Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Thursday, December 27, 2012

Bài ca vọng cổ THĂM LẠI TRƯỜNG XƯA – Thương Yến Tử

(Về thăm lại Trường Trung học Phan Sào Nam, Duy Xuyên, Quảng Nam)

Tác giả THƯƠNG YẾN TỬ
Chủ nhiệm CLB thơ LAN ĐÌNH, BR-VT



Nói lối:

Tôi đứng lặng trước sân trường Phan Sào Nam ngày cũ
Gốc phượng già lác đác một vài bông
Nhớ thầy cô bè bạn thắt se lòng
Buồn thổn thức nghe mắt mình rớm lệ.

Vọng cổ:

1. Xuôi ngược đường quê qua mấy mùa phượng nở, nếp trán nhăn nheo tóc trở màu sương gió giọt thời gian chồng chất nặng vai … gầy…
Năm tháng qua đi cho mắt lệ đong đầy…
Tiếng thầy cô còn vang trong ký ức, bè bạn bây giờ mỗi đứa một phương (-) Nắng vẫn còn nguyên màu trời không thay đổi dẫu mái trường có đổi có thay. Tuổi thơ ơi hãy trở về đây để ôn lại những ngày yêu dấu cũ …

2. Mấy bận hè sang mấy lần phượng nở, gót chân chai theo với bước thăng trầm … Nhớ thầy cô mà lòng lệ khôn cầm … nhạc ve ơi thôi đừng trổi nữa, xác phượng gầy đang thổn thức buồn thương (-) Chừ tìm đâu giây phút dưới hiên trường, ôi tất cả đã đi vào quá khứ. Giờ chỉ biết đào sâu kỷ niệm đã chôn vùi trong vực thẳm thời gian …

Ngâm thơ:

Vạt nắng âm thầm đọng dưới chân
Áo thư sinh nhuốm bụi phong trần
Lần theo kỷ niệm tình trăn trở
Tiếng trống trường xưa thức cõi lòng

Vọng cổ:

5. Nay trở về đây thăm lại mái trường xưa thăm thầy thăm bạn, chỉ thấy phượng muộn trên cành rưng rưng nỗi nhớ vạt nắng hoàng hôn thầm đọng dưới chân … buồn …
Tóc nhuộm phong sương mắt se cay gió bụi sông hồ …
Sao lòng cứ thương mơ năm tháng cũ như sóng xa bờ xa bến mà thương (-)
Bụi phấn bay bay tiếng thầy vang trên bục giảng, cực khổ không sờn vì mầm non thế hệ, để ngày mai xây dựng cho đời …

6. Từng phút từng giây là dòng nước chảy, người như cánh bèo trôi dạt ngàn phương …
Mãi cất giữ những lời thầy dạy, làm hành trang bước vào đời cho đến hôm nay … Tóc bạc màu vầng trán đã nhăn nheo sao kỷ niệm long lanh sáng ngời trong ký ức, mắt nhòa theo xác phượng trên cành (-)
Trường xưa cảnh cũ còn đây. Tuổi thơ đâu nữa tháng ngày đi hoang. Làm sao níu giữ thời gian. Làm sao quên được mộng vàng son xưa …
                                        
THƯƠNG YẾN TỬ
 thuongyentu131@yahoo.com.vn
                  
                                                                                            
READ MORE - Bài ca vọng cổ THĂM LẠI TRƯỜNG XƯA – Thương Yến Tử

HỐI TIẾC - thơ Trương Đình Đăng


Đông giá lạnh lòng mong xuân trở lại
Hạ oi nồng mất dõi giọt sương thu
Cơn khát bỏng nhớ mưa rào tháng Bảy
Bụng đói cồn cào nuối tiếc hạt cơm rơi

Xa em rồi chợt giật mình hối hận
Quỹ thời gian chi dụng quá tào lao
Ôm gối chiếc mới hay mình bất cẩn
Những rong chơi vớ vẩn ném thân vào

Chuyến tàu nào quay về năm tháng cũ
Cho tôi xin một chỗ ngược thời gian
Tôi sẽ sống môn khoai không hề phụ
Dẫu được mùa no đủ suốt quanh năm.


