Nhà thơ Yến Lan lúc còn trẻ
CHIỀU
CHIỀU MÂY KÉO VỀ KINH
Sau một chuyến đi dài vào mảnh đất tận miền
Tây Tổ quốc, tôi trở về quê, lòng chưa ráo nỗi nhớ đường, nhớ sá, thì trời đã
chớm sang thu. Khắp khu đất nội thành Bình Định mênh mông, mùa gòn đang tách
vỏ. Những tiếng ve sầu còn sót lại, vẳng lên khí đìu hiu. Lòng tôi cũng lơ lửng
như những múi bông gòn trên chớp nóc nhà dân xiu vẹo, trên những mái cong dinh
thự rêu phong. Thư viết cho bè bạn, lúc nào cũng nói đến nỗi ray rứt muốn được
tiếp tục đi xa.
Một buổi sáng tôi nhận được bức thư của người bạn gái, quen nhau
hôm ở Hà Tiên, do chị Mộng Tuyết giới thiệu. Vì là bạn thân, chị biết tôi đang
sống khó khăn, hàng ngày đối phó với một bà dì ghẻ khó tính, những sự vụn vặt
ngày thường choán hết hứng khởi sáng tạo. Chị tán thành và khuyên tôi nên thay
đổi không khí. Bức thư kèm theo giấy chuyển tiền đủ chi dùng cho một cuộc đi
dài và nếu lâm vào cảnh lữ thứ, có thể sống trong vài tháng. Thế là tôi chuẩn
bị một cuộc ra đi, cũng chưa rõ là đi đâu. Tiếp đến hôm sau thì tôi nhận được
một bức của Vũ Trọng Can.
Lâu nay Can vẫn thường viết cho tôi, nhất là những ngày Can ở
trong tòa soạn “Tiểu thuyết thứ năm”, từ Hà Nội. Bức thư này lại từ Huế, đại
khái như sau: Báo chết rồi, bọn Can đang chuyển sang hoạt động sân khấu. Đang
thành lập một Ban kịch với chương trình sẽ đi biểu diễn từ Bắc vào Nam. Hiện
“Cập bến Bông Hương”. Nếu Yến Lan thích cuộc sống lưu động để tiêu sầu này, thì
ra gia nhập với bọn mình…”
Đọc thư, tôi ngồi tưởng tượng… tưởng tượng… bao nhiêu kỳ thú,
sôi động, hào nhoáng và mê ly… Cả một cuộc sống lan tỏa hoa đăng… cả một kho dự
trữ và luyến ái và thi tứ. Và tôi quyết định nhập cuộc. Nhưng cũng phải đề
phòng, nếu đó chỉ là câu chuyện bốc đồng? Nhưng lòng muốn ra đi luôn luôn thôi
thúc, tự nhiên tôi nghĩ đến cái phương châm “đến đâu hay đó” khi nhỡ ra là
những chuyến tàu suốt vào Nam ra Bắc hàng ngày đều tránh nhau ở ga Bình Định.
Và tôi nghĩ: hãy lên ga cái đã – hễ tàu ra bán vé trước thì ta ra, và ngược
lại…
Hôm ấy tàu ra đi trước, vừa khi lên tàu, tôi nhờ một người bạn
đưa chân, đánh điện cho Can.
Tôi đến Huế vào khoảng hơn 8 giờ đêm. Cả “Ban kịch” đều ra đón
tôi, gồm có Vũ Trọng Can, Nguyễn Bính và một chàng thanh niên. Sáng hôm sau tôi
mới biết chàng trai này thuộc về loại đi theo điểu đóm. Ngoài ra, không còn gì
nữa.
Lần đầu tiên mới gặp Nguyễn Bính – trước thì cũng chưa có thư
từ, quan hệ gì. Chúng tôi nắm tay, bá cổ nhau, chào mừng rối rít. Và Huế… Huế,
vừa mới chạm lên vài sải bước chân, sao đã nghe thấy dậy trong lòng nỗi êm dịu,
ngọt ngào khó tả.
Bốn chiếc xe tay do Nguyễn Bính chỉ dẫn, đưa bốn người chúng tôi
từ cửa ga đến tận Gia Hội, đỗ ở trước một hiệu ăn khá lớn. Cơm, rượu no nê, bốn
chiếc xe lại đưa chúng tôi về nhà trọ ở bên kia cầu Tràng Tiền, cách Đập đá
chẳng bao xa.
Ông chủ nhà trọ ra mở cửa, dáng điệu bực bội và khi nhìn thấy
tôi, thốt những câu gì làu bàu, không rõ. Tôi tinh ý, biết ngay là có sự phiền
hà.
