VÒNG KÝ ỨC THÁNG BA
Hải bặm môi, trở mình. Mấy hôm nay trở trời, nằm trên giường nệm, anh vẫn
thấy ê ẩm cả người. Vết thương ngày nào, giờ, tái phát. Nhưng anh gắng gượng.
Anh phải cố sức để vẽ cho xong bức tranh về đồng đội anh ngày nào, về một thời
đã ám ảnh anh trong từng hơi thở, trong từng mảng màu, nét cọ mà anh thao thức.
Anh khó nhọc chống cùi ngồi dậy. Miệng khô khốc. Anh nuốt nước bọt. Chỉ
có sự rát đau ở họng. Anh đưa miệng ngậm chiếc ống nhựa, hút nước ở ly.
Uống nước xong, anh lại định thần, gắng hít thở thật mạnh. Tựa lưng vào
chiếc gối, anh nhìn bức tranh còn dang dở. Hình ảnh đồng đội của anh lại hiện về.
Nhớ lại ngày ấy, anh cùng đồng đội xây dựng đảo. Chiến dịch CQ88 được
phát. Nhận lệnh là đi. Chỉ có trái tim vì biển, vì đảo. Không phải là những câu
khẩu hiệu tuyên truyền mà chính là mệnh lệnh của trái tim, của tình yêu biển đảo
đã đưa anh cùng đồng đội đến với Gạc Ma.
Nhìn bức tranh, anh như thấy từng người. Này là Quân, lính trẻ nhất đơn
vị, thích nghe anh nói chuyện về những cô gái ở làng biển quê Quảng Nam. Này là
Nhơn, người lúc nào cũng thích ca bài chòi. Cựa một tí là ca. Dù chẳng có hơi
xuống giọng xề. Thế nhưng, mỗi lần rảnh là ca. Anh em trong đơn vị thích cái
tính xuề xòa của Nhơn nên cũng thích luôn những lời ca dân dã ấy. Này là anh
Phương, chỉ huy, coi anh em như ruột thịt. Còn biết bao nhiêu người nữa. Họ
trong tranh như cười động viên anh vượt qua cơn đau.
Nhìn tranh, anh nhớ lại ngày ấy...
Trời hửng sáng. Biển vẫn trong xanh. Cả đơn vị đang ra sức xây dựng đảo.
Yên bình trên từng lời bông đùa của đồng đội. Yên bình trên từng con sóng. Hải
như nghe được lời của Nhơn ca: “Đảo này là của chúng ta. Ngàn năm ta giữ nước
nhà Việt Nam...”. Tiếng vỗ tay vang lên. Chưa kịp cười đùa cho thỏa thích, Hải
bỗng nghe tiếng loa. Lởn vởn tàu của giặc. Chúng bắt loa gọi đơn vị anh rời đảo.
Nhưng lời của bọn giặc chẳng là cái quái gì. Cả đơn vị phớt lờ lời của giặc.
Anh em được lệnh của anh Phương: “Phải bình tĩnh. Đảo là của ta, ta quyết giữ.
Chúng ta giữ đảo là giữ đất Mẹ Việt Nam. Quyết không rời đảo!”. Lúc ấy, Hải như
thấy tất cả đều có tâm niệm: “Quyết không rời đảo!”. Bọn giặc tìm cách khủng bố
tinh thần của anh em. Rồi bất thần, bọn chúng xả súng về phía đơn vị anh.
Hải không ngờ tình thế như vậy. Chỉ tiếng súng nổ. Và đạn bay... Chợt tiếng
của Phương vang lên: “Tất cả nắm chặt tay nhau, kết thành vòng tròn. Quyết tâm
bảo vệ đảo, bảo vệ cờ Tổ quốc!”. Đó cũng là mệnh lệnh của trái tim. Trong làn đạn
của giặc, Hải và đồng đội siết tay thật chặt, kết thành vòng tròn, giữ cờ Tổ quốc.
Lá cờ ngạo nghễ giữa biển trời. Giặc vẫn xả súng. Hải một tay nắm tay Nhơn, một
tay nắm tay Quân. Và cứ thế vòng tròn vẫn vững trước đạn thù. Bỗng, Nhơn á lên
một tiếng. Giọng Nhơn đứt quãng. Máu Nhơn! Nhơn bỏ tay Hải, quỵ xuống: “Anh Hải!...
Hãy… trả thù… cho… em!”. Đạn giặc trước mặt, sau lưng, bên phải, bên trái… Đạn
giặc bao vây đồng đội anh. Rồi, Quân cũng bị trúng đạn. Quân ngã trên người Hải,
giọng phều phào: “Anh đưa… em… về quê… nghe!... Nói… với Mẹ… là em… em… nhớ Mẹ…
lắm!... Còn chuyện… mấy đứa… con gái… làng chài quê anh...,… em xin… nói lời…
vĩnh… biệt… với họ… Mẹ!... ”. Quân hy sinh trên tay anh. Anh chưa kịp nói lời
nào thì lại nghe tiếng gào to. Đó là tiếng Phương. Tiếng của Phương hòa trong
tiếng sóng: “Thà hy sinh, chứ không chịu mất đảo”. Đạn giặc bắn không ngừng. Hải
thấy hai tay mình như có ai chém.