10/2012
TRƯƠNG ĐÌNH ĐĂNG
130 Nguyễn Văn Thoại, Đà Nẵng

READ MORE - HỐI TIẾC - thơ Trương Đình Đăng

Phiếm luận : TẢN MẠN VỀ ĐÔI MẮT - Nhã My


              Ảnh của Tôi
                     Ảnh tác giả Nhã My

Đôi mắt là bộ phận quan trọng của con người. Nhờ có mắt chúng ta mới có được cuộc sống hoàn mỹ. Đã từ lâu trong văn chương sách vở đôi mắt được ví như cửa sổ tâm hồn. Tả đôi mắt của người đẹp thì "làn thu thủy, nét xuân sơn""mắt em là cả dòng sông".  Nào là mắt nai, mắt ngọc,  mắt ướt, mắt biếc, mắt mơ màng, mắt đen lánh (nhánh) hạt huyền, mắt …mơ huyền (vừa đen vừa mơ mộng chứ không phải …huyền …mờ!)

Tác giả của bài này hôm nay không miêu tả về con mắt mà chủ ý nói về những hoạt động của đôi mắt (đương nhiên không phải là khép và mở mắt tức ngủ và thức) đúng hơn là … kết quả có được do mắt làm việc .

                  "Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy ."
                  "Những điều trông thấy mà đau đớn lòng ."

Vâng! Nguyễn Du và Đoàn thị Điểm qua thơ văn đã cho chúng ta biết hai động từ trông và thấy. Trông tức là nhận xét bằng mắt trông qua cửa sổ, trông về quê mẹ (quê cũ). Người con gái đêm khuya ra đứng bờ ao. 

                  Trông cá cá lặn trông sao sao mờ.
                  Buồn trông con nhện giăng tơ.
                  Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai.
                  Buồn trông chênh chếch sao mai.
                  Sao ơi sao hởi nhớ ai sao mờ.
                                                (Ca dao)

Trông cũng có nghĩa là chăm sóc, giữ gìn: trông nhà, trông cửa trông em bé (trông trẻ), trông quán, trông (cửa) hàng. Trông cũng có nghĩa là mong chờ trong ngóng. Thiếu phụ trông chồng, mẹ trông (tin) con. 
Thấy cũng là nhận xét được bằng mắt thấy mờ mờ, thấy rõ ràng, mắt thấy tai nghe. Nhận biết được bằng giác quan nói chung như sờ thấy, ngửi thấy, nếm thấy ... Nhận biết bằng nhận thức cảm thấy, thấy vui, thấy buồn, thấy chán nản , thấy tức ... Thấy không chỉ khi mở mắt mà nhắm mắt cũng thấy một chân trời tím ngắt (?) Thấy ngay cả trong lúc ngủ như mơ thấy mộng thấy. 

                     Lạy trời đêm nay mằm mộng thấy. 
                     Mộng thấy người cho đỡ nhớ thương
                                           (Thơ của bạn LCV) 

Thấy còn để diễn tả một cảm xúc như thấy thương, thấy ghét. Hay để diển tả một sự quá độ (mệt , buồn , nhớ ...) thấy bà, thấy trời, thấy mồ tổ. Thấy được ghép với động từ cũng chỉ sự nhìn như trông thấy, nhìn thấy, dòm thấy, ngó thấy, xem thấy. Thấy là kết quả hiển nhiên của sự nhìn. 

                    "Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy.
                     Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
                     Ngàn dâu xanh ngắt một màu. 
                     Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai."

