Khê Giang
1. Do được xếp hạng chỉ sau
quỷ và ma nên chúng tôi vẫn thường xuyên bị lãnh đủ
những hình phạt trên suốt chiều dài của hành trình đi
tìm con chữ, ngày ấy chuyện bị đòn roi đối với đám
trẻ trường làng là chuyện thường ngày, tựa như cơm
bữa. Có hai hình phạt mà tôi ngán nhất đó là bị gõ
vào các đầu ngón tay hay phần lưng bàn tay bằng thước
gỗ, hai món này mỗi lần lãnh nhận là đau thốn đến
tận tim do vùng tiếp xúc có rất ít da thịt che chở.
Riêng các món còn lại như véo tai, phết roi mây vào mông
hay quỳ vẫn là những hình phạt được coi là dễ chịu
hơn. Năm học lớp Nhất (lớp cuối cùng của chương
trình tiểu học) chúng tôi bị cô giáo phạt roi theo kiểu
khá lạ, nếu phát hiện hai đối tác nói chuyện trong
lớp, cả hai đều được mời lên bàn nằm ăn roi mà
không cần biết đứa nào khai khẩu trước. Bị phát
hiện viết bậy, đổ mực lên bàn hoặc kê bàn không
ngay ngắn tất cả thành viên ngồi chung bàn đều được
lãnh roi như nhau, bất kể trai hay gái. Để đối phó với
việc bị đòn roi rất nhiều đứa đến trường thường
phải mặc hai ba lớp quần. Án phạt ở trường đôi khi
chỉ là hiệp một, lúc về nhà bị bạn mách hoặc thấy
những lằn roi còn đỏ hằn trên mông, chúng tôi có thể
phải chịu thêm hình phạt bổ sung từ cha mẹ, vì các
cụ luôn tin tưởng sự đúng đắn công minh ở thầy cô.
Việc xử (sử) dụng hình phạt đối với học trò cũng
như việc đánh giá kết quả học tập, tất cả đều
diễn ra hết sức công bằng, cho dù đối tượng là con
của chính thầy cô hay những gia đình “ danh gia vọng
tộc”, không hề ưu tiên gia đình có công với… xã
hội. Vì vậy mới có chuyện nhiều nhiều học sinh lây
lất hai ba năm vẫn chưa trèo qua một lớp.
2. Có lẽ so với nền giáo dục
văn minh và hiện đại bây giờ, việc học sinh bị những
hình phạt như vậy chắc ít ai đồng tình, tuy nhiên
trong suy nghĩ của chúng tôi ngày đó, thầy cô luôn là
những bậc đáng kính. Mặc dù bị đánh đòn là vậy
nhưng khi đi trên đường chỉ nghe tiếng xe của thầy cô
là tất cả kéo nón xuống, thụt lùi vào lề đường
vòng tay cúi đầu chào. Điều lạ lùng là cái động tác
chào kiểu ấy không chỉ diễn ra ở đám học trò mà kể
cả người lớn. Các cụ râu tóc bạc phơ khi gặp thầy
cô cũng tấp vào lề, xếp dù quạ kính cẩn cúi chào -
những người được chào ấy nếu so ra tuổi tác chỉ
trạc tuổi bằng con cháu của các cụ. Những ngày hội
làng hay giỗ họ tộc khi được mời đến tham dự, thầy
nghiễm nhiên được mời ngồi ở chiếu trên ngang với
các vị chức sắc trong làng. Khi có việc riêng thầy cô
đột xuất ghé nhà, cho dù đang lỡ tay với công việc
vườn tược, các cụ vẫn vội vã lên trang phục truyền
thống để ngồi hầu chuyện với thầy một cách cung
kính. Mời được thầy đến dự đám kỵ giỗ là niềm
hạnh phúc lớn của gia đình, một điều thành lệ khi
thầy chưa cầm đũa chắc chắn trong nhà không ai dám
bưng chén... Ngày Tết dành hai mùng cho nội ngoại nhưng
mùng ba các cụ lại khăn gói đến chúc Tết thầy…
3. Nghe chuyện đánh đòn, án
phạt nghiêm khắc đối với học sinh thời đó chắc
nhiều người sẽ cho rằng tuổi thơ chúng tôi đã chịu
nhiều thiệt thòi so với nền giáo dục văn minh và hiện
đại như ngày nay? Xin thưa về vật chất, công cụ,
phương tiện giảng dạy là có nhưng riêng tinh thần là
