Về
CHÂN DUNG 99 NHÀ VĂN
VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
*
Tôi từng đọc chân dung các nhà văn
đương đại của Xuân Sách, Đỗ Hoàng, Trần Nhương, Hồ Bá Thâm… Con số có tới hàng
ngàn, nghe đâu trên ba ngàn khuôn mặt “danh giá” đã được ra lò, trong lúc hiện
nay Hội nhà văn Việt Nam tổng thể chỉ có hơn ngàn.
Nay lại được chiêm ngưỡng 99 chân
dung nhà văn Việt Nam đương đại của nhà thơ Nguyễn Khôi. Chà chà…. Mỗi người mỗi
vẻ: Xuân Sách quả là chín rưng rức, tràn trề thăm thẳm, góc cạnh sắc sảo, uyên
thâm, uyên bác; Đỗ Hoàng đa năng táo bạo, giọng điệu sàng xê bay nhảy thủy hỏa
tương giao; Hồ Bá Thâm dò dẫm dàn dựng, gắng gượng đưa đẩy; Trần Ngọc Sơn đều đều
cần mẫn trơn tru tuồn tuột; Trần Nhương tự tin khôn khéo dụng công trau chuốt,
công năng dàn trải,… Mỗi ông đều là những vị thủ kho mẫn cán, thu thập hồ sơ
tên tuổi tác phẩm quá khứ hiện tại rồi lắp ghép, sắp đặt thành chân dung,
thoáng đọc thoảng nghe cũng thỏa mãn cái tò mò, bức xúc nhưng xem kỹ đọc nhiều
thì nhàm nhạt, ngấy ngộ... Theo tôi, đã là chân dung thì phải lột tả, phác thảo,
khắc họa khuôn mẫu, cũng như thợ vẽ thợ ảnh phải đứng ở góc độ, chớp đúng thời
cơ mà vẽ, mà chụp cái thần sắc để thành ảnh sống động, khí sắc thăng hoa, rồi
mà treo ngắm, thưởng lãm... Còn bác Nguyễn Khôi nhà ta thì sao? .... Có lẽ bởi
cái bóng cái tán của Xuân Sách, cái áp lực của 200 công trình bài bản kỳ khu của
Trần Nhương... nên tác phẩm của bác phần nhiều viết bằng chí năng, lấy sự kiện
sự việc, sự thật các câu chữ số phận của mỗi “nhà” rồi sắp đặt thành “chân
dung”. Ngay cái tít Chân dung 99 nhà văn Việt Nam đương đại đã thấy rầm rộ quá,
giá tác giả hạ bút đặt tên Thoáng nét người văn tôi tâm ý thì sẽ nhẹ nhàng, dễ cảm hơn. Dù sao tôi cũng
vô cùng cảm phục lão thi sĩ, lý do đầu là ở cái tuổi lẽ ra cụ cứ ngự lãm trà rượu,
cháu chắt hầu hạ ấy thế mà cụ vẫn dồn công lực làm nên tác phẩm lưu danh hậu thế.
Thứ hai là cụ đã thẳng thắn, khảng khái không kiêng sợ các “đền đài thần thánh”
một thời thiêng liêng ngự trị. Thứ ba là từ trái tim nhân hậu, tâm hồn khoáng đạt
và sự từng trải, tác giả dũng cảm lên tiếng bảo vệ nhân văn, nhân quyền, nhân
phẩm, sự thật và dân chủ. (Đúng ra là phải dẫn chứng cụ thể nhưng vì khuôn khổ
bài viết vậy mời bạn đọc tìm đọc tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Khôi sẽ rõ:
/chan-dung-99-nha-van-viet-nam-uong-ai.html.) Thứ tư, tác giả nhân ái, công
tâm, giàu tin đỡ lớp trẻ, người chưa có điều kiện, tác phẩm mới lấp ló cánh cửa
văn chương hoặc chưa nổi bật, chưa khác biệt đặc biệt…..
