Cô ngồi trước ba máy đánh chữ, cái trước mặt màu kem đã sờn,
hai cái xanh ngọc hai bên còn mới. Bàn làm việc hướng vào vách, bên phải là cửa
sổ nhìn ra con đường tráng xi măng cũ gần bến đò. Tôi hay đứng ngoài hiên tránh
mưa nhìn vào, máy chữ chạy rì rào, cô nghiêng nửa mặt có chấm tàn nhang tím. Chỗ
làm việc là góc thừa ra của tiệm thuốc Nguyệt quế đường, vừa vặn đặt cái bàn,
cái ghế, phía trong là kệ sắt cao đầy giấy tờ. Tôi ngắm những tờ giấy carbon
đen sẫm trong mùi cam thảo, quế, táo tàu bay qua. Cô nói giọng Hà nội, khoảng bốn
mươi tuổi, gầy mảnh mai, tóc búi lên, gương mặt khô khan nhưng hiền, ít nói vì
bận việc, một cái lông nhím vàng hổ phách trong suốt kẹp xuyên qua búi tóc. Cô
mặc áo dài màu xanh bông lý, màu mận chín, ngón tay dài, lưng bàn tay những đường
gân nổi lên như tay đàn ông, không nhẫn. Khi đã quen, cô gọi tôi vào chơi nhờ
việc vặt, phần thưởng là tờ giấy carbon dùng nhiều lần đã bạc màu nhưng tôi quý
lắm, ôi những tờ giấy carbon tôi dùng để đồ những hình vẽ thật đẹp làm tụi bạn
lác mắt. Máy đánh chữ hiếm, đơn từ nộp công sở đều dùng giấy in nên việc lúc
nào cũng bận, có lẽ vì thế mà cô cần ba máy một lúc, cái thì hôn thú, cái đơn
xin việc, cái “thế vì khai sinh”. Công việc là đánh máy nhưng cô làm nhiều hơn,
giúp sửa lỗi chính tả, sửa câu văn, cố vấn nhiều thứ linh tinh từ việc làm ăn đến
hôn nhân tình cảm, có người đến tay không chỉ nói ý mình, cô liền thảo tờ đơn tự
cô nghĩ ra. Một người khách giọng khàn vì thuốc lá, đứng sau lưng cô đọc ngắt
quãng, ho vì lên cơn suyễn: Đơn xin hoãn dịch vì lý do gia cảnh…Họ tên con tôi:
Nguyễn Văn…Năm sinh…Chánh quán…Trú quán…Tôi làm đơn này xin chính phủ xem xét
hoãn dịch cho con tôi vì trong nhà chỉ có mình nó là con trai, không ai nối dõi
tông đường, mẹ nó hay đau, con gái có ba đứa nhưng không tính. Cô quay lại: sao
bác nói ba đứa con gái không tính, người đàn ông cười: thì cô sửa lại giùm.
Cô có mấy chồng báo cũ để người chờ lật coi cho đỡ nóng ruột.
Tôi ngồi trên chiếc ghế nhỏ sau kẹt cửa, đọc các tạp chí như Tự Do của chính phủ
có ảnh đẹp, Hương Quê của bộ Thông tin đều đặn có truyện ngắn đồng quê của Bình
Nguyên Lộc hoặc Sơn Nam, các nhật trình như Độc lập, Hòa bình, Sóng thần, Công
luận, ngắm mấy tờ carbon, lắng nghe cuộc chuyện trò khi lớn lúc khẽ giữa cô và
khách hàng. Thỉnh thoảng cô đứng dậy bật bếp lửa dầu hỏa ở góc nhà, chùm lửa
xanh ngọn nhỏ liu riu, đun nước sôi pha trà Thiết Quan Âm trong ấm sành, cho
tôi uống, di chuyển mau lẹ giữa những chồng giấy cao ngất. Hiệu của cô không
tên, không có chỗ ngồi rộng rãi, ở trên đường vắng chạy ra bờ sông, không quảng
cáo nhưng người có việc cần đều biết cách tìm đến. Ngoài hiên một cây dâu tằm cổ
thụ cao rợp mát, những trái dâu đỏ mọng ngọt lịm, lá xanh mềm mại ngày nay
không thấy nữa. Ngày mưa dầm nắng gắt đi học về muộn trễ chuyến đò cả giờ, tôi
quay lại ghé vào, cô im lặng làm việc nhưng thỉnh thoảng quay nhìn tôi, mắt như
cười, ấm áp. Đôi khi một ông khách đứng tuổi lịch sự, da tái xanh, má hóp, tóc
chải dầu brillantine bóng, sơ mi trắng, cầm dù đen bất kể trời mưa hay tạnh, đứng
ngoài cửa sổ trò chuyện, đưa giấy tờ hay trả tiền gì đó, nhưng có khi chỉ nói
vài câu rồi đi. Những lúc ấy cô đứng lên, tựa người lên thành cửa, khoanh tay
trước ngực trò chuyện. Sau khi ông khách đi rồi, cô kín đáo mỉm cười, ngửa đầu
ra sau, nhắm mắt lại, mở mắt, quay về với công việc. Như thế, năm này qua năm
khác, hết niên học này đến niên học khác của tôi, như thể cuộc đời này sẽ trôi
đi êm đềm như vậy mãi với cô, không bao giờ thay đổi, không bao giờ ngừng lại,
mà thay đổi cho ai, cách mạng làm gì, chiến tranh chết chóc làm chi?
