NHỮNG THÀNH NGỮ CÓ XUẤT XỨ TỪ THƠ CỔ
VÀ ĐIỂN CỐ - PHẦN 11
(25) 三顾茅庐[tam cố mao lư] (ba lần đến lều tranh)
Thành ngữ này có xuất xứ từ
"Xuất sư biểu" của Gia Cát Lượng thời Tam Quốc.
Cuối thời Đông Hán, Lưu Bị bị
Tào Tháo đánh bại, phải chạy sang Kinh Châu với Lưu Biểu. Nhằm gây
dựng nghiệp lớn, Lưu Bị đã đi khắp nơi tìm kiếm nhân tài, chiêu mộ
hiền sĩ. Sau danh sĩ Kinh Châu Tư Mã Huy đã tiến cử với ông "Ngọa
Long tiên sinh" Gia Cát Lượng.
Gia Cát Lượng sống ẩn cư ở Long
Trung cách phía tây thành Tương Dương 20 dặm, dưới mái nhà tranh vách
nứa và làm nghề đồng áng̣. Ông học thức uyên bác, tinh thông sử
sách, là một nhân tài kiệt xuất. Lưu Bị được biết bèn đến Long Trung
thăm viếng. Ông trước sau đến Long Trung ba lần, hai lần trước Gia Cát
Lượng đều tránh không gặp, đến lần thứ ba mới chịu ra tiếp đón. Gia
Cát Lượng đã cùng Lưu Bị phân tích tình hình thời cuộc, thảo luận
việc giành chính quyền ra sao, và kế sách thống nhất thiên hạ, khiến
Lưu Bị vô cùng khâm phục, nguyện tôn Gia Cát Lượng làm quân sư, gây
dựng lại Hán thất. Gia Cát Lượng cảm động trước tấm lòng chân thành
của Lưu Bị đã ba lần đến lều tranh mời mình, liền ưng thuận ra giúp
Lưu Bị tranh đoạt thiên hạ.
Từ đó Gia Cát Lượng trở thành
trợ thủ đắc lực của Lưu Bị, phía đông liên minh với Tôn Quyền, phía
bắc đánh Tào Tháo, lần lượt chiếm được Kinh Châu và Ích Châu, lập
nên chính quyền Thục Hán, hình thành ba nước thế chân vạc Ngụy,
Thục, Ngô.
Trước khi qua đời, Gia Cát Lượng
đã viết cho hậu chủ Lưu Thiền tờ "Xuất sư biểu" trong có
đoạn viết: "Tiên đế đã không chê thần là kẻ thấp hèn, đã ba lần
đến lều tranh mời thần.
Có nhiều người
đặt dấu hỏi rằng “tam cố mao lư” cùng với việc Gia Cát Lượng tại Phàn Thành tự
thỉnh cầu tương kiến là chuyện thật hay chuyện bịa? Học giả đời Thanh Hồng Di
Huyên 洪颐煊
trong Chư sử khảo dị 诸史考异 nói rằng Gia Cát Lượng lần đầu gặp Lưu Bị tại Phàn
Thành, Lưu Bị tuy đãi vào hàng thượng khách, nhưng không đặc biệt coi trọng. Đợi
đến khi Từ Thứ tiến cử, Lưu bị lần thứ hai gặp mặt mới dần có cảm tình sâu đậm.
Đồng thời chỉ ra rằng: Lần gặp đầu tiên vào năm Kiến An 建安 thứ 12, lần thứ hai vào năm Kiến An
thứ 13.
Gia Cát Lượng và Lưu Bị rốt cuộc “nhất kiến”, “tái kiến” hay là “tam kiến”, điều
này chỉ có người đương sự mới biết, nhưng “câu chuyện “tam cố mao lư” lưu truyền
lại hấp dẫn rất nhiều người. ". Qua đó đã biểu lộ được sự hoài
niệm sâu sắc của Gia Cát Lượng đối với ân chi ngộ của Lưu Bị, tình
cảm hết sức chân thành và rung động lòng người cho tới ngày nay.