Nhà trọ đây không phải là lữ quán chứa tạm khách lai vãng một
vài hôm. Nó là một căn nhà thờ họ, người kế thừa nhận cho trọ lâu dài và nấu
cơm tháng.
Phòng trọ chứa nửa của “Ban kịch”, nhưng khi có tôi thêm càng
chật ních. Đêm ấy tôi nằm bên Vũ Trọng Can, thao thức mãi vì cứ nghĩ lan man.
Tôi đâm ra trách người rồi trách cảnh. Huế ơi, sao trước đây vài
giờ, qua những bước đầu tiên tôi đặt xuống sân ga, Huế hồn nhiên, kiều lệ, dồn
lên tâm hồn tôi bao nhiêu êm dịu, ngọt ngào, thế mà giờ đây, một không khí
phiền hà, lãnh đạm đang chập chờn phủ tới.
Tôi đem nỗi dằn vặt ấy hỏi, Vũ Trọng Can thì thầm:
– Cũng là điều đáng quan tâm, nhưng không can gì cái việc thường
tình ấy. Ngày mai chúng ta sẽ tìm cách giải quyết, chúng mình đang thiếu ông
chủ nhà một tháng tiền cơm, giờ thấy có thêm cậu nữa. Ờ mà thôi, rồi sẽ có
cách… khẩn trương đấy, chiều nay ông chủ trọ đã báo là ngày mai sẽ cắt và đề
nghị bọn mình dọn đi.
Nhân đó, tôi hỏi: Thế thì Ban kịch của cậu đâu? Hoạt động ra sao
rồi? Can cố giấu cái thở dài, nuốt nghẹn ở cổ:
– Ban bệ, kịch cợm gì đâu. Bọn mình chán Hà Nội, nên rủ nhau đi
du ngoạn một chuyến với ý định sẽ thành lập một ban kịch để làm cứu cánh về mặt
tài chánh. Nghĩ đến cậu đang nằm khoèo ở tỉnh lẻ, mình viết thư gọi cậu ra chơi
cho đỡ buồn.
Nghe xong tôi cũng nghẹn ngào ở cổ. Biết tôi không thích liều
lĩnh – Can trấn an bằng cả một thôi dài tâm sự: Can đã nghĩ ra nhiều biện pháp
xoay sở cho ra tiền. Can đã có ý định diễn kịch đảm nhiệm phần dàn dựng, quảng
cáo, bán vé và thu tiền rồi chi cho nhau chỉ tiêu phần trăm quy định. Can cho
biết cụ thể, việc Can đã tìm gặp và trao đổi với Hà Xuân Tế thư ký riêng của
Nam Phương Hoàng hậu (thay chân cho Nguyễn Tiến Lãng đã đi nhận chức phủ thừa).
Hà Xuân Tế lại là chủ tịch của Hội A.A.A (gọi là hội 3 chữ A) tên gọi tắt của
một hội hoạt động thể thao thể dục. Thực ra nó là của ông Hoàng bà Chúa chọn
riêng một môn quần vợt, cùng giao hữu với hạng công chức cao cấp. Can còn phải
làm sao cho ra kịch bản và diễn viên là phần được phân nhiệm. Cuối cùng Can
hỏi:
– Cậu còn bao nhiêu?
– Vừa tiêu phí nội ngày hôm nay, chỉ còn đủ trả một tháng cơm
bình dân.
– Thế thì tốt. Ngày mai ta sẽ lấy tiền ấy tạm ứng cho ông chủ.
Rồi sẽ vui vẻ cả thôi.
Sáng hôm sau, với tâm trạng một người “lỡ bước” tôi bỏ cuộc đi
chơi núi Ngự, đã hẹn với Nguyễn Bính lúc ở tiệm ăn Gia Hội đề nghị khẩn trương
họp nhau lại bàn qua chuyện diễn kịch. Chúng tôi ngồi lại trên mấy cố vấn trần,
nghiêm chỉnh thảo luận. Qua sự trình bày của Vũ Trọng Can về mấy phác thảo các
vở kịch nói Can định viết từ hôm rời Hà Nội đi vào, thì còn xa với yêu cầu đang
đặt ra. Bàn sâu, tính rộng mãi, chúng tôi đi đến nhất trí: diễn thuật mới mà
Huế là nôi thể nghiệm đầu tiên. Thực ra đó chỉ là những lời khoác lác để cười
với nhau, chứ mục tiêu chính là ở chỗ cố làm sao cho hấp dẫn để có được khoảng
thu kha khá, trang trải nợ nần và còn ung dung thưởng ngoạn. Để cho thật hấp dẫn,
chúng tôi nghĩ đến những câu chuyện ly kỳ ở các huyền thoại, nhất là ở “Đông
chu liệt quốc”, dựa vào dã sử hoặc hư cấu ra cốt truyện theo không khí dã sử.