Hai tay của Hải không còn. Trước mắt anh sừng sững lá cờ Tổ quốc cùng đồng
đội. Mắt anh vẽ một khoảng không. Biển. Đảo. Đồng đội. Cờ Tổ quốc!...
*
* *
Hải được giải đặc biệt về Biển đảo Quê hương, nhiều phóng viên đã đến
tìm hiểu về cuộc đời anh. Bấy lâu nay, có ai biết đến Hải Trường Sa là ai đâu.
Nhưng giờ đã khác. Bút danh Hải Trường Sa khẳng định với công chúng về tài năng
hội họa.
Tôi được Hội Văn học Nghệ thuật thành phố gửi giấy mời tham dự buổi khai
mạc và trao giải thưởng. Vì bận việc đột xuất, nên tôi đến trễ. Chỉ được xem
tranh là chính. May mắn cho tôi là được thưởng thức một số tranh dự thi đoạt giải
cùng với một số tranh khác của những họa sĩ nổi tiếng trong nước.
Sau khi xem từng bức tranh, tôi giành thời gian bên bức tranh đạt giải đặc
biệt. Trước mắt tôi là bức tranh mang tên “Vòng ký ức Tháng Ba”. Và điều làm
tôi ngạc nhiên là, bên cạnh bức tranh, một người không còn hai bàn tay. Đó
chính là Hải Trường Sa, tác giả bức tranh ấy. Một số phóng viên đang phỏng vấn
anh. Anh chỉ cười. Đứng cạnh Hải, tôi nghe anh trả lời:
- Có gì đâu! Tôi không vẽ là tôi còn nợ với chính tôi. Tôi chỉ là người
lính giữ đảo năm nào, giờ là như thế này đây - Anh cười và đưa hai cánh tay cụt
- Cũng may cho tôi là chất lính một thời trong tôi giúp tôi vẽ. Còn đời tư tôi,
xin các bạn thông cảm, tôi không muốn nói về mình. Chỉ thế thôi!
Nghe những gì anh trả lời, không hiểu anh ta khiêm tốn hay kiêu. Nhưng rồi,
nhìn nụ cười hiền với tiếng nói đặc sệt chất giọng Quảng Nam, cùng với ánh mắt
sáng tự tin, tôi tin lời anh nói.
Và rồi, người xem tranh cũng bớt dần. Tôi đến làm quen Hải. Tôi tự giới
thiệu về mình, là thầy giáo, nhà văn, thích xem tranh vẽ. Hải nhìn tôi cười. Và
đưa cái cùi chỏ đụng vào bàn tay tôi lắc lắc.
Từ đó trở đi, chúng tôi thành bạn của nhau. Những khi rảnh, tôi thường đến
thăm Hải. Hoặc trao đổi qua facebook. Càng ngày chúng tôi càng thân nhau. Biết
tính Hải không muốn nói về mình, nhưng tôi cũng hỏi chuyện riêng tư của Hải. Vì
thân, mà đã là bạn thân cần gì phải dấu nhau điều gì, nên rồi Hải cũng tình thật
kể cho tôi nghe.
- Cậu biết không, hồi thanh niên, mình thích vẽ lắm. Nhìn những tranh của
Bùi Xuân Phái, Tô Ngọc Vân, rồi đến Đinh Cường, Bửu Chí, Rừng… là mình mê tít.
Mình có một tập ảnh chụp lại các bức tranh mình thích. Nhìn những bức tranh ấy,
nhiều lần, mình tưởng tượng các sắc màu trong các tranh ấy như muốn nói với
mình: “Bạn cứ tin vào khả năng và tình yêu của chính mình thì mới có thể vẽ những
tranh đẹp được”. Mình tin lời sắc màu nói với mình. Từ đó, ngoài chuyện học,
mình lại lao vào việc mày mò, tìm hiểu về hội họa. Nào là cách tìm chủ đề, tìm
bố cục, cách pha màu… Thú thật, mình thích vẽ từ nhỏ, lại có chút năng khiếu,
nên mình vỡ lẽ ra là mình có thể vẽ những gì mình thích, những gì in đậm dấu ấn
trong lòng mình.
Hải nói như trút hết tâm trạng của mình. Tôi cầm cùi tay Hải, xoa xoa,
nói:
- Hèn gì! Phần thưởng cậu nhận xứng đáng với công sức của cậu.