Tôi nhấm nháp thưởng lãm một số
chân dung mà tôi khoái trá. Phục nhất, khoái nhất là tài nghệ của lão thi bá,
chỉ dùng bốn câu gần như tứ tuyệt nó gò bó khuôn khổ, buộc bốn câu bốn chức
năng “khai, thừa, chuyển, hợp”, nếu không đúng đủ bốn chức năng ấy thì bài thơ
lễnh loãng, lỏng lẻo, sơ cứng, sáo mòn, nhạt nhẽo, vô hồn, thất sắc, nếu đủ đạt
thì bài thơ cựa quậy, run rẩy sống động lồng lộng vô vi, ví như Chân dung số 1
- Tố Hữu: Chỉ cần 4 câu đầu đã đủ đã tuyệt rồi (Tự cho mình là Lành/ mọi người
thấy rất dữ/ mác lê bọc bằng thơ/ đã đâm chỉ có tử.), cả nghĩa đen và nghĩa
bóng đều đúng, rất khêu gợi, lột vẽ, khắc chạm rõ khuôn mặt. Sự cố “cây táo ông
Lành”, cuộc cải cách “nhân văn giai phẩm”, một chính khách, hung thi chuyên gia
Đảng - Bác đã gây nên bao nỗi hận đau sâu lụy cho văn nghệ sĩ. Thế là được rồi,
cần gì khổ 2 nữa. Chân dung số 2 - Chế Lan Viên, câu kết “giấu đi mặt ma chơi”,
không hiểu chữ “ma chơi” có sát nghĩa đúng hồn bài “Tháp bai on” của Chế không
nhỉ? Nguyên bản là thế này: “Anh là tháp bai on bốn mặt / giấu ba mặt còn đó là
anh/ chỉ mặt đó ngàn trò cười khóc/ làm đau ba mặt phía ẩn hình”. Rõ ràng cái
câu hợp thứ 4 này toát lên cái ăn năn hối lỗi, dằn vặt về cái thời danh lợi,
giá áo túi cơm, đó là cái thiện tâm, phật tính chứ đâu phải là “ma chơi”.
Tiếp theo, tôi xin vỗ tay chân dung
mà ông phác thảo, cụ thể: Chân dung số 6 - Xuân Thủy: Hai câu đầu giản đơn kể
nhắc, hai câu sau tuy không vẽ kẻ nhưng nổi bật gương mặt chính khách lịch lãm
trí thức, nhân vật đặc biệt góp phần quan trọng làm nên lịch sử dân tộc, khi
khúc mắc đã bật, đã phát lời tuyên ngôn bất hủ “Không giam được trí óc”, khẳng
định văn nghệ sĩ phải được tự do, không bao giờ bị giam hãm, trói buộc. Đến
chân dung thứ 8 - Việt Phương, đã là thi thoại giai thoại một thời. Một nhà thơ
nhạy cảm nhạy bén, bản lĩnh hiên ngang cho ra “Cửa mở”: “Đồng hồ Liên Xô tốt
hơn Thụy Sĩ... Trăng Trung Quốc sáng hơn trăng nước Mỹ”, “Bao giờ ta đủ tầm
cao/ để ta bắt được vì sao trên trời”. Động cham một loạt nguy lụy theo bởi cái
thời bao cấp mậu dịch, đồng ca minh họa, bốc thơm tụng ca lừa gạt, Nguyễn Khôi
nộ, nỡm: “Ta cái gì cũng hồng/ đich cái gì cũng xám/ Trảm”. Câu kết sắc lẹm.
Câu thơ yết hậu. “Trảm”, chỉ một câu ấy mà thót tim ớn lạnh, hiện ra bộ mặt lạnh
ngắt sám sịt tử khí của cái thời văn chỉ điểm, văn lãnh đạo, thấp kém thô bạo.
Nổi bật chân dung vững vàng bản lĩnh Việt Phương.
Chân dung thứ 9 - Hữu Thỉnh. Cái
ông lắm người yêu, đầy kẻ ghét, tác phẩm cũng chỉ thường thường bậc trung, viết
phục vụ chiến tranh một thời nhưng bảo “xoàng xĩnh lên ngôi” thì hơi quá. Thơ Hữu
Thỉnh chẳng xuất sắc cũng đâu đến nỗi kém cỏi mà “xoàng xĩnh” thì hơi oan.