Nhân vật sẽ là những con người cá biệt cực đoan, tình huống phải thật éo le,
tâm tư luôn dằn vặt. Và cũng để cho vở kịch đưa ra một giải đề gì về mặt nội
dung, chúng tôi nghĩ ngay đến cái tư tưởng hủ bại đang còn ngự trị trong tầng
lớp thượng lưu, luôn luôn tôn sùng quyền thế, chạy theo danh vọng mưu cầu một
cuộc sống “Võng lọng xênh xang” đang còn nhan nhản ở Huế. Một điển hình người
sẽ hiện lên sân khấu, xách gươm báu đi săn đuổi giật lấy vinh quang, đã thủ
tiêu ân tình, phản bác đạo lý và tiêu ma cái đẹp. Đó là phác thảo đầu tiên do
tập thể ba người góp nhau trong một buổi sớm. Cơm xong, tranh thủ bỏ giấc trưa,
bàn tiếp luôn các chi tiết: Bí quyết làm cho gươm thêm thiêng (cái điều kiện
duy nhất đưa đến vinh quang của một tráng sĩ cuồng ngông) là phải tôi gươm lần
nữa vào máu ba người tình cờ gặp trên đường đi–theo lời thần mộng. Việc phác
thảo này như một cuộc múa gậy trong phòng–Nhân vật nhất thiết phải lệ thuộc số
người có sẵn, mà ngoài chúng tôi thì chắc gì có thể nhờ vào được ai? Loại trừ
em thanh niên sẽ chạy vòng ngoài, cả ba thằng nhà văn, nhà thơ chúng tôi phải
lãnh vai mà đóng. Thế thì vở kịch chỉ có ba nhân vật sao? Và toàn là nam giới
cả thì còn đâu cái nhưng cái nhị của sự hấp dẫn? Biểu tượng của cái đẹp bị tiêu
ma trong kịch sẽ là nhan sắc của một người con gái thùy mị, đoan trang.
Nguyễn Bính tả và kể ra
những em Đào, em Lý, cô Mừng, cô Thương với khá nhiều thiếu nữ, thiếu phụ mà
anh từng gặp trên các nẽo đường phố của Huế…
Vũ Trọng Can cũng tả và kể ra những em Đào, em Lý, cô Mừng, cô
Thương của mình, nhưng phải kết luận: có trời mà vận động cho các gia đình ở
đây người ta đồng ý cho con, em mình tham gia lên sân khấu. Nhất là con gái.
Thế là lâm vào thế kẹt.
Trước đó không lâu,
Nguyễn Bính có sáng tác một bài thơ, nhan đề “Xóm Ngự viên”. Đó là bài thơ hay,
được tán thưởng. Bính đã chép lại trên một tờ giấy nguyên khổ, giấy in báo, nét
chữ to, bay bướm, treo trên tường trước mặt. Tình cờ tôi ngước lên, liền hỏi
với một ý nghĩ bâng quơ:
– Xóm Ngự viên ở phía nào nhỉ. Hôm nào vào đấy xem cho biết.
Vũ Trọng Can bổng nhảy người lên
-Ngự viên, Ngự viên–đúng rồi. Ừ nhỉ, sao mình quên bẵng đi.
Rồi đột ngột Can đứng lên:
– Mình với Nguyễn Bính sẽ vào đó, có một cô gái lai Pháp, mồ côi
từ nhỏ. Hiện bán chè rao nuôi mẹ. Nhất định sẽ thuyết phục được. Cô ta sẽ là
nhân vật biểu tượng xứng đáng cho cái đẹp trong vở kịch.
Rồi hai người lội bộ ra đi. Mấy giờ sau tin về, phấn khổi, cô
gái rất đẹp, không đề ra điều kiện khó khăn nào, duy có một điểm làm cho tôi
ngẩn ngơ giây lát, là cô ta mù chữ. Sau việc báo tin đến việc bàn biện pháp
khắc phục. Đành sử dụng sắc đẹp của cô gái thôi, và sắc đẹp cần gì phải thốt
lên lời mới gây được đắm say, mới quyến rũ. Một vẻ buồn của Tây Thi xưa cũng đủ
khiến nghiêng thành, nghiêng nước. Chính vì vậy mà vai người đẹp trong vở kịch
không thốt một lời nào. Trong các luận bàn, tội là người hăng say nhất, vì mình
thế thôi thúc: đã đến Huế rồi, phải tạo điều kiện để ở cùng Huế cho đã cơn khát
Huế, dù chỉ là bằng những ngụm nước vốc lên từ mặt sông Hương. Không có sự phân
công, không có cuộc tranh phần, mặc nhiên tôi thành người chấp bút.
