du lịch sinh thái rất hấp dẫn.

Anh bạn ở Văn phòng Huyện ủy Hướng Hóa cùng đi nói với tôi rằng hãy chờ đêm xuống ở nơi này mới thấy hết cảnh đẹp của miền tây. Quả thật ở tây Trường Sơn đêm xuống trời se lạnh, sương giăng giăng cả triền núi. Mùa này cà phê bắt đầu nở hoa trắng cả những quả đồi bạt ngàn. Có thể nói nếu như đất Hướng Hóa rất phù hợp cho việc phát triển trồng cà phê thì Hướng Phùng là nơi có tập trung với diện tích cà phê khá lớn với hơn 1500 ha. Nguồn lợi từ trang trại, nương rẫy cà phê mang lại không chỉ cuốn hút người dân miền xuôi lên đây lập nghiệp mà còn làm cho bà con dân tộc Vân Kiều bấy lâu nay chỉ quen với tập quán canh tác lạc hậu: phát, đốt, cốt, trỉa cũng chuyển sang làm cà phê với kỹ thuật canh tác mới. Đã có 80% hộ đồng bào dân tộc Vân Kiều ở Hướng Phùng có vườn cà phê chè từ 2-3 ha.

Trong khi nhiều người trồng cà phê trong cả nước phải lao đao thì cà phê chè ở Hướng Hóa vẫn được giá. Sản phẩm chế biến của Công ty cà phê- dịch vụ đường 9, Công ty hồ tiêu Tân Lâm, Công ty chế biến cà phê Thái Hoà vẫn có thị trường tiêu thụ tốt không chỉ ở Tây Âu mà còn xuất sang cả Mỹ. Chỉ có điều còn phân vân của bà con nông dân hôm chúng tôi dừng lại ở Hướng Phùng là cách tổ chức thu mua của các công ty chế biến chưa tốt, nên gây ra cảnh nông dân bị ép giá. Giá sụt một tí là người trồng cà phê chết đứng bởi công chí phí đầu tư chăm sóc cho cây cà phê rất lớn.

Mà thôi, chuyện cây cà phê thì nói bao nhiêu cho hết, trong khi chuyện đồng bào các dân tộc miền tây sống trên đất đai màu mở, bạt ngàn mà phải chịu cảnh đói nghèo là chuyện đáng bàn. Cũng cần phải nói rằng Nhà nước đã đầu tư nhiều cơ sở vất chất hạ tầng để cải thiện đời sống cho đồng bào các dân tộc, nhưng nhìn chung cuộc sống của bà con vẫn chưa khá lên được. Những năm trước đây hầu như năm nào cũng vậy, cứ vào cử này lên miền tây là nghe chuyện đồng bào dân tộc thiếu đói. Cái đói của đồng bào dân tộc được hiểu là thiếu gạo ăn, phải ăn ngô, ăn sắn thay cơm. Đó là cái đói triền miên chưa dứt được bởi tập tục canh tác lạc hậu: phát, đốt, cốt, trỉa; là diện tích lúa rẫy, ruộng nước còn quá ít, chưa được tích cực khai hoang để canh tác; là cái sự thiếu căn cơ tự thân của đồng bào khi làm được chừng nào lương thực đều dốc vào ghè rượu uống suốt mùa ăn mừng lúa mới.

May mà mấy năm trở lại đây có nhà máy chế biến tinh bột sắn ra đời, người dân trồng sắn bán được giá nên đời sống có nhiều cải thiện. Tôi đã gặp trên dọc hành trình Trường Sơn những nhân tố điển hình. Đó là những ông chủ trang trại đã làm chủ được cái nương, cái rẫy của mình, như Hồ Cài ở bản Trằm, xã Hướng Tân, Hướng Hóa có trang trại cà phê với diện tích 5 ha, mỗi năm thu hơn 70 tấn cà phê, cùng với cơ sở chế biến và các nghề phụ khác mỗi năm thu nhập lên đến hàng trăm triệu đồng. Tôi đã gặp Pảtahơn ở xã Thanh, người du kích gan dạ năm xưa trở thành ông chủ giàu có nhờ rẫy sắn, vườn ươm cà phê thu nhập hàng năm lên đến hàng chục triệu đồng, là hình mẫu cho nhiều người làm theo...

Nhưng với miền tây hiện nay, trước hết dân trí là một nhân tố hết sức quan trọng. Đã qua rồi cái thời nhận thức lạc hậu của bà con dân bản rằng con cái chỉ cần biết cái nương, cái rẫy. Hôm chúng tôi rẻ lại Abung, Ango, hai xã biên giới vùng sâu, vùng xa thuộc huyện Đakrông, kiến nghị đầu tiên của Hồ Liên, chủ tịch xã Ango và Ađeng Thiếu, chủ tịch xã Abung là mong muốn tỉnh, huyện quan tâm mở thêm trường lớp cho con em học lên bậc học cao hơn tại cụm Tà Rụt, vì hiện nay ở địa phương mới chỉ có mới có lớp nhô. Còn Hồ Thị Lý, Chủ tịch Hội phụ nữ xã Hướng Phùng, Hướng Hóa thì nói với tôi rằng chị muốn được học lên thêm nữa mặc dù chị đã từng được đào tạo để làm cô giáo, bởi theo chị không có tri thức thì không làm được cán bộ tốt.

Khát vọng đó càng được nhân lên khi Hồ Thị Ân, ở bản Saly, Hướng Lập thổ lộ cùng tôi: "Mình lấy chồng sớm nên thấy tiếc cái thời trẻ không chịu học, bây giờ muốn học lên thì không có điều kiện". Tôi chia sẻ với suy nghĩ của Ân, bởi mới 28 tuổi đầu Ân đã có ba con nhỏ. Ân cho biết đã kiên quyết kế hoạch hóa để có điều kiện chăm sóc con cái và sắp tới có điều kiện đi học thêm cho có tri thức để về xã làm việc tốt hơn.

Khi con đường nối hai phía Trường Sơn, dự phóng về miền tây phát triển đang hiển hiện từng ngày. Và hôm nay dọc theo con đường Trường Sơn huyền thoại, khi lên thăm cột mốc biên giới R16 ở cửa khẩu quốc gia La Lay trong một buổi trưa mây trắng bay lãng đãng qua dọc triền núi, đứng ở cột mốc, nơi có độ cao hơn 500 m so với mặt biển, cảm giác sóng mũi cứ cay cay. Bất chợt tôi lại nghĩ đến lòng dân miền tây, nghĩ đến những người lính biên phòng, những thầy cô giáo đang cắm bản dọc khắp nẻo Trường Sơn mà tôi từng gặp. Có các anh các chị, có lòng dân miền tây, biên giới luôn trường tồn, cho những áng mây trắng như buổi trưa này cứ mãi bình thản bay qua trên đỉnh Trường Sơn hùng vĩ nắng lắm mưa nhiều.

Minh Tứ

Nguồn: vn.360plus.yahoo.com/minhtuqtri

READ MORE - MINH TỨ - MÂY TRẮNG BAY TRÊN ĐỈNH TRƯỜNG SƠN