“...Ghế cao anh ngồi” thì đúng quá rồi vì sao? Vì anh đã cố công chạy ngược chạy
xuôi…. “Điếu văn hót tới đỉnh” chứng tỏ anh cũng phải xuôi ngược lưu tâm cố ý
thì mới có “điếu văn hót tới đỉnh”. Riêng cái khoản này, cộng cái ham muốn nỗ lực
và say ghế thì ghế anh ngồi cũng xứng thôi.
Tiếp đến Hoàng Cầm. Nói đến Hoàng Cầm
là thấy “diêu bông”, “mưa Thuận Thành”, “Hạt mưa chèo bẻo/ nhạt nắng xuyên
khoai/ hạt mưa hoa nhài/ tràn đêm kỹ nữ/ hạt mưa sành sứ/ vỡ gạch Bát Tràng...
Thuận Thành đang mưa”. Nguyễn Khôi rất khéo dùng thủ pháp “Xê dịch”, chỉ thay đổi
một vài con chữ, vị trí, ý tứ của Hoàng Cầm mã đã thấy rõ cuộc đời, số phận
Hoàng Cầm hiển hiện ví như câu: “Váy Đình Bảng buông chùng xuống/ đâu thấy lá
diêu bông”. Đã đôi lần tôi được hầu rượu nhà thơ Hoàng Cầm, tôi có hỏi: Thưa
bác lá diêu bông là gì? Mặt ông chùng xuống, đăm đắm nhìn qua khung cửa... Sau
một vại rượu, ông thủng thẳng: Thế ông không đọc, không hiểu câu cuối bài: Từ
thủa ấy/ em cầm chiếc lá/ đi đầu non cuối bể/ gió quê vi vút gọi/ ...diêu bông
hời.../... ới diêu bông. Hóm quá. Tế nhị tinh vi quá! “Váy Đình Bảng buông
chùng xuống/ Đâu thấy lá diêu bông”. Vì không thấy nên ông bị 8 tháng ngồi Hỏa
Lò. Hoàng Hưng vì yêu thích, cầm giữ lá “diêu bông” bị 4 năm bóc lịch. Thì “mưa
Thuận Thành tầm tã” thì ông đành, ông đã, ông phải, ông lại “ngây ngất ả phù
dung”.
Chân dung 14 - Trần Dần. Một tài
thơ nổi trội, một nhân cách chân chính nói tiếp qua 2 câu thơ: “Tôi khóc những
chân trời.../...Những người bay không có”. Ta nhớ 2 câu thơ nổi tiếng của Trần
Dần: “Tôi khóc những chân trời không có người bay/ Tôi khóc những người bay
không có chân trời”. Câu thơ ẩn dụ ám ảnh khiến ta liên tưởng tới cái xã hội
đương thời... Đời là thế đấy. Người bay thì không có chân trời. Chân trời thì
không có người bay. Ôi thương xót cho nền văn học, số kiếp văn nhân của thời đã
qua. Trần Dần đau đớn xót xa cho thế sự nhân sinh, ông kiên cường tin tưởng vững
chắc vào chân chính làm nên tác phẩm “Nhất định thắng... công toi”. Xin thưa!
Công không toi đâu. Tài năng và sự can trường hy sinh đã để lại cho đời tác phẩm
giá trị. “Cổng tỉnh” đã được giải của Hội nhà văn Việt Nam rồi mà.
