Điều
quan trọng với từng cá thể, không chỉ ở con người thuộc vào hàng đẳng cấp
cao nhất trong “thập loại chúng sinh” nói chung. Có đúng sự sống là trên tất
cả? Một khi đã trưởng thành về mặt lý trí và tâm thức, con người thiết
lập ra một tương quan vững chãi và sáng tạo. Con người đang hành động là để
nhân danh cái tôi trong mọi nỗ lực ý thức. Động cơ thúc đẩy tình cảm của con
người đích thực là những động cơ nào? Khó mà trả lời thuyết phục. Có thể (ta)
đã và đang nhìn thấy được những lực hấp dẫn và xô đẩy, những yêu thương, hờn
giận, những lên cơn, đờ đẫn… là trầm hệ trong sự khám phá muôn thuở trên bề mặt
quả cầu đất này.
Nhà thơ Võ Văn Luyến |
Có
cần diễn tả nhu cầu cảm thông và bất khả cảm thông? Mặc nhiên bút pháp thật thân
tình của tiến trình sáng tạo luôn phơi bày màu sắc quê hương toàn diện và hiện
thực bất biến, những hình ảnh đã hòa hợp vào tâm hồn thi nhân. Một khuynh hướng
tự do khai triển không vượt quá giới hạn văn chương thẩm mỹ, và ngược lại
không bị giam cầm trong những phổ quyết nhất định của kiếp con người: “Mấy
mùa sim hẹn tôi về/ Nắng day dưa nhớ, mưa mê mải tìm …” “Mấy mùa trăng lạc ca
dao/ Cỏ hoa chúm chím môi đào dạ thưa…” hay là một phản tỉnh vỗ về?: “Nẻo
vui phố cưới cơn mê/ Chiều xa ngồi vớt câu thề trôi sông…”(Khúc trầm-Gửi miền
sương ngọt – trang 11&12).
Có
một thứ ánh sáng tinh tuyền xuyên thủng vòm trời tiên thiên của linh hồn thi
nhân. Chính vì vậy, nó xác định và tập hợp những gì được gọi là phức số định
mệnh , để rồi hòa nhập vào ý thức thượng đẳng: “Khi những sợi mưa tơ giăng
trước nhà/ Những nụ xuân nói điều chi rất khẽ…” một khi sự vận dụng của trí
tuệ hiện thể: “Tuổi chín mươi ngày gần tháng xa/ Đong mưa nắng ủ mầm hạt
nhớ/ Đêm ngắn hơn chiêm bao/ Tự tình mẹ với ngọn đèn trăn trở”… (Mẹ ơi xuân đến
rồi kìa – trang 13&14).
Thi
nhân không thể trầm mình vào lòng một vũ trụ với trí tưởng tượng khôi hài. Vì
sao? Bởi lẽ sự sáng tạo sẽ hình thành một kích độ khởi diễn cường điệu trong từ
chương thi ca giả tạo. Làm thế nào để tìm cách diễn tả được bối cảnh thiên
nhiên thực tại? Không cần phải toan tính sắp xếp… thiên nhiên luôn tồn tại và
thật gần với con người. Chỉ có những tinh thần phá chấp mới thể hiện rõ cái
thiên chức khảo sát và tạo ra thứ ngôn ngữ rực rỡ sắc màu: “Những con chim
mang mùa đông đi biệt/ Hàng cây tự tình tay gối gió đêm/ Mắt lá thẳm câu thơ
chừng canh tết/ Tuổi khói sương cúi vai mẹ rưng thềm”…(Xuân thức – trang
18&19).