Đoàn thị Điểm đã khéo léo dùng hai từ trông và thấy để diễn tả liên hoàn một tâm trạng (bi ai) của chinh phu và chinh phụ lúc biệt ly.
 Vương Xương Linh, một tác giả Trung Quốc viết bài Khuê oán:

                    Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu .
                    Xuân nhựt hương trang thượng thúy lâu. 
                    Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc.
                    Hối giao phu tế mịch phong hầu.

Và kẻ hậu sinh này cũng bắt chước dịch như sau:

                   Trong cung thiếu phụ không sầu. 
                   Ngày xuân trang điểm lên lầu nhìn quanh.
                   Giật mình thấy sắc liễu xanh. 
                   Tiếc chồng vạn dặm công danh chưa về.
                            (Lời than khuê phụ, Nhã My dịch)

Thấy còn được "phóng tầm" ra không gian xa như nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan đã viết:

                   Xế thu người thấy xế thu chưa.
                   Sương trắng dồn lên khắp lối về.

Bây giờ xin mạn bàn tới chữ ngó và coi.

 Ngó là động từ cũng chỉ sự nhìn, để ý tới như ngó chừng, ngó xem, ngó thấy. Bà con với ngó là ngắm như ngắm cảnh (kiểng), ngắm hoa, ngắm núi, ngắm biển. Còn có nghía như ngắm nghía (từ đôi), nghía hàng (tiếng lóng). Ngắm nghía được ghép chung thành động từ kép chỉ sự chăm chú kỹ lưỡng khi nhìn hay lựa chọn. Ngó cũng dùng như từ trên cao nhìn xuống. Người đàn bà vô phước bất lực trước cảnh chồng đi nhậu nhẹt say sưa hay đánh bài phá của, mèo chuột nhăng nhít đã phải kêu lên ''Trời ơi ngó xuống mà coi ''. Nguyễn Du (Cầm diễn giả ) đã thốt lên khi gặp lại người xưa mà nhan sắc bây giờ đã tàn phai theo thời gian năm tháng.'' Đưa con mắt ngó mà mơ. Người xưa thế ấy ai ngờ đổi thay ''(NM dịch).Và đây là một chàng trai nhớ người yêu nhưng chỉ dám'' ngó em chẳng dám ngó lâu. Ngó qua một cái đỡ sầu mà thôi'' (vì quá bận hay vì sợ người khác ... ngó thấy ?)

Coi là xem đi coi hát, coi bói, coi tướng, coi tay, coi trời, coi ngày, coi bộ, coi kìa, coi chừng, coi nhà, coi cửa, coi mạch, coi quẻ, coi sóc, coi thường, coi như là, coi mặt đặt tên, coi kiếng (soi gương) và … coi mắt (coi vợ, coi dâu), coi cọp (cọp dê tức copier ngày trước khi gánh hát về làng thường hát ở sân chợ, sân banh sân khấu lộ thiên khan giả ngồi trong sân chỉ được che chắn sơ sài những ai không có tiền mua vé thì thường leo lên cây hoặc mái nhà gần sân khấu để coi hát cọp)


Dòm tự điển tiếng Việt giải nghĩa là nhìn qua khe hở, hé cửa dòm vào . Dòm là … dò xét, tìm kiếm, dòm trước ngó sau, trông một cách chú ý , để tâm theo dỏi. Dòm ngó là tò mò chuyện riêng tư của thiên hạ (ý không được tốt). Mới đây ở trong nước có scandal ''người đẹp dòm ngực'' khi một cô người mẫu tuyên bố là ngực của cô người mẫu khác là ngực thiệt sau khi cô này đã dòm được lúc bạn đang tắm!