Chẳng cần phải tra cứu, đối chiếu gì. Nó như được sắp xếp lớp
lang sẵn ở một bản nháp, giờ chỉ có việc chép lại, nên vở kịch hoàn thành vào
cuối buổi sáng hôm sau. Buổi chiều đưa bản thảo ra duyệt, bổ sung và có gì cần
thì tập thể chỉnh lý. Vừa mới bắt đầu đã thấy Chu Ngọc bước vào. Ngọc là người
am hiểu nhiều về sân khấu. Anh vốn là đạo diễn và từng làm trưởng Ban những ban
kịch nói thỉnh thoảng xuất hiện vào mùa kịch ở Hà Nội, vở kịch được thông qua
nhanh. Chỉ có đôi lúc nảy ra vài cuộc cãi cọ giữa tôi và Nguyễn Bính về phong
cách và ngôn ngữ. Bính chê văn ngôn quá Tây bắt chữa lại mấy chỗ. Tôi tự ái, bỏ
đi cùng Chu Ngọc ra hóng mát cầu Tràng Tiền. Chiều về, không có bàn cãi gì về
vở kịch nữa. Vũ Trọng Can bàn với tôi là rủ đi ngay đến Hà Xuân Tế và được hẹn
sáng mai sẽ trả lời, vì còn cần đọc.
– Vì có Hoàng Đế dự xem. Nếu vở kịch thêm một vài đoạn có tính
cách tôn vinh thì nhất định sẽ nhiều đặc ân cho các hoạt động sau này. Các anh
mang và bổ sung cho khéo léo một chút. Tôi biết đây là một xảo thuật trong nghề
làm quan, vị thư ký riêng của Hoàng hậu này ứng dụng nhạy bén cho tiền đồ. Thì
cứ để anh ta như nguyện, có gì xúc phạm đến nghệ thuật, đến mình đâu mà chối
từ. Tôi liền vui vẻ nhận lời, nhưng không đợi đến lúc về nhà, tới ngay bàn làm
việc, loáy hoáy một thôi, thêm được chục câu thơ mang tính cách tôn xưng chung
chung, hướng về một ông minh quân đó.
Hai hôm sau thì giữa lòng Huế xôn xao lên vì những áp phích,
những tờ quảng cáo cho vở kịch, dán ở các công trình công cộng và các mặt tường
nhà thoáng rộng. Nhất là ở các ngã tư đại lộ, những biểu ngữ bằng nguyên súc
vải trắng, được dán lên những hàng chữ đỏ viết bằng tiếng Pháp:
Bóng giai nhân
Bi
tráng kịch bằng thơ của Yến Lan và Nguyễn Bính
Sẽ
trình diễn ở Accueil vào các đêm…
Dưới
quyền chủ tọa của Hoàng đế Bảo Đại và Nam Phương Hoàng hậu.
Mặc dù đã trải qua những cơn hồi hộp vì hạnh ngộ ban đầu khi
được nêu dưới những bài thơ đăng trên báo chí, tôi vẫn cảm thấy phấn khởi đến
dạt dào. Riêng Nguyễn Bính thì anh lại hồ hởi với những ý nghĩ cuồng nhiệt
trong vẻ cợt đùa nói tếu:
– Vua ông đi xem, vua bà đi xem, thế thì tam cung lục viện cũng
đi xem. Rồi sáu bộ cũng tháp tùng. Chà, chà, cả Huế đều đi xem tất. Thế thì
tiền vé để đâu cho hết. Chuyến này phải thả lên sông Hương sáu con đò kết lại
làm một khách sạn nổi… Ba con làm phòng ngủ, ba con chở theo bàn đèn, bia,
rượu, nem, chả, chè, cháo… tha hồ mà lạc hưởng
Đấy là chuyện đùa vui, không có sự bàn cãi.
Trong mấy ngày tập luyện, tôi vẫn đến nhà Lành đạo diễn cho đến
thuần thục, dù sao tôi vẫn tiếc, giá như Lành biết chữ, thì nhất định tôi sẽ cố
gắng viết lại màn kịch thành chương tuyệt tác, điều ấy đòi hỏi ở tôi một cố
gắng vượt bậc, nhưng xứng đáng với Huế, với một nhan sắc yêu kiều.