Chân dung 15 - Lê Đạt. Lê Đạt là
người cùng thời, cùng họa với Phan Khôi, Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung,
hoàng Cầm... Thất thời gặp họa lâm nạn, tù túng thiếu thốn lấy thơ làm nỗi sống
niềm sống, ông tỉ mẩn kỳ công đắp vẽ mổ sẻ lai ghép, lắp ghép, thử nghiệm, sáng
tạo kiểu thơ riêng, ông gọi là “bóng chữ”, người “phu chữ”, âm thầm cần mẫn đẽo
tỉa, cấy ghép đã thành công đáng kể, dẫu đã nhiều phen e chề, thất bại. Nguyễn
Khôi ở gần cái tuổi thời ấy nên dễ hiểu và đồng cảm, nắm vững giải mã được
“bóng chữ” của Lê Đạt nên thấy: “Đẽo/ tỉa bay mất hồn/”, nhưng Nguyễn Khôi vẫn
ngờ vực hỏi: “Người chết/thơ còn, hết?/ “Đường chữ” nẻo cô thôn”. Đường chữ là
tác phẩm. Câu trên hỏi ỡm ờ thì câu sau giải mã ngay. Thơ Lê Đạt, thấy cái thâm
thúy gợi mở của Tàu, cái tích ép của Nhật, cái thực dụng của Mỹ nhưng vẫn mù mờ,
ỡm ờ tốc độ súc giác của Lê Đạt. Viết đến đây tôi thấy tôi bị lan man, tản mạn
quá. Sao mà đủ tài đủ sức theo đuổi dò mở dòm ngó 99 kho tàng bí ẩn huyền ngã…
Vậy tự thổi còi thư bút khép lại mà thưa thớt một số vấn đề trong một số chân
dung.
Thưa lão thi bá! Ở nhóm mảng tiền bối
danh giá có lẽ do đặc điểm khuôn khổ khắt khe gò bó cô đọng của thể thơ tứ tuyệt
nên một số chân dung chỉ thấy chân tướng, ví dụ như bài 21 - Xuân Diệu: “Đồng
tính” bị đấu tố/ cụt hứng làm thơ tình/ Thôi thì ca “ngói mới”/ đi “nói chuyện
thơ mình”. Nguyễn Khôi dùng tác phẩm “Đồng tính” “Ngói mới” “Nói chuyện thơ” để
ghép thành bài tứ tuyệt nhưng đấy mới là thơ “tứ” nhưng chưa “tuyệt”, vì đây mới
là cái chân tướng, giai đoạn, sắc thái nhất thời của Xuân Diệu chứ đâu phải là
cái góc cạnh, khuôn mặt thần thái, hồn vía thơ Xuân Diệu. Hoặc Huy Cận, cái
thành công vang dội trường tồn của “Lửa thiêng” và “Mỗi ngày mỗi sáng” thì thi
trường và thời gian đã thử thách thừa nhận Huy Cận là nhà thơ cảm quan vũ trụ,
có cảm quan nhân sinh quan tuyệt hảo ngất ngất... Sau này gia đình ông có chuyện
riêng không hay lắm, Cù Huy Hà Vũ, con trai có quan điểm sống khác, dù sao đó
cũng là chuyện của mỗi gia đình chứ có làm tắt “Lửa thiêng” đâu? Còn việc tên
đường phố thì có cũng hay, chưa có thì cũng đừng ngạc nhiên, chớ như ai kia đã
rút hai câu “Mặt trời xuống biển như hòn lửa/ Sóng đã cài then đêm sập cửa”, rồi
suy diễn, áp đặt, chụp mũ thì chua chát cái sự đời quá. Hoặc 25 - Minh Huệ. Cả
đời thơ ông nổi bật bài “Đêm nay Bác không ngủ”. Bài thơ của ông là tấm lòng,
tiếng lòng của những người lính cảnh vệ ngưỡng mộ Bác tuyệt đối trung thành,
kính trọng yêu thương Bác. Đó là cái tình đồng chí, tình cha con, sao lại “Vợ
dí thơ... Tính tình...”. Có thể tác giả
chỉ đùa nỡm chơi chữ vui vui nhưng đọc thấy thế nào ấy....
Chân dung 35 - Phùng Cung. Tác giả
hai câu thơ: “Lênh đênh khắp nước cùng non/ Dạt vào ao cạn vẫn còn lênh đênh.”