( 26)漂母之恩/漂母饭信
[Phiếu Mẫu chi ân]
(ơn Phiếu Mẫu/ Bát cơm Phiếu Mẫu)
Bà Phiếu Mẫu, nhànghèo khó, đã giúp Hàn Tín trong cơn đói cơm rách áo. Thuở hàn
vi, Hàn Tín nghèo rớt mồng tơi, ngày ngày câu cá, nhưng cũng không kiếm đủ miếng
ăn. Tuy vậy, Hàn Tín lại rất ham mê đèn sách, nghiên n cứu binh thư; lại muốn
ra oai như mình là con nhà võ, đi đâu cũng lè kè mang theo cây kiếm. Bà Phiếu Mẫu
ở cạnh nhà, kiếm ăn bằng nghề giặt thuệ Tuy miếng cơm vẫn thiếu trước hụt sau,
nhưng thấy Hàn Tín quá đói khát, bà thường dẫn chàng dở hơi này về nhà cho cơm.
Hàn Tín cảm động thưa:
- Xin cảm on bà đã quá tử tế với tôi. Sau này công thanh danh toại tôi nguyện sẽ
không quên ơn bà.
Phiếu Mẫu cười hiền hậu:
- Ta thấy ngươi đói khát, nên chia sẻ miếng cơm giọt nước với ngươi, chứ đâu cần
ngươi sẽ trả ơn sau này. Đàn ông gì như ngươi , tự nuôi thân không nổi thì noí
chi đến quyền cao chức trọng sau này.
Hàn Tín hỗ thẹn vì lời chê trách, nên không dám tìm qua nhà Phiếu Mẫu kiếm cơm
nữa. Bà già vẫn thương người cùng khổ, ngày ngày đem cơm đặt trước căn lều của
Hàn Tín. Người trong làng xóm biết chuyện, gọi đó là "Bát cơm Phiếu Mẫu".
Một hôm ở ngoài chọ có gã bán thịt to lớn, trông thấy Hàn Tín bước đi xiêu vẹo
nhưng vẫn lòng thòng thanh kiếm bên lưng. Gã trêu tức:
- Này tên ma đói kia, nam nhi như mày mà không kiếm ăn được, hằng bữa phải nhờ
đến bát cơm Phiếu Mẫu, không biết nhục à? Có giỏi thì rút kiếm ra đấu, ta tay
không. Thắng được ta thưởng cho cái đầu heo. Bằng không dám đấu, thì luồn dưới
trôn của ông nội mày đây.
Sắc mặt Hàn Tín đã xanh này càng xanh hơn. Tần ngần một lúc, Hàn Tín khúm núm
lòn qua trôn gã hàng thịt. Cả chợ nhốn nháo chê cười Hàn sĩ. Nhưng có một tiều
phu là Hứa Phụ, tình cờ qua đó, dừng lại trước Hàn Tín:
- Huynh là người có tướng vương hầu; tuy nay khốn khổ nhưng hậu vận lại vinh
hoa phú quí.
Hàn Tín trở vềtúp lều, ngày đêm vẫn miệt mài dùi mài kinh sử. Lúc Hạng Lương nước
Sở khởi binh đánh Tần, Hàn Tín đứng chống gươm bên bờ sông Tứ Thủy, tự tìm cơ hội
tiến thân. Trông thấy Hàn Tín ngoại hình xanh xao vàng vọt, Hạng Lương "dội"
ngay. Nhưng quân sư Phạm Tăng vội khuyên:
- Tuy nhìn bề ngoài yếu đuối, nhưng chân tướng là người thao lược, ngài chớ nên
bỏ
Hạng Lương miễn cưỡng nhận lời, cho Hàn Tín làm chấp kích lang, tức là vác giáo
theo hầu.