Con
người dùng ngôn từ hoặc hình ảnh… để khám phá ra một thế giới siêu việt. Đó
chính là mối tương quan mật thiết của nhiều văn-nghệ sĩ, mọi sự cố gắng để được
hòa mình với trật tự thiên nhiên bất di bất dịch, có thể hy sinh cả một đời
người và nghĩ cái chết là để trở về đại ngã. Sự cấu tạo ngôn từ đều phải được
thanh lọc, một khi tâm hồn hết vẩn đục ánh lên sáng ngời: “Dòng sông tự mình
rõ nắng mưa ấm lạnh, mặc rối nhiễu giông gió mây vần, mặc sáng tối vây quanh,
mặc suối khe dự cuộc chia phần…Dòng sông ơn biển thẳm non cao, ơn chí bền tình
sâu đất lặng, ơn tuổi thơ thuyền giấy, ơn con chuồn chuồn tin cậy, ơn tóc xỏa
mái nhì mái đẩy, ơn đôi bờ bồi lở sinh thành” (Tâm thức xuân – trang 22).
Nghệ
thuật đã được khẳng định, là cảm giác của trường tượng trưng nhưng đem kết tinh
lại theo một tinh thần nghiêm khắc, có thể sẽ đạt đến mức lấy sự trầm tư mà
thấu triệt nội tâm và ngoại giới: “Khe Sanh giọt sương không tan/ Long lanh
dưới tán lá rợp/ Tôi có bốn mươi tám giờ tơ nõn diệp lục/ Nhói giấc mơ trốn
tìm” Sao lại chỉ bốn mươi tám giờ. VVL có đúng là một thi nhân cô đơn hay
đã tràn đầy hạnh phúc? Một lối viết trải nguồn tâm sự: …“Khe Sanh đập nhịp
chập chùng/ Câu thơ ướm tà áo mỏng/ Ngựa hí nhà ai khớp móng/ Kiệu vàng rước
một đơn côi” (Khe Sanh mắt chớp – trang 26).
“Ta
ngồi đó chờ đợi, không chờ đợi gì cả, chờ đợi vô thể, chờ đợi không chờ đợi –
Nietzsche và tiếng nói heo hút của Heidegger …” (Im lặng Hố Thẳm – Phạm Công
Thiện dịch). Thi ca xuất phát từ xúc cảm chủ quan trong sự sáng tạo tâm tư, thi
nhân luôn vượt lên trên đời sống thực dụng. Tất cả những hiện thể chỉ là cái cớ
để thử thách khả năng chính (ta) khi chạm vào ngôn ngữ: “Những núi đồi cỏ
xanh ngậm sương/ Có gì đăm chiêu trong mắt ngựa chiến/ Kinh thành sau lưng lửa
trời binh biến/ Cháy tâm can . Rạn vỡ đêm dày”…(Sự minh triết trong thành Tân
Sở - trang27&28).
Trong
khoảng khắc đi tìm vĩnh cửu, thi nhân dừng bước chân để chiêm nghiệm sự mầu
nhiệm của đất trời và vẻ vô thường của đời sống, nhưng với niềm tin cùng những
rung cảm thì đời sống biến thành sự thật vĩnh tồn: “Biển gọi anh về/ Con
sóng trắng miên man ngực bể…Những mắt đèn chong thức vào khuya/ Bóng đổ dài
trên cát… Về đây nghe gió ngân vô hồi/ Hạt muối quên có mình làm chứng/ Con tàu
quên đếm tuổi đi ngày tháng… (Biển xưng tụng – trang 32&33).
(Khi
tiếp xúc có thì cảm thụ có, khi tiếp xúc không thì cảm thụ không”. Đó là nói về
tiến trình của sự thay đổi phù hợp với các tác dụng tức thời. Câu hỏi:
“ai tiếp xúc, ai cảm thụ” nếu đặt ra sẽ không hợp lý vì cho dù sự suy tưởng
theo cách quy giản đến vô tận thì cái “ai” làm chủ thể này vẫn không thể
xác định được… lời giảng do Gotama Siddhatha). Một sự tái tạo tư tưởng
mãnh liệt, những gì thấp hèn “rất ký sinh” nó được chuyển thể thành thứ chất
liệu từ chương tinh túy: “Những con rận lạc nhau trong rừng tóc hoa
râm/ Trăm năm ngàn năm trước vẫn còn ngơ ngác…Những con rận yêu nhau có theo
mùa không nhỉ/ Có hờn ghen khi tranh chấp bạn tình?…Tôi rỗng không chốn hoang
đường nắng đổ/ Ngọn gió nào cũng thổi phía xa xôi. (Gió thổi phía hoang đường –
trang 36&37).
