Nhà văn Trần Duệ
NHỮNG NGƯỜI NHẢY TÀU
Trần Duệ
Đêm.
Rừng cao su u tịch. Bóng đen phủ kín cả vùng trời. Cố nhướng mắt nhìn nhưng tôi
không thể nào thấy được những hàng cây cao su đứng thẳng tắp trước mặt; chỉ thi
thoảng vài tiếng tắc kè kêu và đôi tiếng lào xào của vòm cây tối thẫm. Trời như
chuẩn bị đổ mưa, những ánh chớp lóe lên ở phía xa xa cũng đủ soi chiếu tới ngôi
mộ được quét vôi trắng nằm ở giữa vườn. Người chủ trang trại đang nằm cái võng
kế bên tôi cho biết, đó là mộ của một thanh niên bị voi đạp chết, nhưng không
có thân nhân nên dân địa phương chôn ngay tại nơi thọ nạn. Sau khi mua lại mảnh
đất này thì anh xây mộ, hàng đêm đều cho công nhân thắp nhang và thành tâm cầu mong
người đã khuất phù hộ cho mình được yên ổn làm ăn. Đó quả là một cảnh tượng
rùng rợn, ma quái, nhất là đối với những người chưa quen ngủ trong rừng cao su
vào ban đêm như tôi.
Anh
chủ vườn nói, trước lúc anh đến nơi này thì đây là một vùng rừng núi rộng lớn. Ở
đó có đường tàu Bắc Nam đi qua và có một ga nhỏ, chủ yếu là để tránh tàu lúc cần
thiết và cũng là nơi trú ngụ của công nhân đi tuần đường. Mọi chuyến tàu vào ga
đều giảm tốc độ, và đây chính là điều kiện để người ta tuồn gỗ lên tàu. Ga xép
vì vậy trở thành nơi cưu mang, nơi nương tựa cho những mảnh đời, những phận người
tứ cố vô thân... Anh về đây mua gần 30 hecta đất để trồng cao su. Lúc đó rừng không
còn, và đàn voi vốn gieo rắc kinh hoàng bằng việc phá phách và đạp chết gần chục
người đã được chính phủ bắt về nuôi ở rừng Tây Nguyên. Nông trường cao su quốc
doanh được thành lập, kéo theo vài ngàn công nhân tụ về, khiến cái ga xép ngày
xưa cũng bớt đi phần nào quạnh quẽ. Rừng xưa không còn, nhưng vẫn còn đó những
câu chuyện đau thương của những người khai cơ dựng nghiệp, những thợ rừng, những
người “rớt tàu”, vẫn được mang ra kể cho nhau nghe trong những lúc trà dư tửu hậu.
Tôi nằm im trên võng giữa đêm khuya ở vườn cao su đang khai thác hơn 10 năm để
nghe người bảo vệ già của nhà anh bạn, và cũng là người sống lâu năm ở địa
phương này, kể về những người “rớt tàu”. Tôi chợt hiểu ra sự thành công nào
cũng kết tinh bằng cái vinh, cái nhục của con người, bất luận cao sang hay thấp
hèn. Người bảo vệ già kể về nhiều người ở địa phương, nhưng sao tôi vẫn không
quên được một người có tên là Trung
Câu
chuyện như thế này…
Tiếng
còi tàu nghe càng to dần. Mọi người đều hiểu lái tàu chỉ báo là tàu chạy chậm
vào ga chứ không dừng. Một người lao ra khỏi tàu. Đoàn tàu vô tư chạy vào cánh
rừng trước mặt. Ga nhỏ chìm vào bóng đêm. Tất cả trở lại không khí rờn rợn của
vùng rừng núi. Trung liêu xiêu đi dọc đường sắt. Đá lởm chởm dưới chân hắn. Chiều
nay hắn uống hơi nhiều. Hết thằng thợ rừng này tới thằng thợ rừng khác mời hắn
uống rượu. Tụi nó mới bán được mấy mét khối gỗ. Trung bực bội khi thằng nào đó
dám nằm ngáng đường đi của hắn. Khuya rồi mà mầy còn nằm ngủ đây hả? Hắn càu
nhàu. Mày biết tao là ai không, hả? Hắn đá mấy đá lách nhách vào lưng cái thằng
đang nằm ngáng trên đường sắt. Thằng ngáng đường vẫn nằm im. Mày không sợ tao
thì thôi. Tao ngủ luôn đây cho vui. Chỉ có trời đất mới nghe được giọng lè nhè của
thằng say rượu. Trời chưa mờ sáng. Anh tuần đường bắt đầu đi làm. Anh nghĩ, may
mà không có tàu chạy qua. Nếu có chắc tụi mày chết từ lâu rồi. Kéo hai tên vi
phạm luật an toàn giao thông ra khỏi đường sắt, anh tiếp tục đi tuần. Trời sáng
trợt, Trung giật mình thức giấc. Không hiểu sao mình lại ngủ đây. Thằng nằm với
mình sao bị dính nhiều máu như vậy? Trung lật đật chạy về nhà. Nhà hắn cách nơi
đó cũng không xa. Mấy hôm trước, con bò kéo xe vẫn ăn cỏ ở quanh đây, vậy mà hắn
tìm mãi mới ra. Con bò chẳng buồn nhìn hắn.