Trong thơi gian này, Lưu bang đang dựng nghiệp đế ở Hán Trung, nhờ Trương Lương,
giả lam lái buôn, đi chu du thiên hạ để chiêu hiền. Khi đến đất Sở, gặp được
Hàn Tín, Trương Lương nhận ra ngay đây là một chân tài nhưng Sở không biết dùng
người. Trương Lương bèn làm quen, và trao cho Hàn Tín một thanh kiếm báu, đề
thơ tặng:
Kiếm báu lập lòe tay dũng sĩ
Non sông một giải chí hiên ngang.
Máu hồng, men rượu say băng tuyết
Muông dặm sơn hà một tấc gang.
Hàn Tín đang còn ngỡ ngàng, thì Trương Lương đã tiếp:
- Tại hạ biết được huynh là đấng hào kiệt nên đem kiếm báu tặng chứ không bán.
Nay có chút quà mọn, xin huynh chớ từ chốị Hãy cùng nhau nhấp chén rượu mừng buổi
sơ kiến. Hẹn ngày hội ngô trên đất Hán.
Sau chầu rượu, Trương Lương thuyết phục Hàn Tín nên bỏ Sở, về phò Lưu Bang, là
người nhân đức biết trọng lương thần, xứng danh thiên tử. Hàn Tín thuận tình,
nên bỏ trốn khỏi Sở. Mấy ngày lạc trong rừng không tìm đường để lần đến Hán
Trung, đói khát lả người. May thay, gặp được một lão tiều, cho ăn uống và hướng
dẫn đường đi nước bước chu đáọ Hàn Tín sụp lạy cảm ơn cứu tử, rồi nhanh nhẹn
lên đường. Nhưng vừa qua được một khúc quanh, Hàn Tín chợt nghĩ:
- Ta đang bị Sở Bá Vương truy nã. Nếu chẳng may quan quân Sở cũng lần ra dấu vết
đến đây, hỏi lão tiều phu này, thì tính mạng ta khó thoát. Lão già suốt ngày lẫm
lũi trong rừng sâu, rồi cực khổ cũng chết khô xương , còn ta, cả cơ đồ sáng lạng
trước mắt. Thôi thì, ta đành làm người vong ơn bội nghĩa..
Hàn Tín quay trở lạị Kiếm vung lên, thân lão tiều phu đứt làm đôị Hàn Tín đem
xác vùi bên sườn núi.
Khi đến Hán Trung, Hàn Tín được Tiêu Hà - cận thần của Hán Vương tiếp kiến, liền
tiến cử với Hán Vương. Vừa nghe đến tên Hàn Tín, Hán Vương đã cười khẩy:
- Khi còn ở huyện Bái, ta đã nghe tiếng người này lòn trôn Đỗ Trung, xin cơm
Phiếu Mẫu, làng nước ai cũng khinh bỉ. Con người như vậy thì làm sao mà làm được
việc lớn?.
Tiêu Hà bào chữa:
- Xin Chúa công hãy suy xét, nhiều người bần tiện thuở thiếu thời nhưng sau vẫn
dựng nên sự nghiệp, như Y Doãn là người sơn dã, Thái Công là kẻ đi câu ở sông Vị,
Ninh Thích là gã buôn xe, Quản Trọng là kẻ tội đồ, đến lúc gặp thời đều làm nên
đại sự. Hàn Tín tuy đã lòn trôn mưu sống, xin cơm cứu đói, giết ân nhân để trừ
hậu hoạn..nhưng đó vẫn là người uyên bác, mưu lược; không dùng, tất hắn sẽ bỏ
đi tìm nơi khác trọng dụng.
Nể lời tấu trình của cận thần, Hán Vương giữ Hàn Tín lại, cho làm thủ kho lương
thực. Tiêu Hà không đồng ý vì cho rằng Hàn Tín là người trí dũng, đem dùng vào
việc nhỏ không xứng với tài năng. Phần Hàn Tín cũng chán nản; nấn ná một hai
hôm lại trốn đi, để lại ít câu thơ, thảo trên vách:
Anh hùng lỡ vận bước long đong
Thà chịu an thân khỏi thẹn lòng
Vó ngựa xa vời trông cố quận
Công danh chán ngắt mộng anh hùng.