Liếc giải thích theo từ điển là đưa mắt nhìn chếch sang một bên, rảo tròng mắt qua một bên để trông xéo mặt vẩn ngó ngay phía trước liếc trộm, liếc xéo, liếc liếc. Cử chỉ đưa mắt liếc ngay mặt người nào đó rồi liếc trở lai liền được coi như ghét bỏ người đó hoặc tỏ ý hằn học không thân thiện. Liếc cũng là nhìn sơ qua như liếc qua trang sách, liếc mắt nhìn trộm, liếc mắt đưa tình (đá lông nheo). Phan Khôi trong" Tình già" tả cảnh:

                         Hai mươi bốn năm sau .
                         Tình cờ đất khách gặp nhau .
                         Cả hai mái đầu đều bạc .
                         Liếc mắt đưa nhau rồi .
                         Con mắt còn có đuôi
              (đừng nhìn nhau nữa ai ơi .Tuyệt!) 

Còn Nguyễn công Trứ thì cứ … ung dung

                       Liếc mắt xem chơi người lớn bé . 
                       Ngoảnh lưng bàn phiếm chuyện xưa nay .

Nhìn là động từ có nghĩa là chú ý trông như nhìn sửng, nhìn chòng chọc, nhìn trố mắt (giương mắt ra để nhìn cho rõ), nhìn trân trân, nhìn trừng trừng, nhìn trối chết.'' Mẹ già trông con nhìn lá thu rơi.'' ''Nhìn nhau mà lệ ứa .'' Nhìn cũng có nghĩa là thừa nhận nhìn bà con, bạn bè, nhìn … con rơi. 

                      Gặp nhau cũng chẳng dám nhìn.
                      Cứ xem như thể là mình chưa quen.
                                                       (Thơ Nhã My)

Xem: nhìn để biết. Xem cảnh, xem sách, xem hát, xem hội, xem đời, xem truyện.
Xem là xét lại, xét kỹ như xem sổ sách, xem thiên văn, xem tử vi, xem lại.
Xem như là so sánh xem như, xem tợ, xem xem, xem ra


Trên đây chúng ta đã đảo qua một số động từ có dính líu tới đôi mắt. Phải nói là từ ngữ tiếng Việt vô cùng phong phú và sâu sắc. Đó là những từ thuần Việt. Để diễn tả tới những … hệ lụy có liên quan đến đôi mắt người Tàu dùng từ khán, kiến. Ta không dùng những từ này như động từ mà ghép với một danh từ Hán Việt khác thành danh từ kép để diễn tả sự việc có liên quan tới sự nhìn như là khán giả, khán đài, khán phòng, khán thính giả ...  Tuy là những từ được ghép bằng chữ Hán Việt nhưng cũng là từ thuần Việt (nếu tìm trong từ điển tiếng Hoa sẽ được trả lời không thấy vì người họ không xài những từ này)
Ông cha chúng ta đã dày công vun đắp nên một nền văn hóa VN tuyệt vời đầy màu sắc mà mỗi con cháu chúng ta có bổn phận phải trân trong, giữ gìn .

Tiếng Việt còn người Việt còn. Mong lắm thay.(Phạm Quỳnh)

                                                        SƯƠNG LAM

                                         ( Trích Tôi yêu tiếng nước tôi )


******************************************************

                        TẢN MẠN VỀ ĐÔI MẮT
                                     (Bài 2)

                Bất tri tam bách dư niên hậu
                Thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như

               (Nguyễn Du –Độc Tiểu Thanh ký )

     Tạm dịch: 


                Ba trăm năm nữa về sau
                Biết ai là kẻ khóc sầu Tố Như

Đôi mắt ngoài nhiệm vụ để xem và thấy thì còn có một nhiệm vụ khác cũng không kém phần quan trọng là dùng để... khóc.Nếu con người không ai ...biết khóc thì thế gian này chắc sẽ là chốn thiên đường còn cặp mắt và tuyến lệ kia sẽ bị ...thất nghiệp .

Đứa bé lần đầu tiên đến trình diện cuộc đời bằng ...tiếng khóc (và nếu nó không khóc được thì nguy to vì có thể là nó không muốn ... gia nhập vào cộng đồng nhân thế nhiều phiền lụy này). Ai mà dám chắc rằng trong suốt cuộc đời mình chưa một lần đã khóc.
Vui khóc, buồn khóc, tức khóc, giận khóc, sướng khóc, khổ khóc.

