Tác giả Chế Cẩm Đình |
PHẦN NĂM: TIẾNG
QUẢNG
Giọng nói, được
cho là để phân biệt vùng ngôn ngữ hơn là bằng từ ngữ. Giọng nói của một người
hay một vùng được hình thành chủ yếu là “nghe sao nói vậy”. Như đứa trẻ con mới
tập nói đang ở đâu thì khi nghe tiếng nói của vùng đó nó sẽ tự nói theo, chứ
không vì gốc gác hay nơi sinh, hoặc do hòn đất mạch nước gì cả. Một người lớn
lên rồi, qua vùng đất khác sinh sống, lâu dần cũng có thể bắt chước theo người
ta nơi ở mới nói một cách tự nhiên giọng nói của xứ đó, như người bản xứ, bằng
cách gò miệng uốn lưỡi để nhả âm theo lối lỗ tai mình nghe thấy được.
Người Bắc nói giọng
mũi, nhả âm rất nhanh. Khi nói thì mở miệng vừa phải, lưỡi và vành môi dừng cử
động đột ngột ở cuối âm tạo ra từng tiếng rất chắc và rõ. Người Khu Bốn nói
năng chậm rãi, ngôn ngữ có điệu tính cao. Khi phát âm thì dùng giọng họng, nhả
âm chậm, miệng mở to theo phương dọc, giảm hơi vào cuối mỗi từ làm cho âm nhỏ dần.
Trong câu nói thì tiếng trước đan xen tiếng sau một cách líu ríu mà chỉ những
người trong cùng một vùng mới quen nghe và hiểu được. Đây là lời giải thích vì
sao người miền Bắc nói thì ai cũng hiểu, mà người Khu Bốn nói thì phải giải
thích đi giải thích lại mấy lần cho người khác miền, dù nói rất chậm.
Nếu như ngoài kia
Thanh Hóa là nơi chồng lấn giữa hai vùng ngôn ngữ “giọng Bắc tiếng Trung”, thì
sự chuyển tiếp giọng nói từ đầu cuối vùng ngôn ngữ Khu Bốn là Thừa Thiên Huế
sang Quảng Nam hầu như không có, mà đó là một sự thay đổi đột ngột ngay khi chúng
ta vượt qua ngọn đèo Hải Vân hùng vĩ chắn ngang trên con đường thiên lý về cả mặt
thời gian lịch sử lẫn không gian địa lý. Chính con đèo này là tác nhân tạo ra
hai vùng “giọng” khác biệt nhau hoàn toàn ở hai phía của nó, dù cùng một thứ tiếng
Việt với nhau.
Cổ dân Quảng Nam
hình thành chủ yếu từ các sắc dân Hời, Việt và Minh Hương vào thời trung cận đại.
Người Hời bản xứ cư ngụ từ xa xưa trên vùng đất này, khi người phía bắc Việt
theo các cuộc Nam tiến di dân vào đây bằng cách mở ra các cuộc chiến tranh xâm
lấn thì số đông người Hời vẫn ở lại trên đất cũ thay vì chạy tràn qua các tiểu
quốc khác nằm kề phía trong. Bên Trung Hoa vào thế kỷ 17 nhà Thanh của người
Mãn Châu thiểu số chớp cơ hội lên nắm quyền thay nhà Minh, dẫn đến một làn sóng
di dân người Hoa “phản Thanh phục Minh” theo ngõ biển Đông tràn ra khắp Đông
Nam Á và xâm nhập vào những cuộc đất mới mà nơi đó chính quyền còn lỏng lẻo để
lập nên những làng xóm (hương) mới nên gọi là người Minh Hương. Hội An nói
riêng hay các thị tứ khắp vùng Quảng Nam nói chung được người Minh Hương lựa chọn
làm nơi sinh sống mới khá nhiều. Trong truyện ngắn “Ông Năm Chuột” của nhà văn
Phan Khôi, cháu ngoại của vị tổng đốc đáng kính Hoàng Diệu có mô tả rất rõ về một
nhân vật người Minh Hương tên là Tám Thứ, cư dân mấy đời ở trong ngôi làng Bảo
An của ông, thuộc huyện Điện Bàn, Quảng Nam. Chi tiết này là minh chứng rất rõ
về sự hình thành dân cư - làng xã ở Quảng Nam có sự hiện diện của dòng người đến
từ các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến bên Tàu, mang theo tiếng nói và chất giọng của
họ đến góp vào làm ngôn ngữ xứ Quảng “méo” đi nhiều so với tiếng Việt chuẩn ở
ngoài Bắc hay là tiếng Việt vùng Khu Bốn, cũng là nơi có sự ở lại của người Hời,
hợp sinh với người Việt tiến vào sớm hơn, dĩ nhiên khi đó chưa có sự góp mặt của
người Tàu.