Hải kẹp ly nước lên uống. Rồi để xuống bàn. Tôi nhìn căn phòng xinh xắn,
đầy những tranh. Có bức đã hoàn thành. Có bức chưa xong. Bên cạnh giá vẽ nào là
những hộp sơn, lọ màu… Đủ cả. Tất cả đều gọn gàng. Nhìn căn phòng một hồi, Tôi
khen:
- Họa sĩ như cậu có khác! Nghiêm túc dữ.
Hải nhìn tôi cười:
- Sao cậu lại nói thế? Tại cái tính mình giờ nó thế. Quen rồi. Để mọi thứ
lộn xộn, ngổn ngang, mình không chịu được. Cũng tại chất lính một thời tạo cho
mình cái tính ấy. Thật ra, khi còn trẻ, trước khi vào lính mình cũng a-ma-tơ lắm.
- Hồi trẻ, cậu nghệ sĩ lắm thì phải? Kể cho tôi nghe cậu tập như thế nào
mà được như rứa?
Hải cười to, tiếng vang như sóng biển:
- Ừ, thanh niên đa phần là thế mà cậu. Bộ cậu không có à? Nhưng giờ, như
cậu thấy đó, mình phải tự nghiêm túc với chính mình mà. Cũng nhờ làm lính đó.
Như được dịp kể cho tôi nghe, Hải cho biết những năm tháng ở quân trường,
anh phải tự điều chỉnh ghê lắm. Chớ thằng con trai nào không có chút máu nghệ
sĩ? Cái máu ấy tạo ra những biểu hiện để gọi là chút tài tử, chút chịu chơi. Hải
nói rằng con trai mười tám, đôi mươi có tính như con chim trống rướn cổ hót phô
bày bản lĩnh trước lỗ tai của những chim mái; như gà trống, rướn cổ gáy, phô diễn
khả năng trước sự cương trứng của gà mái; như công trống xòe sự rực rỡ, phơi sắc
màu tình yêu trước ánh mắt của chim mái. Hải cũng tâm sự, hồi chưa vào lính,
anh thường thức khuya, đàn hát như khoe cho hàng xóm biết tài của mình, hoặc để
bọn con gái chú ý. Có lẽ, hầu như đàn ông trai trẻ đều có một thời như vậy! Nhưng
rồi, khi vào lính, dù tính đàn ông con trai vẫn thế, nhưng sống có quy củ hơn.
Ăn có giờ, học có giờ, tập có giờ. Chệch giờ giấc là bị kỷ luật ngay. Không một
hai gì cả. Còn quần áo, mùng mền, chiếu gối đâu vào đó. Ngay ngắn, sạch sẽ,
ngăn nắp. Giường nào cũng như thế, cũng răm rắp.
- Còn bức tranh được giải vừa rồi, cậu vẽ khi nào? Do đâu?
- Khi nào à? Mình chỉ nhớ là mình nhớ biển, nhớ con sóng ở Trường Sa.
Không biết làm gì để đỡ nhớ, mình lên mạng tìm những bài hát về biển đảo, về
tháng Ba. Tình cờ mình xem một video về trận Hải chiến ở Gạc Ma. Xem mà mắt
mình rưng rưng. Như có ai bóp tim mình. Như ai đó làm mình nghẹt thở. Vòng tròn
ấy cứ ám ảnh mình từ đó!
- À, ra vậy!
Từ khi đạt giải, mỗi lần Thành phố có triển lãm tranh về chủ quyền biển
đảo, Hải đều được mời gửi bức tranh đạt giải tham dự. Và lần nào cũng vậy, tôi
tìm cách dàn xếp công việc, thời gian để chở Hải đến phòng triển lãm. Như mọi lần,
tôi cùng Hải đứng trước tranh ngắm nghía. Hải nói như thấy Nhơn, Quân, anh
Phương cùng đồng đội hiện về. Còn tôi, lần này, như thấy trong tranh, trước mắt
mình, hiện lên là vòng lửa bất diệt, vòng của sự sinh tồn của đất nước, vòng của
sự sinh sôi, nảy nở lòng yêu nước, vòng của sự kết đoàn toàn dân tộc. Trước mắt
tôi là các chiến sĩ – những chàng trai nước Việt – nắm tay nhau làm cột mốc. Những
gương mặt ánh lên lòng tự hào, sẵn sàng hy sinh vì biển đảo. Tôi như nghe đủ giọng
nói của mọi miền Tổ quốc. Giọng Nghệ Tĩnh, Quảng Bình, giọng Khánh Hòa, Quảng
Nam… Bắc, Trung, Nam có cả. Tôi như nghe họ hát. Tiếng hát của họ hòa vào sóng
biển vang mãi ngàn năm cho con cháu Việt Nam biết một thời bi tráng của dân tộc.
Đứng trước bức tranh “Vòng ký ức Tháng Ba” là mọi người và tôi. Nhìn sâu
vào trong tranh, tôi nghe từ tiếng vọng từ bức tranh: “Thà hy sinh, chứ không
chịu mất đảo!”.
Tháng 02/2016
Phan Trang Hy