không! Đến trường chúng tôi như tờ giấy trắng, không
có một chút gợn dù nhỏ nhất về thầy cô, không bị
áp lực chuyện học thêm học bớt, không sợ bị thầy
cô chiếu cố trù dập, không có chuyện chạy trường,
chạy điểm, không phải xa xót chuyện mua sách mới mỗi
năm (những bộ sách được anh chị lớp trên cứ luân
chuyển xuống lớp dưới, trải qua hơn một thập niên
vẫn còn xử dụng tốt, vẫn mang nguyên giá trị về
thẩm mỹ và tính hiện đại). Khi thấy chúng tôi đang
đi lẻ loi trên đường trong trang phục học sinh hầu như
tất cả những người điều khiển phương tiên giao
thông đều rà xe lại hỏi lý do và sẵn sàng cho “quá
giang” vì sợ chúng tôi trễ học hoặc không có tiền
đi xe. Vào quán nước bắt gặp học sinh các chú các bác
thường dành trả tiền. Khi vào bậc Trung học, từ nhà
đến trường khoảng năm sáu cây số vậy mà khi lên xe
đò chẳng một chủ xe nào lấy tiền học sinh trừ những
lúc cả xe chỉ toàn một màu đồng phục áo trắng ( lúc
đó chúng tôi tự nguyện trả tiền và nhà xe chỉ thu
tiền tượng trưng). Đi tàu hỏa chỉ cần trình thẻ học
sinh là được hoàn toàn miễn phí, cuối năm khi đạt
thành tích tốt ngoài phần thưởng của trường chúng
tôi còn nhận được quà từ chính quyền họ tộc, người
thân…, khi tham dự lễ hội của Làng hay họ Tộc chúng
tôi đều xếp ngồi ở vị trí trang trọng. Sự quý
trọng thương yêu học sinh không chỉ gói ghém trong phạm
vi nhà trường, trong cộng đồng xã hội mà còn ăn sâu
vào tín ngưỡng: ngày mồng một Tết chúng tôi thường
là những vị khách đầu tiên đến xông đất cho những
nhà trong xóm (do đã có lời mời từ trước Tết). Cũng
có đôi ba tin đồn thằng thằng A, con B bỏ học là do
sợ thầy cô đánh, tuy nhiên khi trưởng thành lúc tiếp
xúc, chuyện trò hay thổ lộ chúng tôi nhận ra đó chỉ
là lý do phụ nằm trong muôn vàn lý do quan trọng khác.
4. Nói về thầy cô ngày đó,
rời giảng đường kết thúc cuộc đời sinh viên những
người đưa đò được phân bổ về khắp các vùng miền
từ thành thị cho đến thôn quê, có nhiều thầy cô được
điều về giảng dạy tại những nơi chốn xa xôi cách
nhà cả trăm cây số, kể cả những nơi đang nằm trong
vùng hỏa tuyến. Thế nhưng chẳng thấy thầy cô nào chạy
trường, chạy khoảng cách. . Do không chạy chọt để lên
chức nên thầy hiệu trưởng luôn được coi là người
lãnh đạo anh minh, được mọi thầy cô đồng nghiệp tôn
kính. Một hình ảnh rất đẹp về tình đồng nghiệp về
văn hóa giao tiếp mà tôi may mắn được chứng kiến và
nhớ mãi: trong giờ ra chơi khi các thầy đang ngồi trong
phòng Hội đồng, nhác thấy cô giáo đồng nghiệp bước
vào tất cả các thầy đều đồng loạt đứng dậy và
thầy ngồi gần cửa nhẹ nhàng kéo ghế mời cô giáo
ngồi. Thầy cô chỉ chú tâm vào công tác giảng dạy,
không phải làm công việc bằng tay trái. Nhà trường
không phải làm kinh tế, kinh doanh nên thầy cô không phải
bận lòng vương víu những chuyện ngoài chữ nghĩa.. Vì
vậy việc đánh đòn phạt quỳ học sinh ngày ấy tuy
không phải là phương pháp giáo dục tối ưu vẫn được
cộng đồng chấp nhận và những người bị xử phạt –
lúc còn đang mài đũng quần trên ghế nhà trường cho đến
khi sang bên kia sông vẫn hướng về người đưa đò với
một niềm thương yêu kính trọng.
KHÊ GIANG