Chiếc
xe bò cọc cạch đi về huyện. Thằng nhảy tàu vẫn nằm im. Máu ở mũi đã ngưng chảy.
Trung quất roi thật mạnh để con bò đi nhanh hơn, nhưng cũng phải đến gần trưa
thì mới tới được bệnh viện huyện. Bác sĩ và cô y tá lau máu trên mặt rồi hỏi
tên bệnh nhân. Lỳ - Trần Đình Lỳ, Trung dõng dạc, dù Trần Đình chính là họ và
chữ lót của Trung, còn Lỳ là…lỳ, vậy đi! Vợ Trung thuê xe ôm chạy lên bệnh viện,
nhăn nhó nhìn Trung, “đúng là thứ người thích rước họa vào thân”. Trung chẳng
buồn cãi. Vợ hắn đưa cho hắn một cọc tiền và chiếc khoen vàng vừa tháo ở ngón
tay rồi lại quày quả về. Ngày hôm sau, thằng Lỳ tỉnh. Nó nhướng mắt nhìn Trung.
Trung mừng trong bụng. Nhà ở gần đường sắt nên hắn hiểu rằng những thằng nhảy
tàu không đúng cách hay rớt tàu đều khó mà tỉnh lại. Trung bưng ly nước cho thằng
Lỳ uống. Nó nhếch môi, “cho em xin ly rượu”. Trung nghĩ trong đầu, đời tao uống
rượu đã hơn hai chục năm, nhưng bệnh mà cũng đòi rượu thì đúng là sư phụ của
tao rồi. Miễn! Bắt gặp ánh nhìn khó chịu của Trung, thằng nhỏ vừa đang muốn nói
gì bỗng ngưng lại, nuốt nước bọt nhìn lơ chỗ khác. Trung nghĩ, dù gì thì mình vẫn
còn hên hơn thằng nhỏ này. Mình cũng nhảy tàu xuống đây vào ban đêm nhưng thân
thể lành lặn. Không biết thằng nhỏ này tìm đến đây vì lý do gì, còn riêng Trung
chỉ đơn giản tìm đến đây để làm ăn và cầu mong một sự đổi đời vì quê hương bản
quán của Trung làm ăn khó khăn quá. Rồi Trung gặp được vợ cũng hạng dân tha
phương cầu thực như mình. Vậy là hai mảnh đời rách nát ráp lại với nhau để mong
một sự đổi đời trên vùng đất mới. Gần 6 năm sống chung, tài sản của họ là chiếc
xe và con bò kéo, cùng ngôi nhà lá nho nhỏ.
Trung
tiếp tục làm nghề đánh xe bò chở gỗ thuê. Ngày nào thằng Lỳ cũng theo hắn bốc gỗ
lên xe. Nó không đòi tiền công, không đòi ăn ngon. Nó chỉ thích ngủ ngoài hiên
nhà. Hằng ngày nó chỉ thích uống rượu thay nước. Vợ Trung nhẩm tính. Mới mấy
tháng mà thằng Lỳ đã làm lợi gấp mấy lần số tiền bỏ ra nuôi nó nằm bệnh viện. Lỳ
không quan hệ với người khác, buổi chiều ngồi ở nhà uống rượu với Trung. Không
hiểu hai người này hợp nhau ở điểm nào nữa? Vợ Trung cứ phân vân.