Khóc từ Hán Việt là khốc (có dấu ô) có nghĩa là khóc thành tiếng và khấp(chữ â) là khóc không (ra) nước mắt, không thành tiếng, khóc ở trong lòng.

Để diễn tả cách khóc từ ngữ VN ta cũng có rất nhiều. Khóc sướt mướt, khóc nức nở, khóc thảm thương, khóc thê thảm, khóc thảm thiết, khóc thê lương, la khóc, gào khóc, kêu khóc, khóc hu hu.

Ở cấp độ nhẹ hơn thì khóc rưng rức, khóc rưng rưng, khóc...sơ sơ. Và còn có khóc thầm, khóc dối, khóc …giả đò.
Khóc là phản ứng của con người khi tình cảm xáo trộn thất thường mà chưa có sự can thiệp kịp thời của lý trí. Khóc cũng có khi vô duyên vô cớ “bỗng dưng muốn khóc’’. Khóc vì vòi vĩnh vì không được thỏa mãn đòi hỏi như trường hợp của trẻ con.

Khóc không chỉ cho riêng mình mà còn khóc ... cho thiên hạ . 

                   Khóc than chi xiết sự tình. 
                   Khéo vô duyên bấy là mình với ta
                                                            (Kiều )
Thông thường thì khi khóc phải chảy (ra) nước mắt. Từ lệ trong tiếng Tàu là chữ mục (có nghĩa là con mắt) có bộ thủy (là nước ). Không nói thẳng từ khóc mà chỉ nói lệ rơi (hay rơi lệ ) lệ ứa (ứa lệ ) nước mắt tuôn rơi, nước mắt rơi sợi vắn sợi dài hoặc đơn giản bình dân hơn chảy nước mắt là ta sẽ hiểu. 

      " Lau mắt đi em lệ ướt vai rồi ..." 

                        (Sang ngang - Đỗ Lễ)

Chữ lệ còn có thêm nghĩa khác (viết khác) là xinh đẹp mỹ miều. Do đó Lệ - tên lót của những người con gái - cũng thường có hai nghĩa. Thường thì ta dùng chữ lệ là đẹp, tránh chữ lệ là nước mắt vì sợ cuộc đời của những người mang tên này sẽ không được vui vẻ.
Tôi có một người bạn có cái tên đẹp mà cũng buồn Đỗ Lệ Hoài Thu. Họ Đỗ đi với Lệ đọc ra âm Việt thì cũng giống như là đổ lệ (khóc). Những ngày còn nhỏ tôi cũng thường hay thắc mắc về cái tên của bạn. Tôi nghĩ là hẳn bố mẹ của cô ấy chắc cũng có ... máu nghệ sĩ nên đặt tên con ... sướt mướt như vậy. Rồi một hôm hỏi bạn thì được biết ... y chang như vậy. Cô ấy sinh ra vào mùa thu khi người cha “theo tiếng gọi của núi sông” đi mất và người mẹ nhớ hoài mùa thu chia ly mà khóc! Về sau không biết có phải vì cuộc đời của cô ấy có thật sự không vui hay không mà khi làm lại giấy tờ bạn tôi bỏ đi chữ Lệ.

                                                         (Nói chuyện bên lề )

Nói về khóc thì có lẽ người Tàu ... ham (mê) khóc nhứt. Trong phim ảnh của Tàu chắc chắn là sẽ có vài cảnh khóc. Diễn viên khóc chưa đủ (đã) họ còn viết thêm tiểu thuyết tình cảm lâm ly bi đát để lấy thêm nước mắt của người đời. Trong đám tang ngoài thân nhân khóc lại còn thuê mướn thêm người ngoài vô khóc (khóc để diễn tả nỗi buồn hay khóc cho người chết được ...vui vì thấy con hiếu thảo,’’bàn dân thiên hạ ‘’tiếc thương!?)