Vì cái truyện ngắn Con ngựa giá chúa Trịnh mà mắc nạn, bởi bọn “lính gác” văn
chương, mấy tay chỉ điểm mong ông bị tù đày. Ra tù, nhờ Phùng Quán, Nguyễn Hữu
Đang giúp đỡ cho tập “Xem đêm ra đời” Hậu thế biết cái bản lĩnh tính kiên cường
qua bài thơ thể Hai Kư: “Quất mãi nước sôi/ Trà đau nát bã/ Chẳng đổi giọng Tân
Cương.”, thì ta thấy cái kiếp bèo bọt của thi nhân “dạt vào ao cạn vẫn còn lênh
đênh” bản lĩnh quật cường, “Trà đau nát bã/ Chẳng đổi giọng Tân Cương”. Vâng,
giữ giọng, giữ bản lĩnh nhân văn nhân bản thi sĩ, chứ đâu “quất bã chè thành
thơ?”!
Chân dung 29 - Bùi Giáng. Tôi không
đắc ý với câu “Nghêu ngao giả cuồng điên”. Thực thì Bùi Giáng điên điên, điên
tình, điên cảnh, điên thơ, điên đời... Thường thì các thi sĩ thiên bẩm thiên tài
đồng bóng thăng hoa mà phát thơ. Thơ Bùi Giáng có đặc điểm là bất thường vô thường,
(Chân không tới đất, cật không tới trời), lâng lâng ảo ảo, cuồng cuồng say say,
nó vô định ma mị lắm. Chính thế mới tạo nên cái “Bùi Giáng”, “Trường phái thơ
Bùi Giáng”, không khéo Nguyễn Khôi lại lầm như trường hợp Xuân Diệu nhận định
nhầm Hàn Mặc Tử.
Chân dung 43 - Lê Lựu. Đọc chân
dung này thì thấy cái chân tướng đời thường, chứ đâu là chân dung một nhà văn
Lê Lựu, một Giang Minh Sài (Thời xa vắng), một Núi (Sóng ở đáy sông). Còn cái
chuyện tình ái, vợ chồng, gia đình hãy cho qua, hãy phác họa, ký họa, khắc họa
những nét đặc biệt, đặc trưng chân dung VĂN HỌC. Hãy hướng tới cái có, cái được,
cái đạt, cái đặc biệt nổi trội của nhà văn thì văn chương hơn, nhân ái, hỉ xả hơn.
Chân dung 45 - Chân dung Nguyễn
Nguyên Bảy và Lý Phương Liên…
Tiếc quá! Lại ghép hai “Nhà” cùng
nhau.... Nói đến Lý Phương Liên phải nói đến “Ca bình minh”, “Tâm sự với Thúy
Kiều”. Người ta không quên vụ án “Thúy Kiều” án không án, vì nhà thơ quá nhạy cảm,
thông minh mẫn cảm đi trước thời đại…Nguyễn Nguyên Bảy bất tử với tuyên ngôn
“Thơ là thơ không phải địa vị người làm thơ” hoặc lương tâm lý trí tư cách đạo
đức tư tưởng: “Màu đỏ của máu/ màu vàng của da/ mỗi chúng ta/ là một lá cờ”.
Hay sâu xa bất hủ như: “Cháy rồi, cháy hết phần thơm/ chân hương đứng lặng nỗi
buồn vô vi/ rồi màu phẩm nhạt phai đi/ dẫu chẳng còn vẫn đứng chân hương”. Tâm
tình, đúng nghĩa nhân lễ trí tín quá! Tài hoa bất hủ, bất tử quá quá! Đừng quên
những lời thơ gan ruột này là chân dung Nguyễn Nguyên Bảy những “Ca bình minh”,
“Tâm sự Thúy Kiều” là tượng đài lồng lộng thăm thẳm mênh mang Lý Phương Liên.
Còn “Chàng Tư mã say thơ/ mê mùi sen phố cổ/ “chém gió giữa Thủ đô/ thơ bạn
thơ” rạng rỡ”. Chỉ là bề nổi, chỉ là cái bóng thoảng của hai nhà thơ nổi tiếng
này thôi.
