HÒA THƯỢNG THÍCH
THIỆN TRÍ
DẠ SĨ THIỆN TRÍ
(1907-2000)
Hòa Thượng THÍCH THIỆN TRÍ pháp danh Thượng Tâm Hạ
Thái, pháp hiệu Thiện Trí, tự Hoà Khương, bút hiệu Dạ Sỹ Thiện Trí, thế danh
Nguyễn Diệu, sinh năm Đinh Mùi (1907) tại làng Văn Quỹ, xã Hải Tân, huyện Hải
Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân phụ Ngài là cụ ông họ Nguyễn, húy Hồng Ân, tự Tế Mỹ,
hiệu Huyền Hưng, nguyên quán làng Đạo Đầu, xã Triệu Trung, huyện Triệu Phong;
thân mẫu là cụ bà Trần Thị Ngạch, pháp danh Hồng Liên, tự An Thành. Suốt thời
niên thiếu, Ngài sống với gia đình bên ngoại ở làng Văn Quỹ.
Năm Khải Định thứ 4 (Kỷ Mùi -1919) lúc 12 tuổi, Ngài xuất gia đầu sư với HT Thích Phước Hậu,
trụ trì chùa Linh Quang Huế. Năm 27 tuổi (1932 - Bảo Đại năm thứ 7), Ngài thọ
Tỳ Kheo. Năm 75 tuổi, Ngài được Giáo Hội suy tôn lên ngôi vị Hòa Thượng, tọa
chủ chùa Hiếu Quang, Giáo Phẩm Chứng Minh, Giáo Hội Phật Gíao tỉnh Thừa Thiên Huế.
Ngoài kiến thức Phật
học, Ngài còn tinh tường về các thể thơ, đối, liễn, nghi lễ và là một soạn giả
ca Huế.
Trong cuốn Phật Học Thiển Đàm của Hòa Thượng Thiện Trí được nhà
chí sĩ Phan Bội Châu đề thơ kính tặng :
Ai vào bể khổ vớt quần sinh
Ức vạn Như Lai một quyển kinh
Lời cạn ý sâu là Phật lý
Khơi đèn Bát Nhã diệt vô minh.
Ngài viên tịch tại Chùa
Hiếu Quang ngày 13/02/2000 nhằm ngày 9 tháng 1 năm Canh Thìn.
Nhân mùa Vu Lan, đệ tử
Lê Đăng Mành, pháp danh Nguyên Mỹ, kính xin Hòa Thượng Trụ Trì và Chư Tăng Chùa Hiếu Quang cho
phép đệ tử được trích một vài tác phẩm văn, thơ, xướng
họa của Hòa Thượng Khai Sơn Chùa Hiếu Quang nhằm giới thiệu với hàng đệ tử ở
quê nội Đạo Đầu, quê ngoại Văn Quỹ và đệ tử đôi miền Ô Lâu của
Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế biết Ân Sư của mình là bậc CAO TĂNG THẠC ĐỨC.
Lê Đăng Mành
VĂN, THƠ, XƯỚNG HỌA
CỦA HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN TRÍ
CỦA HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN TRÍ
NHỚ MẸ !
Kính lạy hương hồn Mẹ !
Cũng lời thân phụ con nói: Ông ngoại là một nhà nho, người làng
Văn Quỹ Xã Hải Tân, tư cách thuần thành nên được cử làm chủ tự ở Chùa Làng (không
có sư). Ngoại thấy Mẹ có khiếu lanh sáng nên đã dạy cho Mẹ một bài về ý nghĩa
niệm Phật bằng thể thơ lục bát (không hiểu tác giả là ai).
Những đêm trăng sáng, những lúc vỗ về con, thay vì lời ca tiếng
hát thường tình, Mẹ ẳm con ngâm nga và hát lên những vần thơ ấy. Mẹ đã truyền
cảm, con đã nhập thần và cuộc đời con ngày hôm nay được tiến đạo nghiêm thân là
nhờ công ơn của Mẹ.