Đôi khi tôi chợt nghĩ hay cô là cô Mai, nhân vật của Khái
Hưng trong Nửa Chừng Xuân, con ông Tú ngoài Ninh Bắc? Có em trai học trường Bảo
hộ, tức trường Bưởi, nhà nghèo vì cha mất sớm, đem lòng yêu Lộc, nhưng rồi chuyện
hai người không thành. Cô Mai đẹp, dịu dàng, cương nghị, trái tim đầy tình yêu
thanh sạch. Có lúc tôi ước làm cậu Huy em trai của cô, đứa em học trò nghèo
thương chị đến ứa nước mắt. Tôi ngồi nhìn những chiếc máy chữ nghiêm trang nằm
ngoan ngoãn dưới hai bàn tay lượn nhấp nhô như sóng, cô dùng tám hay mười ngón
để gõ phím, cổ tay thoăn thoắt đưa đi đưa lại, những cái cần bằng kim loại xám
óng ánh nhảy nhót như vũ nữ phim Ấn Độ. Nhưng chiến sự đổi chiều không báo trước.
Trong hai ngày hai đêm, những đơn vị sư đoàn bộ binh trú đóng căn cứ Ái Tử và
Đông Hà hỗn loạn rút quân qua sông, bỏ lại chiến xa vũ khí, và điều đó sẽ lập lại
đúng ba năm sau ở những nơi khác, người dân, viên chức kinh hoàng di tản, họ bị
pháo kích ác liệt chặn lại trên quốc lộ, chạy lui chạy tới như kiến trên chảo
rang dưới nắng tháng tư. Không khí nóng đặc lại, hoa phượng mới ra héo rũ nhưng
không tàn, cuống non khô đi không chịu rơi xuống đất. Ngày cuối cùng trước khi
ra đi tôi lang thang trên đường không người, mặt nhựa chảy mềm dưới trời xanh
bao la, sự yên tĩnh của nó buông xuống mặt đất một không khí dị thường không ra
chiến tranh chẳng phải hòa bình, bầu trời như nhật thực, tôi đi trên đường
biên, giữa một vùng tối đen và một vùng sáng rực, nhưng cái đường biên kia di
chuyển mau lẹ quá, nó chạy vùn vụt, tôi cố đuổi theo không kịp, vấp ngã trên những
hầm hố công sự hay trên những thây người rải rác đó đây quanh quốc lộ một, gần
ngã ba Long Hưng. Đi ngược về trung tâm, tôi đến trước những địa chỉ yêu dấu,
trường Bồ Đề, Phước Môn, Thánh Tâm, Nguyễn Hoàng, hiệu sách Lương Giang, Phú
Long, Tao Đàn, chào nhau lần cuối. Chắc chỉ có mình thôi, tôi nghĩ, là đứa lẩn
thẩn đi chào bến đò chợ tỉnh nhiều bậc tam cấp đọng vảy cá trắng xóa, bốc mùi
cá tanh, chào chùa Tỉnh hội rợp bóng ngô đồng, im bặt tiếng chuông, chào tiệm vải
chất đầy tơ lụa mẹ tôi hay ghé qua, quán tiết canh vịt của ba tôi, tiệm cháo
bánh canh của các chị tôi, đứng hồi lâu trước quán bi-da của bạn bè, những hòn
bi xanh đỏ lăn lóc góc bàn, tôi cầm lên bỏ xuống.