Tiêu Hà hay tin Hàn Tín đã bỏ đi, dậm chân kêu trời, tiếc thay người tài không
có đất dụng võ. Không nản lòng, Tiêu Hà đem theo ít quân hầu lần theo dấu tích
Hàn Tín. Khi tìm gặp được, Tiê Hà cầm tay Hàn Tín ân cần:
- Cổ nhân có câu: Sĩ vị tri kỷ giả tử (kẻ sĩ có thể chết theo người tri kỷ). Tại
hạ hiểu huyng là người tài, đã quyết tâm tiến cử, nhu8ng Chúc công vần chưa tin
dùng. Nay nếu một lần tiến cử nữa, mà Chúa công vẫn không nhận, thì Tiêu Hà này
cũng từ chức mà lui về vườn.
Hàn Tín cảm kích lòng thành của Tiêu Hà, nên lại lên ngựa quay trở về Hán
Trung. Nghĩ đến số phận mình còn long đong, Hàn Tín đề thơ:
Mây gió phôi pha bóng nguyệt tà
Vận thời chưa gặp khó bôn ba
Nghèo hèn phận bạc đời dang dở
Con tạo trêu ngươi mãi thế à!
Chợt, Hàn Tín nhớ mấy câu thơ của "anh lái buôn " Trương Lương đã đề
tặng mình. Lúc đó, Trương Lương vẫn còn chu du chiêu hiền chưa về đến. Hàn Tín
đưa thơ cho Tiêu Hà xem. Tiêu Hà mừng rỡ:
- Trời đất, thư giới thiệu của Tử Phòng, sao tướng công đã không trình cho Chúa
công.
Khi xem thơ của Trương Lương, Hán Vương giật mình:
- Ôi chao, thì ra người của Trương Tử Phòng tiến cử. Ta thật không biết nhìn
người.
Theo đề cử của Tiêu Hà, Hán vương phong Hàn Tín làm Đại Nguyên Soáị Hàn Tín đã
đem tài năng mình phò Lưu Bang, tóm thâu thiên hạ, dựng nên nhà Hán.
Trong khi danh vọng ngất trời, Hàn Tín vẫn hãnh diện vì cái quá khứ bát cơm Phiếu
Mẫu của mình và cũng từ đó, lưu truyền trong dân gian điển tích này.
Chỉ tiếc khi tài - danh lên tột đỉnh, Hàn Tín vẫn không hượm chân, nên đã chết
thảm dưới tay Lữ Hậu.
(Theo
Maxreading)
Trong Truyện Kiều, khi xử ân oán,
Thúy Kiều mời bà quản gia và sư Giác Duyên đến tạ ơn:
Nghìn
vàng gọi chút lễ thường,
Mà lòng Phiếu
Mẫu mấy vàng cho cân.
(27) 班门弄斧 [Ban môn lộng phủ] ( múa rìu qua mắt thợ)
THành ngữ này được dùng đả kích ví trường hợp làm hoặc khoe khoang việc mà mình không thạo
trước mặt người rất thành thạo, (cũng dùng trong lối nói khiêm tốn) người
dám thể hiện bản lĩnh nghiệp dư trước những người có nghề chuyên nghiệp .
Thành ngữ này có xuất xứ:
Thời xuân thu, Lỗ Ban là người nước Lỗ rất giỏi nghề mộc, ông còn được tôn là
ông tổ nghề mộc.