Hôm nay con nhớ Mẹ, con
xin chép ra đây những âm hưởng còn đọng lại ở cõi lòng con để vỗ về, răn nhắc
như khi con đang còn trong vòng tay Mẹ.
Mẹ thường ca :
Niệm Phật có bốn thần linh
Thường thường ủng hộ ẩn hình thấy mô
Niệm Phật tội nghiệp tiêu khô
Như sương tan nắng như hồ nước trong
Niệm Phật để dặn tâm lòng
Đừng còn tráo trở mắc vòng gian nan
Niêm Phật cực lạc thanh hoan
Ta bà khổ não giàu sang mấy hồi
Niệm Phật muôn việc phủi rồi
Chớ nên tham luyến luân hồi khổ thân
Niệm Phật thì phải ân cần
Thức khuya dậy sớm tay lần hạt châu
Niệm Phật ngay thảo làm đầu
Ơn sâu cũng trả nghĩa sâu cũng đền
Niệm Phật thọ mạng tăng diên
Phật VÔ LƯỢNG THỌ ta liền khác chi
Niệm Phật giữ dạ từ bi
Tham lam nguyện bỏ sân si nguyện chừa
Niệm Phật dầu kẻ không ưa
Ác nhiều thiện ít từ xưa đến chừ
Niêm Phật sen nở đợi chờ
Hoa nào người nấy sờ sờ chẳng sai.
Kính lạy hương hồn MẸ !
Con thiếu phước nên chỉ được 12 năm sống và ủ ấp trong bóng Mẹ
hiền, nhưng với thời gian ngắn ngủi nầy, con đã làm cho Mẹ đau đớn khổ sở vô
vàn vì nghiệp chướng kỳ quái của con. Con ăn năn đau xót khi hồi tưởng lại công
ơn của Mẹ, con chẳng biết làm gì hơn, chỉ
nhất tâm tinh tấn hành đạo, nguyện cầu Cha Mẹ, sanh sanh dữ Phật vi quyến
thuộc, thế thế bồ đề kết thiện duyên, thì con sẽ được gặp Mẹ trong Thường Tịch
Quang Độ, hằng thường bất biến vậy.
Con của Mẹ
Tỷ Kheo Thiện Trí
GỞI BÁNH CÚNG ÔN ĐÔN HẬU
Tỏ lòng luyến mộ kính lời thăm
Chúc nguyện tôn nhan ánh nguyệt rằm
Bánh ngọt,chút tình vui đạo vị
Mong người nạp thọ chứng thành tâm
Dạ sĩ Thiện Trí
Sư Bà Thể Quán kính họa :
Lâu lâu cũng muốn đến hầu thăm
Nghiệt nổi ba mươi với sáng rằm
Tập chúng hai thời lo thuyết giới
Chỉ mong thông cảm mối chân tâm.
BÀI THƠ CA NGỢI HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ QUANG
BÀI THƠ CA NGỢI HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ QUANG
Hòa thượng Trí Quang, pháp danh TÂM CAN đã tuyệt thực 100 ngày
để phản đối phong trào ly khai Phật giáo vào năm 1966. Hòa thượng Thiện Trí đã
có bài thơ ca ngợi Hòa thượng Trí Quang như sau:
Tâm Như thiết thạch trí như gương
Can đảm trung kiên thật lạ thường
Tuyệt thực trăm ngày vì Đạo pháp
Hy sinh mấy độ dẹp ma vương
Thế gian tài sánh trang hào kiệt
Tôn giáo đức tày bậc đống lương
Danh lợi uy quyền xem thảo giới
Thanh cao tu sĩ chí hiên ngang.
Dạ
sĩ Thiện Trí
NGHỀ CHƠI CHỮ
Cái nghề chơi chữ cũng hay hay!
Lao động mà thơ lụn tháng ngày
Thảo luận văn từ quên mõi miệng
Điểm tô nghệ thuật chẳng rời tay
Cãi nhau vài nét la khan cổ
Thích ý đôi câu sướng chững mày !
Thú vị như mình đâu dễ có !
Cứ vui hoài kẻ trả người vay.