Đường
rừng. Trời tối nhá nhem. Một người đàn ông đi làm về. Dáng hắn tỏ ra mệt mỏi.
Ba người đàn ông nhảy trong bụi cây ra đứng ngáng giữa đường. Một tên dí dao
vào cổ người đi đường.
- Đứng
im.
Người
đàn ông chậm rãi trả lời:
-
Có chuyện gì không ?
-
Có bao nhiêu tiền bỏ ra hết.
-
Có đồng nào đâu mà bỏ ra.
-
Mày cương hả ?
-
Các ông cứ lục soát đi.
Người
đi đường vẫn thái độ chậm rãi. Một tên lục tìm trong túi áo và túi quần và cái
bao cát đeo sau lưng nhưng chẳng tìm ra được một đồng tiền lẻ hay một vật dụng
nào đáng giá cả.
-
Rách việc.
-
Mấy ông “chơi” lộn người rồi.
Một
tên trong bọn quát lớn:
-
Biến
-
Để từ từ người ta đi
Tiếng
một tên có dáng cao to nhất trong bọn:
-
Thằng này ngon nhỉ?
Vẫn
giọng nói chậm rãi:
-
Mấy ông có gấp thì cứ đi đi. Tôi chẵng có chuyện gì mà vội.
-
Mày có biết tao là ai không ?
-
Không biết?
-
Đồ điên. Mày mà không đi thì tao cho một dao bây giờ.
-
Các ông cứ cho một dao để tôi thoát khỏi cuộc đời chó ỉa này.
Ba
cái đầu chụm lại bàn bạc:
-
Tụi mình gặp thằng điên rồi.
-
Tao thấy nó đâu có điên
-
Tao thấy nó quen quen.
Và
hắn nói nhỏ đủ cho ba tên cùng nghe:
-
Hình như thằng rớt tàu.
-
Có phải thằng rớt tàu mà ông Trung xe bò lượm được.
-
Ừ
-
Thôi, thôi. Đụng vào ông Trung xe bò đó là phiền lắm.
Ba
tên cướp im lặng rút vào rừng.
Người
đàn ông đứng nhìn theo rồi lẩm nhẩm: “ Bọn này cũng sợ ở tù như tao”. Người vừa
nói đó chính là thằng Lỳ. Trời tối hẳn.
Thằng
Lỳ không uống cà phê buổi sáng. Thật ra là nó đi nếm thịt chó thuê ở một quán
phía trước ga. Nghe nói chủ quán thịt chó là người luyện một loại bùa phép nào
đó? Ông ta chỉ dám chế biến chứ không dám nếm. Nếu nó chê nhạt thì thêm muối,
chê mặn thì thêm nước vô cho nhạt. Sáng nào thằng Lỳ cũng ăn một chén thịt chó
và uống một xị rượu tiền công. Buổi sáng Lỳ đến quán thịt chó thật sớm để “ làm
công” và hắn về nhà lúc chưa có khách đến ăn sáng. Sau đó nhiều thợ rừng vào nhậu,
họ đến từng tốp, từng tốp rồi uống rượu, ăn thịt chó cho tới chiều. Những cuộc
chửi lộn, đánh lộn diễn ra thường xuyên. Chủ quán không thèm can.