Nhà Thơ Lí Bạch nổi tiếng đời Đường , tự Thái Bạch hiệu là Thanh Liêm Cư Sĩ
,người Miên Châu, Xương Long . Từ nhỏ ông đã có kiến thức rất phong phú, ngoài
kinh điển nho gia, sách sử nổi tiếng , ông còn đọc sách của bách gia tri tử và
yêu thích thích kiếm thuật . Ông rất tin vào đạo giáo , thích ẩn cư , học thuật
cầu tiên. Đồng thời lại mang hoài bão góp sức cho nước nhà.
Đưòng Huyền Tông từng có lời thề trở thành ông vua anh minh đã cho triệu tập
nhân tài.Trong dịp này Lý Bạch cho rằng chơ hội thi thố tài năng đã đến . Đường
Huyền Tông thấy ông có tài ngang dọc , giỏi thơ văn lại có vẻ bề ngoài tuấn tú
bèn cho làm quan ở Hàn Lâm Viện .Một thời gian sau Vương công , quý tộc quan lại
hiển đạt đua nhâu kết thân với Lý Bạch . Do tính tình ông cương trực , không a
dua nịnh hót, thường phản bác những lời lẽ rèm pha nên chưa đầy 2 năm sau ông bị
cách chức ,đuổi ra khỏi kinh thành .
Theo kể lại , vào một đêm ,khi Lý Bạch trèo thuyền đi dạo trên hồ , thăm Thái
Thạch Cơ , ông đã uống rất say, nhìn thấy trăng dưới nước ông nhảy xuống mò nên
bị chết đuối .
Cũng có ý kiến cho rằng : Lý Bạch cố tình nhảy xuống sông tự vẫn ( lý do này có
lý hơn bởi có nhiều nhà văn, nhà thơ tài ba tìm con đường giải thoát mình bằng
cách tự vẫn .)
Người ta an táng ông tại Thái Thạch Cơ. Từ đó Thái Thạch Cơ trở thành địa điểm
du lịch nổi tiếng .
Mấy thế kỷ sau nhà thơ đời nhà Minh , Mai Chi Hoán梅之焕 đến
Thái Thạch Cơ làm bài điếu trước mộ Lý Bạch .Khi đứng trước mộ Thi Tiên Lý Bạch
,ông vô cùng ngạc nhiên và tực giận khi thấy những chỗ nào có thể viết chữ trên
bia mộ thì mọi người đã viết cả . Những tác giả này văn thơ chẳng ra sao , đề
loạn lên bài tiên thơ của LÝ Bạch, những câu thơ đó mà lại viết lên mộ của Lý Bạch
thật là nực cười !.Ông cảm thấy thật không phải với Lý Bạch, bèn đem bút viết :
采石江边一堆土,
李白之名高千古。
来来往往一首诗,
鲁班门前弄大斧
“Thái Thạch giang biên nhất đống thổ
Lý Bạch chi danh cao thiên cổ
Lai lai võng võng nhất thủ thơ
Lỗ Ban môn tiền lộng đại Phủ”
Thái Thạch bên sông một nấm mộ,
Danh cao Lý Bạch lưu thiên cổ.
Qua qua lại lại cũng đề thơ,
Trước cửa Lỗ Ban còn búa bổ.
Ý nghĩa của bài thơ là ca ngợi Lý Bạch tài danh của ông cũng xứng đáng được tôn
danh như Lỗ Ban . Và班门弄斧 đã trở thành thành ngữ
của người Trung Quốc và còn lưu truyền cho tới ngày nay.
Mọi dân tộc
có cách tư duy giống nhau nhưng cách biểu đạt thì khác nhau do văn hóa khác nhau Ở Việt Nam nó được dùng là múa rìu qua mắt
thợ hoặc đánh trống qua cửa nhà sấm .
(28)杯弓蛇影 [Bôi cung xà ảnh] ( sợ bóng sợ gió)
Thành ngữ này để nói về người sợ những
thứ do mình tự tưởng tượng ra.