Chiến tranh loạn lạc, chết chóc tang thương đã xô dân tộc VN xa dần với những nụ cười.
Những giọt nước mắt đắng cay khóc cho số phận, khóc cảnh chia ly, khóc vì mất mát tủi nhục cay đắng khổ đau.
Và đêm nay ở nơi cái xứ sở tuyết phủ sương giăng này cũng có một người xa xứ cũng đang ... đổ lệ hoài hương.
                                                                         SƯƠNG LAM
READ MORE - Phiếm luận : TẢN MẠN VỀ ĐÔI MẮT - Nhã My

NGHỆ SĨ ĐÌNH HẠP: NỈ NON SÁO TRÚC, NHỊ CẦM - Võ Quê

Nghệ sĩ ĐÌNH HẠP



Nghệ sĩ Đình Hạp sinh năm 1938 tại làng Tả Kiên, xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong, Quảng Trị. Từ nhỏ, Đình Hạp có năng khiếu âm nhạc khi được tiếp cận với các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, tế lễ tại các đình, đám ở trong làng, xã quanh vùng. Do gia đình có truyền thống hoạt động cách mạng, đã có nhiều cống hiến vào các phong trào kháng chiến chống Pháp nên tình yêu nước, tình yêu quê nhà cũng được nung nấu, hình thành trong tuổi thơ Đình Hạp cho đến lúc lớn khôn.

Năm 17 tuổi (1955) Đình Hạp đã cùng người anh ruột vượt tuyến ra Bắc với tâm nguyện góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân, dành độc lập tự do, thống nhất tổ quốc. Xuất phát từ niềm say mê âm nhạc, trong khi ông anh theo học ngành múa thì năm 1958 đình Hạp thi vào ngành trung cấp nhạc dân tộc tại Trường Quốc gia Âm nhạc Việt Nam. Trong ba năm theo học ở nhà trường, Đình Hạp chuyên tâm rèn luyện hai loại nhạc cụ dân tộc là đàn nhị và sáo trúc, tập trung học hỏi phương pháp ký âm nhạc dân tộc.

Năm 1961, vừa tốt nghịêp trường Quốc gia Âm nhạc, Đình Hạp xin vào công tác tại Đoàn Ca kịch Trị Thiên (nay là Nhà hát Nghệ thuật Ca kịch Huế) đang đóng tại Mai Dịch, Từ Liêm Hà Nội, trong khi người anh của Đình Hạp đã là giảng viên Trường Múa Việt Nam. Trong quá trình ở Đoàn, Đình Hạp đã có điều kiện thực hành sở học nhà trường vào môi trường mới. Đình Hạp đã cùng các đồng nghiệp thường xuyên gặp gỡ, trình tấu, rèn luyện kỹ năng các nhạc cụ. Âm thanh réo rắt của đàn nhị, tiếng véo  von thanh thoát của sáo trúc cùng hòa âm với các ngón đàn của các nhạc hữu khác đã giúp Đình Hạp định hình tài năng cùng thực tiễn sân khấu, ca kịch Trị Thiên. Tại Đoàn, Đình Hạp căn cứ vào tính năng của từng loại nhạc cụ, các bài bản lớn của ca Huế, dân ca Bình Trị Thiên mà viết những bài nhạc cho riêng từng loại đàn tranh, tỳ bà, nguyệt cầm, nhị hồ... Đình Hạp đã có những thành công nhất định khi viết nhạc nền cho một số vở ca kịch Huế như "Con gà chân chì", "Phụng Nghi Đình", "Hoãn cưới" cùng nhiều hoạt cảnh ca kịch khác; Bên cạnh việc viết nhạc nền, Đình Hạp còn viết lời ca để nghệ sĩ Văn Lang đưa vào một số vở ca kịch Huế.