Lỳ
không thích quan hệ với nhiều người nhưng không hiểu sao nó lại thích thằng Hoà
đến như vậy ?! Vợ Trung càu nhàu cho cái tính tào lao của chồng mình. Người gì
mà cứ thích rước ba thứ người cù bất, cù bơ ở đâu đâu về nhà mình. Ngôi nhà lợp
lá của vợ chồng Trung vốn đã nhỏ nay có thêm một người vào ở chung nữa, đó là
Hòa. Ngày nào Hoà cũng đi bốc củi thuê còn Trung và Lỳ đánh xe bò chở gỗ. Cứ
chiều chiều, ba người lại ngồi uống rượu. Có hôm không biết họ nói với nhau những
chuyện gì mà vợ Trung thấy Hoà khóc tại bàn nhậu. Có hôm vợ Trung nghe thằng Lỳ
nói với Hoà “ Đời mày sao buồn như cóc cắn vậy?”. Lúc rảnh rỗi vợ Trung hỏi lý
do thì Trung chỉ trả lời “ Ai mà biết cho được”. Nói vậy nhưng Trung biết rất
rõ hoàn cảnh của thằng Hoà. Trung kể hoàn cảnh của Hòa để vợ biết. Gia đình thằng
Hoà ở cái tỉnh nào đó tận ngoài miền trung và giàu có lắm, nhưng nó bỏ nhà đi
chứ không ở chung với cha mẹ. Hoà có 4 chị em gồm hai trai và hai gái, Hòa con
út. Ai cũng chí thú làm ăn, riêng Hoà thích đờn địch cả ngày nên cha mẹ nó
không thích. Việc không thích đó được phơi bày rõ nhất là khi cha mẹ Hoà tự thấy
mình đã già nên viết di chúc chia tài sản cho các con. Ai cũng có phần nhưng riêng
Hoà thì không. Lý do cha mẹ của Hoà đưa ra là “ Giao của cải cho thằng mê ca
hát thì nó không giữ được”. Hòa bỏ nhà ra đi với những suy nghĩ đến cháy lòng.
Hắn lên chuyến tàu xuôi Nam với ý nghĩ bất định. Không biết ai trên cùng chuyến
tàu đã chỉ cho hắn nơi dung thân. Hắn “rớt” xuống đây. Vậy là nơi này sẵn sàng
dung nạp hắn nhưng với điều kiện là siêng làm, chịu cực và có đủ sức chịu đựng
những cơn sốt rét rừng. Trong cơn đói khát đến tận cùng, người đầu tiên mà Hòa
gặp ở đây chính là Trung. Trung đưa Hòa về nhà của mình, rồi họ gắn kết cuộc đời
với nhau. Không biết đây là điều rủi hay may trong cuộc đời của nhau. Điều mà
nhiều người ở đây không ngờ là Hòa đánh biết chơi đàn và cũng là người duy nhất
ở đây biết chơi đàn. Nhìn bàn tay của Hòa lướt trên cây Guitar và những âm
thanh lả lướt phát ra từ đó, làm cho những khuôn mặt đen đúa, dữ dằn, chai sạn
trước cái đẹp của những người đàn ông đang sống và làm nghề rừng ở đây đều dừng
lại để chiêm nghiệm về cuộc đời mình. Hình như lúc đó con người của họ hiền ra.
Từ tân nhạc cho đến cổ nhạc Hòa đều chơi được nên nhiều người từ đàn ông, đàn
bà, con nít trong xóm rừng cùng tìm đến để nghe Hòa đánh đàn rồi họ cùng hát
theo. Vậy là Hòa trở thành của quý ở cái xóm này.
Không
hiểu Trung nói sao đó mà Hòa lại đi phát rẫy rồi làm một cái chòi bằng gỗ, lợp
lá cho riêng mình. Trong đó Trung và Lỳ cùng phụ với Hòa tất cả các công việc.
Hồi đó việc đi phát rừng làm rẫy không bị chính quyền ngăn cấm, vậy là trên
trái đất mênh mông này đã ưu ái dành cho Hòa một mảnh đất, một tài sản nho nhỏ.
Người
đàn bà chuyên đi mua gỗ về bán cho các nhà máy chế biến gỗ ở trên thành phố đã
phát hiện ra thằng Lỳ ở quán thịt chó. Bà tìm gặp Trung nói nhỏ: “Cái thằng ông
đang nuôi là một tên cướp nổi tiếng. Nó cướp của, giết người rồi bị Công an bắt.
Lợi dụng sơ hở nên nó nhảy tàu trốn thoát”. Trung im lặng. Đêm hôm đó, không hiểu
Trung nói gì với Lỳ mà thấy nó càng lầm lì hơn. Và kể từ đêm hôm đó, thằng Lỳ
vô ngủ ở nhà của Hòa ở trong rẫy, còn ban ngày cả Hòa và Lỳ đều đi bốc gỗ và
đánh xe bò cho Trung. Tiền công của cả hai đều được vợ chồng Trung cất giữ
riêng nhưng chẳng bao giờ thấy họ yêu cầu trả công. Đêm đêm trong căn chòi nằm
sâu trong rẫy phát lên những âm thanh nghe vang vang, réo rắt bằng tiếng đàn
guitar và một giọng ca cổ nhạc đầy ai oán, bi thương... Trong mênh mông của núi
rừng chỉ có một người đàn và một người hát.