Người xứ Quảng
phát âm bằng giọng họng, giữ căng từng âm trong câu nói chứ không xuống hơi cuối
từ như người Khu Bốn. Khi phát âm thì máy môi nhanh, nhả âm nhanh, miệng mở rộng
theo phương ngang, cuống lưỡi hơi uốn và ít khi xát vào vòm hòng, rìa lợi hoặc
mặt trong của hàm răng trong quá trình phát âm. Nhìn bên ngoài sẽ thấy rõ cơ
hai gò má của người nói gồ lên chuyển động linh hoạt theo từng âm chứ không
"cứng mặt". Tất cả những yếu tố đó tạo ra một thứ giọng Quảng khác biệt
hoàn toàn so với người Khu Bốn hay người Bắc.
Vì phát âm bằng
giọng họng và giữ căng nên "tiếng âm” người Quảng phát ra hơi trầm ồ,
nhưng lại nghe rất rõ từng âm tiết. Tuy vậy để hiểu được từ ngữ tiếng Quảng thì
không phải dễ, bởi là vùng hỗn ngữ từ các sắc dân khác nhau như đã nói trên nên
từ tiếng lạc âm khá xa so với tiếng Việt chuẩn, đặc biệt là hiện tượng “méo”
nguyên âm:
a > oa: ba
> boa, nhà > nhòa, bà già > bòa giòa
ai > ưa: hai
> hưa, gái > gứa, tái > tứa (một số nơi)
am > ôm: xe
lam > xe lôm, càm ràm > cồm rồm
ang > eng: Đà
Nẵng > Đòa Nẽng
ao > ô: cái
bao > cái bô, bao gạo > bô gộ
ăn > en(g): ăn
cơm > eng cơm
ăt > tét(c): tắt
đèn > téc đèng
âu > ao: con
sâu > coong sao
…
Một ví dụ khác,
muốn phát âm cụm từ “lốp xe đạp” bằng tiếng Quảng Nam thì chỉ cần nói lái thành
“láp xe độp”. Hay câu chuyện có mấy người đi buôn lậu đang gùi hàng qua trạm
thì một người bị ong đốt hét to lên “công an, công an” làm cả đoàn vứt bỏ hàng
hóa tháo chạy, đoạn ngoái đầu lại thì không thấy ai cả bèn hỏi người kia sao la
lên vậy làm mất hết hàng hóa, thì người kia mới nói là bị ong chích, hoảng quá
nên hét lên. Trong câu chuyện này từ “con ong” được phát âm là “coong ang” gần
giống như từ “công an” vậy.
Chính vì có nhiều
âm bị "méo" như vậy nên đi đâu người Quảng cũng thường hay bị trêu
đùa tiếng nói của mình. Và để “đáp trả” sự trêu chọc đó, họ sẽ mắng một câu còn
đậm đặc tiếng Quảng hơn nữa: “Chửi choa khoong bèng phoa giạng nghe mi"!
Phải nói là, tiếng
Quảng quá đặc sắc và thật đáng yêu vậy!
Chế Cẩm Đình
No comments:
Post a Comment