Quá
khứ sẽ tái hiện lại khi (ta) hoài niệm hay trong giấc mơ… chính là sự mạc khải
làm cho văn-nghệ sĩ hiểu rằng đời sống có cái gì rất đáng sống, cho dù tiềm thế
đang ngủ vùi dưới lớp bụi thời gian, nhưng nó sẽ được thể hiện trong tâm trí
của con người: “Bọc trong hạt cát trắng tinh/ Từ tâm soi tỏ dáng hình quê
hương/ Nắng mưa dầu dãi vô thường/ Cao sâu chín chữ tạ ơn sinh thành” (Tạ ơn
sinh thành – trang 42).
Võ
Văn Luyến cấu tạo nét chân thực ở bên trên thực tại đời sống, thi nhân đã làm
nổi bật yếu tính đời sống. Không thể tìm thấy nỗi bất bình với mọi người và bất
bình với cái tôi. Niềm tự hào chính mình trong sự yên lặng và trong sự cô đơn
của bóng đêm: “Khi không tự hành hạ mình mất ngủ/ Khi không lũ chó sủa đêm
chọc tức…Khi không thấy triết lý kỳ nhông đổi màu đáng sợ/ Khi không kẻ quỵt nợ
tình chui vào mặt nạ…Khi không muốn làm ăn mày sang trọng/ Khi không viết những
câu thơ vô hồn. (Lan man đêm mất ngủ - trang 66).
Có
biết bao người chống lại hoặc tìm phương cách thoát ly ra ngoài hiện tại. Có
phải đó là thái độ trú ẩn vào tháp ngà? Chỉ là sắc thái mong manh của tâm tình!
Văn-nghệ sĩ là những con người thật sư tự do, họ cố đi sâu vào ẩn mật tiềm
tàng: “Ửng trên ngọn nắng không mùa/ Bỗng dưng cơn gió năm xưa xanh màu/ Từ
hồn mục rã thương đau/ Ta như mới thấy cây sầu trổ bông. (Hóa hiện – trang 82).
Thì hãy cứ giam mình vào mê lộ cô đơn lúc bấy giờ (ta) đã hoàn tất những gì
thuộc về ước vọng: “Trời thả một chiếc lá vàng/ Thế là mặt đất nguyện làm
mùa thu/ Em đi từ buổi sương mù/ Chiêm bao tôi gặp lời ru vọng buồn.” (Vọng –
trang 83).
Văn-nghệ
sĩ là người mãi đi tìm những hình thái và câu chữ Đẹp để làm một phương tiện
tri thức. Tất nhiên là để tra vấn cái chưa từng biết được ý nghĩa của đời sống.
Khi tác phẩm hiện hữu thì nó trở thành: mệnh đề tuyệt đối với khả năng tri
thức… “ Với Thi ca, quan hệ với chúng ta như là một kinh nghiệm, nghĩa là
một cái gì phải được sống qua. Chúng ta coi đó là một trong những hình thức tối
thượng… Vì vậy ta không nên lấy làm ngạc nhiên rằng tình yêu và thi ca hiện
thân với chúng ta, hai khuôn mặt cùng chung một thực tại… - Octavio Paz
Lozano”.
Người câu bóng mình Nxb Hội nhà văn – 2011 (gồm 67 bài thơ). Những câu thơ
tiêu biểu tôi trích ra trong bài viết, là để cảm nhận nghệ thuật thơ Võ
Văn Luyến một người “mần” thơ của đất Quảng Trị.
Thành phố Tây Ninh - cuối mùa xuân 2014
Khaly Chàm
Khaly Chàm