Nó có xuất xứ như sau:
Thời Tây Tấn , có một người tên là Nhạc Quảng . Anh ta giỏi ăn nói , thích nói
dóc, cho dù ai có hỏi anh ta khó đến đâu anh ta cũng chỉ dùng mấy câu đơn giản
để cho họ một câu trả lời vừa ý : Tuy nhiên những điều ông ta không biết thì
không bao giờ nói bừa .Lúc đó thái úy Vương Diễn , Quang Lộc đại phu Bùi Gia cũng
rất giỏi tán gẫu , họ đã từng mời Nhạc Quảng nói chuyện thâu đêm , nhưng cũng
phải thừa nhận mình không bằng Nhạc Quảng . Vương Diễn thường nói với người
khác : " Trước đây ta tưởng rằng mình ăn nói đã rất rõ ràng , ngắn gọn .
Hôm nay gặp được Nhạc Quảng mới biết thế nào là ngắn gọn rõ ràng. Trước mặt
anh ta chúng tôi đều cảm thấy mình nói rất lôi thôi ..."
Lúc đó một nhà thư pháp nổi tiếng , những năm đầu Hàm Ninh thời Tấn Vũ Đế được
phong làm thượng thư lệnh. Một hôm nhà thư pháp thấy Nhạc Quảng đang tranh luận
với thái uý Vương Diễn và mọi người , lời lẽ sâu sắc , sinh động , hài hước, cảm
thấy vô cùng lạ nói : "Từ khi rất nhiều danh sĩ từ trần trở lại đây , ta cứ
sợ rằng những lời lẽ tuyệt diệu sẽ không có người kế thừa, không ngờ hôm nay lại
được nghe thấy ở đây”. Một hôm ông có người bạn từ nơi xa đến quê ông , Nhạc Quảng
mời vị khách về nhà mình .Trời vừa tối , Nhạc Quảng bày ra bữa ăn thịnh soạn ở
phòng khách hiếm khi sử dụng . Người xưa có câu , tửu phùng tri kỷ ngàn chén
chưa say. Khi đã uống tới đầu óc quay cuồng , vị khách đứng dậy định cạn chén
thì bỗng nhìn thấy một con rắn nhỏ đang lay động trong chén . Anh ta cảm thấy rất
buồn nôn , nhưng rượu đã đến miệng thì phải uống . Để giữ thể diện chủ nhà ,
ông xin phép chủ nhà về nghỉ trước .Về phòng khách , ông cảm thấy buồn nôn vì
nghĩ trong bụng có một con rắn .Không lâu sau ông ngã bệnh. Nhạc Quảng nghe thấy
bạn mắc bệnh, và nguyên nhân của bệnh thì rất buồn , băn khoăn: "Trong rượu
thì làm sao có rắn được ?"
Thế là ông tìm người đầu bếp đến đó hỏi , rồi lại đến phòng khách quan sát kỹ ,
phát hiện thấy một cây cung sơn đầu đã cũ được treo trên xà nhà . Nhạc Quảng lập
tức mang chén trà đi rót nước vào , đặt ở nơi hôm trước vị khách đặt, lúc đó
bóng của cây cung vừa chiếu lên cốc rượu, lắc la lắc lư quả thật rất giống một
con rắn . Sau khi đã hiểu rõ nguyên nhân , ông vui mừng chạy đến chỗ người bạn
mời anh ta uống rượu . Khi vị khách vừa cầm chén rượu lên thì lại thấy hình một
con rắn ở trong cốc lay động . Mặt ông ta tái xanh lại , hai tay run run,đến
chén rượu cũng không dám ném đi .Lúc đó Nhạc Quảng chỉ cây cung treo ở trên tường
, cười nói với bạn :" Lão huynh !làm gì có rắn ! Anh xem chẳng qua đó chỉ
là hình cây cung thôi " Nói xong ông bỏ cây cung xuống thì trong cốc không
còn hình con rắn nữa . Người bạn hiểu ra nguyên nhân , từ đó không còn lo sợ ,
bệnh quả nhiên khỏi
(còn nữa, kì sau đăng tiếp)
Nguyễn Ngọc Kiên