Rồi
cái đêm định mệnh đã đến. Trong ánh trăng mờ mờ, có một đàn voi không biết từ
đâu nó đi lạc về đây. Thực ra đàn voi không đi lạc mà đây là một cuộc di cư để
tìm đất sống, bởi vì những cánh rừng nơi chúng cư ngụ từ ngàn đời đã bị tàn phá
đến cạn kiệt. Chúng tìm đến nơi đây dù gỗ quý không còn nhiều nhưng vẫn còn cây
cao, bóng mát cho chúng nương thân. Đàn voi kéo nhau đi trong sự căm hận loài
người đã cướp đi đại ngàn của chúng. Con voi đầu đàn tìm đến chòi rẫy nơi Hòa
và Lỳ đang ngủ, nó rống lên một tiếng thật to để báo hiệu cho đồng loại. Hòa và
Lỳ bật dậy nhưng chưa hiểu điều gì vừa xảy ra. Theo bản năng, cả hai người cùng
bỏ chạy ra khỏi chòi. Lỳ may mắn chạy thoát, riêng Hòa vấp phải gốc cây té xuống.
Vậy là Hòa đã chết dưới lòng căm hận đến tột cùng của đàn voi hung dữ. Căn chòi
cũng bị chúng đạp nát, cây đàn guitar bị chúng hất văng lên và treo lơ lửng
trên ngọn cây.
Hòa
được chôn ngay vào buổi chiều hôm đó bằng những tấm ván được tháo ra từ vách
nhà của Trung. Huyệt mộ cũng được đào ngay nơi Hòa đã chết. Đám tang chỉ có vài
chục thợ rừng đến chứng kiến, không vui không buồn, không có nước mắt rơi, chỉ
có những cái cổ nhướn lên nốc rượu đến say mèm. Trung nói nhỏ với Lỳ: “Hãy để
cho gia đình thằng Hòa nghĩ là nó chỉ bỏ đi vài ba năm rồi cũng phải tìm về
nhà”.
Đêm
đêm, trong nhà Trung vang lên tiếng bài kinh Lạy Cha cùng những lời nguyện “...Lạy chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng
con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng,
nhất là những linh hồn cần đến lòng chúa thương xót hơn.”
Những
con người trong câu chuyện mà tôi đã kể không còn sống ở đây nữa. Sau đám tang
của Hòa, thằng Lỳ được Trung đưa về huyện để đầu thú theo lệnh truy nã được ban
hành từ nhiều năm trước. Tòa án ở thành phố xử nó vì tội tham gia giết người với
mức án là 12 năm tù giam. Ra tù, Lỳ về lại nhà của cha mẹ ruột của mình ở trên
thành phố và chăm chỉ làm ăn chứ không lấy vợ. Lỳ nhận nuôi nhiều đứa trẻ mồ
côi cha mẹ ăn học đến thành tài, trong đó có 3 đứa ở địa phương này. Vợ chồng Trung cũng qua
đời vì bệnh sốt ác tính ít năm sau cái chết của Hòa; hai đứa con gái của vợ chồng
Trung đi lấy chồng xa và lâu lâu mới về thắp nhang cho cha mẹ một lần; khu đất
của gia đình Trung đã được nhà nước thu hồi để xây dựng trường học. Thôi. Vậy
cũng hết một kiếp người!
Mãi
với suy nghĩ mông lung, tôi giật mình khi nghe tiếng xe máy chạy vào. Tiếng một
phụ nữ nói lớn: “Dậy cạo mủ đi”. Tiếng trở mình và ngồi bật dậy của những công
nhân cạo mủ cao su trong lán trại. Họ đang chuẩn bị cho công việc của một ngày
mới. Tôi liếc nhìn đồng hồ, lúc đó là hai giờ sáng.
Trần Duệ
Trần Duệ