Việc sưu tầm, chỉnh lý, ký âm các điệu lý, dân ca lưu truyền trong dân gian từ trước đến nay là một trong những mối quan tâm của Đình Hạp. Anh đã chịu khó sưu tầm loại hình âm nhạc thuộc nhóm "nồi niêu", những bài bản "Xàng xê kép", "Lai kinh", "Chiến chiến", "Bông man", "Cơn roi mây tắt" ...  Nhiều đồng nghiệp, nhạc hữu ghi nhận công lao khó nhọc đầy trách nhiệm của Đình Hạp trên lĩnh vực này bởi qua các công trình nghiên cứu, sưu tầm, ký âm của Đình Hạp một bộ phận âm nhạc truyền thống trong dân gian không bị thất truyền mà được phục hồi, truyền bá một cách có hệ thống, phục vụ kịp thời các yêu cầu thưởng ngoạn của công chúng.

Năm 1964, nghệ sĩ Đình Hạp bắt đầu có một mối tình nghệ sĩ với Kim Vàng, diễn viên đoàn Ca kịch Trị Thiên cùng chung một sàn diễn với Đình Hạp. Mối tình đẹp đẽ ấy kéo dài đến 6 năm với nhiều kỷ niệm xuân thời. Năm 1970, Đình Hạp - Kim Vàng chính thức làm lễ cưới tại Hà Nội và họ đã sinh hạ được hai người con gái mà hiện nay đã trở thành hai nghệ sĩ : Mai Anh (đàn tranh), Mai Sao (diễn viên) đều đang công tác tại Nhà hát Nghệ thuật Ca kịch Huế. Từ năm 1980, nghệ sĩ Đình Hạp đã được Trường Nghiệp vụ Văn hóa tỉnh Thừa Thiên Huế mời giảng dạy âm nhạc cho nhiều thế hệ trẻ. Đã có nhiều học trò của Đình Hạp thành đạt sau khi ra trường, trong đó có nhạc công trẻ Minh Tuấn, hiện đang sử dụng đàn nhị ở Nhà hát Nghệ thuật Ca kịch Huế. Năm 1985, Đình Hạp ra công tác tại Phòng Văn Hóa Thông Tin Thị xã Đông Hà, tại đây dù đang trong giai đoạn gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn nhưng Đình Hạp đã góp phần tích cực trong việc xây dựng các phong trào văn hóa văn nghệ tỉnh Quảng Trị.

Sau khi ở Đông Hà một thời gian, Đình Hạp trở lại Huế cùng gia đình tham gia sinh hoạt nghệ thuật cùng CLB ca Huế thuộc Nhà Văn Hóa Huế. Đêm đêm du khách trong và ngoài nước có dịp thưởng thức những giai điệu đẹp từ cây đàn nhị của Đình Hạp cùng hòa âm với giọng ca ngọt ngào của các nghệ sĩ Ca Huế.

Do có quá trình hoạt động cách mạng, hoạt động trên lĩnh vực nghệ thuật, nghệ sĩ Đình Hạp đã được Nhà Nước tặng Huân chương Kháng chiến hạng III, Huy chương Chiến sĩ văn hóa, Bằng khen Bộ Văn Hóa Thông Tin, UBTQLHCHVHNT Việt Nam tặng Huy chương Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam... Hiện nay, gia đình nghệ sĩ Đình Hạp là một "mái ấm nghệ thuật" đúng nghĩa vì từng thành viên trong ngôi nhà ấy đã đi đúng định hướng của các nghệ sĩ lão thành thuộc thế hệ trước trong gia tộc. Tất cả một lòng cùng giới nghệ sĩ Huế ra sức bảo tồn, truyền bá đàn ca Huế, Ca kịch Huế, dân ca Bình Trị Thiên…

VÕ QUÊ
voque_hue@yahoo.com.vn
READ MORE - NGHỆ SĨ ĐÌNH HẠP: NỈ NON SÁO TRÚC, NHỊ CẦM - Võ Quê