Cuộc biểu diễn đêm đầu–và cũng là đêm kết thúc không thu được
kết quả như lòng tôi mong muốn. Diễn xuất có vẻ vội, không đạt tới mức chứa và
tầm nâng của lời thơ. Về mặt tổ chức, Hội A.A.A bỏ rơi diễn viên trong cái thế
chơi vơi của một khoang đồ thủng đáy. Không có một bàn tay tháo vát xếp đặt, bỏ
sân khấu trống trơ giữa bốn cánh gà và lá màn hậu, mặc dù chúng tôi yêu cầu
trang trí hết sức giản đơn theo lối tượng trưng. Cả một chiếc hòm to đựng các
đồ lễ, vũ khí, mũ giày mượn từ trong nội cung ra, cũng không đáp ứng được yêu
cầu. May mà bọn diễn viên chúng tôi không hiện ra sân khấu với những trang phục
quá cỡ, tả tơi, meo mốc, nhờ biết đề phòng đã chạy trước từ sáng hôm ấy, đến
nhà Nguyễn Tiến Lãng, mượn các Kimônô anh mang từ Nhật Bản về, nhân lúc tháp
tùng theo phái đoàn ngoại giao của tên toàn quyền khâm sai Yue Chatel. Nhất là
khoảng tiền thu: một hội trường có sức chứa gần ba nghìn người đã chật ních –
Giá vé thấp nhất, năm hào, mặc dù đêm ấy Bảo Đại không đến xem vì có sự kiện
đột xuất, chuẩn bị Bắc tuần, cả Nam Phương, cả viên Khâm sứ Pháp đều theo,
nhưng cũng gởi đến gọi là “Ban tứ” cho đêm diễn, mỗi vị 15 đồng, cộng với số
tiền quảng cáo cho cuộc xổ số Đông pháp cũng chừng 15 đồng, tiền vé 20 đồng.
Sau này người ta đổ cho việc lạm phát giấy mời. Chúng tôi vở
mộng–nhất là Nguyễn Bính với viễn cảnh sáu con đò… Nhưng có một điều an ủi mà
cho đến bây giờ, mỗi lần nhắc đế, tôi vẫn không quên được từng chi tiết, dù là
thoáng qua: Giữa lúc màn kịch cuối cùng hạ nhanh, khán giả sắp lưng vào phía
sân khấu chen nhau cuồn cuộn như một dòng nước thoát ra phía cửa, thì các anh
Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh và vài bạn nữa vượt lên sân khấu, đến cầm tay siết
chặt từng người. Anh Lư nói bằng tiến Pháp “Tuyệt, tuyệt, tuyệt vời” không biết
anh khen ngợi một pha nào trong lúc diễn xuất, hay khen vở kịch, về tình huống
đầy kich tính, về bút pháp bay bướm văn chương, mà lúc ấy đang là những năm vừa
mới thoát ra sự phôi thai của nền thơ mới Việt Nam.
Khi rạp đã trở lại vắng vẻ “Bóng giai nhân” đã biến đi lúc nào
không hay, Nguyễn Bính cũng đi rồi. Tôi và Vũ Trọng Can thu nhặt hết các dụng
cụ, đồ trang phục cho vào chiếc hòm gỗ to, và..
Mỗi người nâng lên một quai hòm, hai chúng tôi ì ạch kéo lê bốn
cẳng chân rời rã, mỏi mệt, dầm dưới cơn mưa đêm cuối hạ của Huế, lần bước cho
đến khuya mới đến cửa nhà trọ. Ông chủ ra mở cửa, thò tay nâng cho chiếc quan
tôi đang xách, như đã cảm thông tất cả nỗi niềm đang đè nặng lòng tôi.
Sáng hôm sau, tôi ra An Cựu tìm gặp lại người bạn học cũ ở Bình
Định, tình cờ gặp nhau giữa đường hôm nọ, tôi hỏi vay hai đồng bạc – số tiền
vừa đủ cho xuất vé và đĩa cơm trong chuyến tàu suốt vào Nam, sẽ trả tôi về với
cái không khí cô liêu cố hữu từ xưa, ngày ngày nghe vẳng lên một câu hát ru
con, không biết do tình huống nào mà có, giờ lại nhằm đúng vào tâm trạng của
tôi:
Chiều chiều mây kéo về kinh
Ếch kêu giếng loạn thảm tình đôi ta.
Yến Lan