Dạ Sĩ
Thiện Trí
NGÀY XUÂN
Đệ tử Lê Chí Cấp (Câu Nhi, Hải Tân) kính dâng Thầy.
Con đến thăm Thầy một sớm xuân
Với tâm hoan hỷ niệm ân cần
Cầu xin Phật Tổ ban hồng phúc
Mừng đặng tôn sư rưới đặc ân
Hoa thắm bừng khai hòa nắng ấm
Lòng thành trổi dậy giọt đàn ngân…
Xuân về dịp tết con mừng thấy
Sắc thái siêu phàm đấng thượng nhân./.
HỌA VẦN NGÀY XUÂN của Lê Chí Cấp
Thăm chùa lễ Phật buổi đầu xuân
Hiểu đạo tìm vui, đạo vị cần
Thiện chí đã từng nghe chánh pháp
Thành tâm hẳn đặng gội từ ân
Trau giồi cội phúc sây mầm tốt
Lặng lóng chuông thiền dội tiếng ngân…
Sảng khoái tâm hồn khi hội ngộ
Chung tình đạo sĩ với thời nhân.
Dạ Sĩ Thiện Trí
BÀI XƯỚNG:
CỦI QUẾ GẠO CHÂU
Thấy đời thêm chạnh mối từ bi
Củi quế gạo châu quá lạ kỳ !
Nắm bổi so tày cây nguyệt điện
Hạt cơm sánh với ngọc Ma ni
Lạnh lùng thế sự khôn đành vậy
No ấm sanh linh biết lấy gì
Tế độ hằng mong nhờ cửa Phật
Chuyển thay thời vận hết suy vi.
Dạ Sĩ Thiện Trí
BÀI HỌA:
NỒI DA XÁO THỊT
Ai gây chinh chiến lắm thương bi
Xáo thịt nồi da nghĩa quá kỳ
Xót cảnh đồng bào ngoài phía nớ
Chạnh tình huynh đệ ở bên ni
Đuổi hùm cửa trước không suy tính
Rước sói đằng sau đã ích gì ?
Bôi mặt gà nhà chi há nỡ
Nhiễu điều phủ giá nhớ hành vi.
Nguyễn Văn Bình
(Văn
Quỹ, Hải Tân)
Kính họa vần.
Cả 2 bài đã đăng trên Liên Hoa Nguyệt San năm 1966 (Bính Ngọ)
THƠ KHẮC BIA ĐÁ TẠI CẦU NGÓI THANH TOÀN, HUẾ
Ngõa kiều thanh thủy lưu kim cổ
Trần Thị* công đức hiển lịch niên
Ân tứ sắc phong tồn sử sách
Thiên thu bất hủ phổ tương truyền
Dạ Sĩ
Thiện Trí
Việt dịch:
Nước trong cầu ngói bắc xưa nay
Công đức bà Trần tuôn tháng ngày
Phong sắc vua ban ghi sử sách
Thiên thu bất hủ mãi còn đây.
(nguồn Lê Quang
Tư)
*Năm 1776 Bà Trần Thị Đạo phát tâm xây dựng cầu, được vua Khải Định phong thần DỰC BẢO TRUNG HƯNG LINH PHÒ
và lập bàn thờ Bà ngay trên cầu.
BỮA ĂN CHIỀU
Cháo một bát kèm thêm vài quả chuối
Đỡ dạ dày không nghĩ chuyện ăn ngon
Sống đơn sơ là thấy khỏe tâm hồn
Khỏi nặng bụng bởi mùi đời lộn xộn
Không cao lương chẳng bận phiền cung đốn
Không ngon mồm khỏi vướng nợ sinh linh
Đặng thanh tâm cho tuệ mạng trưởng thành
Dễ tiêu hoá những nỗi niềm tham vọng
Ăn mà sống chuyện ăn nào quan trọng
Sống vị tha đâu phải sống mà ăn
Hoá cho nên khoái khẩu vốn không cần
Không thị dục là thân không hệ luỵ
Dạ Sĩ Thiện Trí