Chân dung 47 - Dương Thu Hương. Tôi
đã được đọc “Thiên đường mù”, “Bên kia bờ ảo vọng”, tôi phục trí óc của bà, tôi
quý giọng văn sắc sảo biến ảo đa chiều góc cạnh của bà. Đọc số 47 Dương Thu
Hương và 26 Minh Huệ tôi phục và sợ sự tưởng tượng hư cấu lồi lõm góc ngách phù
thủy của Nguyễn Khôi. Nhưng vẫn buồn buồn vì những câu “Tức khí mà tắt kinh/
Thiên đường mù vẫy gọi/ Chào tỉnh lẻ vĩ nhân”…Đã tắt kinh, thì hết trứng, hết
trứng thì làm sao sinh nở được nữa. “Thiên đường mù vẫy gọi” vô vọng quá! “Chào
tỉnh lẻ vĩ nhân” hài bi, bi hài quá! Tất nhiên “Thiên đường mù” “Tỉnh lẻ vĩ
nhân” là tác phẩm nhưng cũng là con người xã hội, thế thời thời thế…Những câu
chữ rất ý tứ góc cạnh (ý tại ngôn ngoại). Nhưng tắt kinh tuy đúng, tuy lạ nằm
bên, hiện lên trang giấy khó đọc quá… Lẽ ra tôi định bàn tới các nhà thơ chính,
phân cao thấp. Nhưng như nói đã quá đủ trên các báo mạng rồi tôi chỉ xin thoáng
qua mấy nhà thơ mà tôi có quen biết.
Kính thưa nhà văn Nguyễn Khôi - Văn
Thùy không giỏi diễn dị nhân đâu. Có thể thời đầu, đoạn đầu Văn Thùy tập diễn,
cố diễn sau bị con “ma thơ” đánh bùa mê thuốc lú thành “dị nhân” xịn đấy, ông
gày gò, ông từ bỏ, ông mất mát đúng như bài thơ “Văn Thùy dị nhân” của nhà thơ
Đặng Xuân Xuyến đã lột tả. Còn “Thấy Bùi Giáng là lủi”, Văn Thùy sao dám đấu với
Bùi Giáng mà “lủi”. Còn người đời ngộ nhận thì bàn làm gì? Văn Thùy có đôi nét
ngoại hình, có dòng thơ lục bát nhuần nhuyễn bắt hơi nhau một chút, ví như câu
“khóc người một con” trùng câu trùng ý Bùi Giáng. Cái “điên” của Bùi Giáng đâu
có giống cái “bụi” của Văn Thùy. Chính Văn Thùy tự nhận là rơm rác bụi bặm rồi
cơ mà. Thôi thì Văn Thùy đã được làng thơ phong “dị nhân” “Thơ bụi” cũng là lẽ
tự nhiên thôi chứ “Khéo dán tem “thơ bụi” sao nổi.
Người thứ hai là bạn tôi, là thầy
thơ tôi Hoàng Xuân Họa, chân dung 63: “Thơ “trong” ba lô ra trận/ Bỏ “trót một
thời yêu”/”Chuyện cõi âm lạ lẫm/ Trả đời cho Chí Phèo”. Chân dung này thật 100%
nhưng nhạt loãng, tuyền toàng. Cụ thể nghĩa đen, sự thực năm 1970 anh chàng tân
binh Hoàng Xuân Hoa yêu thơ say thơ quý phục Ca bình minh của Lý Phương Liên.
Anh chép tay cõng trên ba lô đi khắp chiến trường ABC. Qua cuộc chinh chiến ở
chiến trường Nam Bắc ở trường đời anh thai nghén chửa đẻ ra “Trót một thời yêu”
giọng điệu trăn trở hồn thơ chấp chới gây làn sóng lăn tăn sau chiêm nghiệm từng
trải là người trong cuộc chiến, cuộc sống anh cho “Chuyện cõi âm ra đời” vừa
hài vừa bi vừa hư vừa thật, nhưng rưng rưng nhưng nhức cho độc giả sau, trước
cái xã hội thật như đùa cười ra nước mắt anh sinh ra “Chí Phèo đi dự Fet ti
van”. Bác Khôi ơi! Bài viết của bác đúng đủ nhưng vẫn chưa rõ cái thần thái của
Hoàng Xuân Họa mà ngược lại người ta hiểu lầm, tưởng sai về nhà thơ khó tính đa
tài đa tật nhiều lắm, nhất là “Trả đời cho Chí Phèo” oan quá, tầm thường quá!