Trong chiều nắng xế, thành phố sắp biến mất trông như huyền
thoại. Tôi đứng tần ngần trước căn nhà khang trang ngoài hiên có cây lê ki ma mỗi
mùa xuân đều nở hoa trắng của người bạn gái cùng lớp, nhìn cánh cổng sơn xanh
đóng im ỉm, lần cổng ấy ngày sau mạng nhện sẽ giăng đầy, hai con bồ câu trắng đứng
rù rì chụm đầu vào nhau trên khoảng sân gạch gần ảng nước mưa, mặt nước có một
lá sen nửa lành nửa rách. Tôi tìm đến tiệm người đánh máy chữ, cửa ra vào đóng,
ổ khóa còn nguyên nhưng cửa sổ đã bị ai mở bật tung ra, tôi nhìn quanh một lúc,
leo vào bật công tắc, không điện, có lẽ cô đã ra đi cùng lúc với hàng chục ngàn
người tị nạn chiến tranh khác nhưng cũng như họ, yên chí rằng sẽ trở lại trong
vài ngày tới, khi tình hình chiến sự yên ổn. Mùi hơi quen thuộc phảng phất, vài
tờ giấy carbon đen lả tả trên sàn nhà, tôi cầm lên kề sát mũi hít hà những tờ
giấy carbon cũ thơm phảng phất mùi hạnh đào, mùi ô mai tẩm đường, mùi quế hơi gắt,
trên bàn ba chiếc máy đánh chữ vẫn còn nguyên. Tôi tiến lại gần, nhìn xuống một
tờ giấy đang nằm trong máy giữa chừng, chiếc màu xanh ngọc bên trái, liếc qua mấy
chữ trên cùng:
GIẤY TỪ CON
Tôi ngạc nhiên, kéo ra đọc tiếp.
Họ tên cha mẹ…Con trai của chúng tôi là…Sinh ngày… Học
sinh lớp Đệ tứ, trường…Chúng tôi làm đơn này đăng lên nhật trình để thông cáo:
kể từ ngày…chúng tôi không nhận … là con trai trong gia tộc. Lý do: không nghe
lời nghiêm phụ, bỏ bê việc học, trốn nhà theo gánh hát cải lương Kim Chung. Nay
kính trình…Ngày…
Tôi đứng hồi lâu giữa căn phòng tối sẫm, mặt trời bên kia
sông đang xuống sau rừng dương liễu Nhan biều, ngả sang màu lửa lựu, vài con
chim sẻ kêu thảng thốt trên mái ngói, một cành cây khô rơi xuống mặt đường, nẩy
bật lên, lăn đi nhiều vòng, trong tịch mịch của phố xá bỏ hoang, những ngày bầy
chim vỡ tổ bắt đầu. Tôi nghĩ đến chàng thanh niên có lẽ chừng đôi mươi giờ này
vẫn chưa đọc được cái tin sét đánh trên báo của thân phụ anh, một người thương
con nhưng có lẽ quá nghiêm khắc, tôi nghĩ đến cha mẹ người thanh niên kia giờ
phiêu dạt nơi đâu, ga Lăng Cô hay bến tàu Đà Nẵng, hay đã tử nạn trên đường.
Tôi nghĩ đến gánh cải lương miền Nam ra trình diễn ở thành phố gần giới tuyến
trong ngày xuân thanh bình, trong gánh hát ấy biết đâu có một cô đào trẻ đẹp với
giọng ca mê hoặc, sáng hôm sau lên đường khăn gói vào Nam, không biết mình vô
tình mang theo trái tim một chàng trai Đệ tứ trung học, mê tân nhạc, vọng cổ,
ghi ta, đờn sáo hơn chuyện học hành thi cử lẩm cẩm, biết đâu sau này chàng nổi
tiếng ở Sài thành hoa lệ, thành công rạng rỡ về quê trong sự chào đón của khán
thính giả như Út Trà Ôn, hay biết đâu anh lầm đường lạc lối, bị hắt hủi giữa chừng,
thất bại chốn phồn hoa, đói khổ, một chiều dừng lại bên đường nhìn hạt bụi
trong tia nắng xiên khoai mà ngoái về quê cũ.
Nhưng quê cũ của anh đá nát vàng phai có đâu nữa mà ngoái
lại? Hay biết đâu vài mươi năm sau, hai cha con nơi đất khách lại làm hòa với
nhau, ôm nhau mừng tủi, bằng cách nào thì tôi không biết, nhưng thế nào cũng có
cách, vì cha mẹ và con cái, hay anh chị em trong nhà, giận nhau vì lối sống,
cãi nhau vì chính kiến, nhưng bỏ nhau hoài sao đặng. Phải không? Khi đó người cha biết đi tìm đâu người phụ nữ
đã đánh máy cho ông, khẩn khoản đòi xin lại một tờ giấy cũ vàng ố, lẳng lặng
cho vào ngọn lửa xanh lơ trong tiếng máy chữ rào rào chiều chạng vạng. Gần như
vô thức, tôi gập nhỏ nhiều lần tờ giấy đánh máy, nhét vội vào túi quần sau, cài
cúc, nhảy qua cửa sổ, vói tay khép cánh cửa mà đi.
Nguyễn Đức Tùng
Canada
bachnguyen@shaw.ca