Ngộ quá!
Ông bạn thứ ba mà tôi kiêng nể dẫu
ít tuổi, chỉ hơn con lớn của tôi bốn tuổi, đó là Đặng Xuân Xuyến, chân dung số
89. Vì sao? Xin thưa. Vào khoảng những năm 1990 - 2000 xã hội mở cửa, Tổng bí
thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố cởi trói cho văn nghệ sĩ, các nhà văn nhà thơ thậm
chí cả các nhà hưu trí nhà bất mãn đua nhau in ấn các loại văn thơ: “đâu là đôi
mắt”, “Như có Bác Hồ”… Thế mà anh bạn trẻ trên tay cầm cái bằng đại học nhân
văn xã hội đỏ chóe ngày đêm xem cổ, tiếp kim chiêm nghiệm thực nghiệm cho ra đời
hàng loạt đầu sách mới lạ (có thể lên tới hàng trăm đầu sách với nhiều bút
danh). Nổi bật gây dư luận nhất là hai tập sách, một là Giới tính và giáo dục
giới tính (1997). Nội dung khoa học về đời sống tình dục và giới tính. Anh tiếp
thu thành tựu của nước ngoài, kết hợp cái thực tế ở trong nước, nhất là những
cái ở ta đang lấn cấn để mà thành sách, giúp người giải phóng mặc cảm, hướng tới
sống khỏe, sống hạnh phúc nhưng ở giai đoạn đấy anh đi quá sớm nên ăn đòn (bị
thu hồi). Tác phẩm thứ 2 là cuốn Tử Vi kiến giải, viết theo quan điểm chắt lọc
những tinh hoa của tiền nhân, của Tử Vi Việt, giúp bạn đọc tiếp cận dễ hơn,
đúng hơn về niềm tin tín ngưỡng của người Việt Nam thế nhưng cũng bị nhà chức
trách thổi còi “đình bản”, thu hồi. Sau đó sách vẫn được truyền tay tìm đọc, vẫn
được tái bản mấy lần. Đó là cái riêng, khác lạ của một đời văn, một đời người.
Vậy có xứng là nhà văn có giọng văn dáng dấp đương thời đương đại không? Ấy là
chưa nói anh còn viết một loạt truyện ngắn: Chuyện cu Tố làng tôi, Chuyện của
gã Khờ, Kim yêu, Chuyện ngủ... được bạn đọc yêu thích, ngay chính lão thi bá
Nguyễn Khôi cũng làm bài thơ 5 đoạn cảm đọc gã Khờ. Lại còn mảng thi ca. Dẫu
thơ anh chậm xuất hiện nhưng đã gây ấn tượng bởi cái giọng điệu sắc lạnh, tốc độ,
tứ ý ngồn ngộn tự nhiên, đầy tâm trạng, đủ chân thiện mỹ như: Bạn Quan, Quê
nghèo, Tôi nghe, Ru con, Tim đau, Mơ trăng, Tình Nở... Nhất là thơ tình đầy
trăn trở. Bêlin Xiki nói: “Chỉ cần anh có cái giọng riêng đã đáng là một nhà
thơ rồi.”. Vậy mà bác Nguyễn Khôi nhà ta đã nghuệch ngoạc vẽ thế này: “Buôn
sách và viết sách/ Vui gà trống nuôi con/ làm tình “cưỡng” không thích/ Thơ như
thời trai son.”. Thực quá dễ dãi, quá trơn tuột. “Buôn sách”, “gà trống nuôi
con”, “làm tình “cưỡng” không thích” thì đâu phải chân dung, phải chăng chỉ là
về đời thường chứ đâu là cái hồn cốt, cái chân dung để đời của nhà văn?!
Chân dung 97 - Vũ Từ Trang. Nhà thơ
này trắng trẻo đẹp trai điềm đạm. Thơ hay văn giỏi. Anh rất coi thường thơ tôi.
Anh thường bảo thơ tôi là thơ con cóc. Vâng. Tôi rất bực mình và tự ái nhưng tiếp
cận thơ anh tôi cụt lủi. Thơ anh rất hiện đại nhưng ý tứ gợi mở ám ảnh như bài:
Chiếc đồng hồ cũ, Cái ghế, Thăm nơi sơ tán…. Một loạt bài rất hay, không thiếu
chất suy tư chiêm nghiệm, triết lý rất Đông Á. Thơ anh và văn anh đăng rất nhiều
trên báo trung ương và địa phương, gây nhiều hiệu ứng trong xã hội. Cuốn Phía
sau con chữ, chân dung văn học ông viết nhẹ nhàng, chân thật, sống động, có chiều
sâu, có bề dầy. Anh là người “vua biết tiếng chúa biết tên”. Ấy thế mà Nguyễn
Khôi nhẹ nhàng “vô tư” viết: “Vươn lên từ chủ doanh nghiệp/ Từ chân báo thủ
công/ Văn chân dung chân thật/ Thơ ngọt khế Sặt Đồng”. Thơ Vũ Từ Trang không chỉ
ngọt khế Sặt Đồng, còn có cả chua chát đắng cay tràn trề dân dã, lóng lánh trí
thức, ấn tượng cổ kim... Bác Khôi khắc họa chưa đạt chân dung thơ văn đã đắc đạo
của Vũ Từ Trung.
Người thứ 5 mà tôi biết là Nguyễn
Thanh Lâm, chân dung số 86: “Đêm tỏa Hương dương cầm/ Nghe mưa trên mái cổ/
Siêu thoát trong rừng tùng/ Thơ lang thang bát phố.”. Ba câu đầu ít nhiều có hồn
vía nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm nhưng câu thứ tư “Thơ lang thang bát phố” thì e
không đắt, không hợp với Nguyễn Thanh Lâm, người nặng về tâm linh tĩnh tại. Thơ
Nguyễn Thanh Lâm có chất thiền định, nghe mơ hồ bâng lâng vô vi thi vị. Với con
người điềm đạm cân bằng sâu xa an lạc và dòng thơ du dương cuồn cuộn nồng đậm ấy
chẳng bát phố đâu.
Đang viết thì chuông điện thoại đổ
gấp. Tôi nhấc máy nghe, đầu dây bên kia là giọng của ông bạn thơ tuổi đã cao
niên: - “Alo! Ông Hành có được tặng 99 nhà văn đương đại của Nguyễn Khôi không?
Có cái bìa 2 lạ lắm. Nhà văn Nguyễn Khôi cưỡi ngựa xem hoa, không biết là ý gì
nhỉ?”. Tôi vội mở điện thoại ra xem, quả lão thi nhân vẫn phong độ chững chạc lắm.
Áo véc tím hồng, khuôn mặt ngây ngây, mủm mỉm cười, tay phải đút gọn túi áo,
tay trái vịn cành đào hoa nở rực rỡ. Tôi vội trả lời: - “Ồ không phải là cưỡi
ngựa xem hoa mà là vin hoa đút túi….”.
Định viết thêm nhưng tôi thấy thế
cũng đã nhiều nên tạm dừng bút.
Vâng. Tôi cứ lẩn thẩn với những suy
nghĩ trong đầu: giá thi sĩ Nguyễn Khôi đọc kỹ thêm nữa những tác phẩm của các
“chân dung” mà viết 99 chân dung thì tác phẩm sống động hơn, các chân dung ấy sẽ
trường tồn hơn...
*
Khoan Tế, tháng 06.2017
NGUYỄN ĐĂNG HÀNH
Địa chỉ: Thôn Khoan Tế, xã Đa Tốn
huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội.
Điện thoại: 0166.467.78.26