Những ngày đầu hạ 2014 thời tiết
nắng nóng bất thường. Cùng với cái nóng của thời sự, nóng bởi sự an nguy của
nước nhà, nóng theo từng con sóng biển Đông và nóng theo từng diễn biến trên
bàn ngoại giao của lãnh đạo Đảng và nhà nước. Nóng nhất có lẽ là cái nóng từ
trong lòng của hơn chín chục triệu người dân trên khắp mọi miền của tổ quốc…
Già trẻ gái trai mỗi người có
cách bày tỏ tình yêu tổ quốc khác nhau… bày tỏ sự lo ngại cho việc
Trung Quốc cắm giàn khoan 981 trên thềm lục địa của chúng ta cũng khác nhau…
Tôi đã gặp một sự trăn trở, một
sự lo lắng rất đặc biệt của tác giả Trà Thanh Lam khi ông ngược dòng lịch sử để
so sánh với hoàn cảnh hiện giờ của dân tộc. Để rồi gói gọn trong bài thơ mang
tựa đề:
Đau Thương
Một thời đất nước tang
thương
Mất cảnh giác!
An Dương Vương lụi tàn
Loa Thành chết chóc, khóc than…
Thủy triều đỏ…
ngỡ máu tan…
Biển sầu!
Hồn Trọng Thủy - xác Mỵ
Châu
Đất rung chuyển …
biển bạc đầu…
Vì ai?
Ngọc trong đau đớn lòng
trai
Vua ôm mối hận, đã vài ngàn
năm…
Kim Quy buồn bã bặt tăm...
Triều thần tù tội, nát tan cửa
nhà ...
Đau thương còn mãi trong
ta...
Bài học ngày ấy...
nước nhà hôm nay!
Bài thơ lục bát biến thể ngắn gọn với những câu thơ được ngắt nhịp
dài, ngắn khác nhau theo một nhịp thơ trầm lắng xuyên suốt một thời gian dài
tính bằng đơn vị Ngàn năm… Với một cột mốc lịch sử cụ thể là
Một thời đất nước tang
thương
Mất cảnh giác!
An Dương Vương lụi tàn
Loa Thành chết chóc, khóc
than…
Ngày Triệu Đà mang quân đánh
chiếm đất nước Âu Lạc. Nhưng phải chịu rút lui trước sự kiên cường chống trả
của quân tướng tổ tiên nước ta lúc bấy giờ…
Sau đó, có lẽ đã “ngủ quên trên
chiến thắng”, vua An Dương Vương mất cảnh giác đã kết tình thông gia
với Triệu Đà cho Trọng Thuỷ ở rể vì hết mực yêu thương con gái là Mỵ Châu…
Truyền thuyết thành Cổ Loa và chiếc nỏ thần lưu truyền mấy ngàn năm nay hẳn mỗi
người dân Việt từ khi nằm nôi đến lúc trưởng thành ai cũng tường tận…
Hậu quả của sự mất cảnh giác ấy
dẫn đến mất nước. Màu tang tóc đầu rơi máu chảy bao trùm lên khắp
các gia đình người dân…. Hạnh phúc của con gái cũng tan theo và một kết cục bi
thảm Vua cha rút gươm báu chém chết con gái… rồi tự vẫn. Mọi sự ân hận đều đã
muộn và hậu quả thì vô cùng tàn khốc để đến hôm nay sau hơn hai ngàn năm tác
giả đã viết:
Thủy triều đỏ…
ngỡ máu tan…
Biển sầu!
Hồn Trọng Thủy - xác Mỵ
Châu
Trọng Thuỷ vì chung tình mà chết
đó là cái tình riêng..
Hàng triệu oan hồn người dân chết
thảm theo cái chết bởi ân hận mình mất cảnh giác với người đã từng
là kẻ thù cướp nước của nhà vua là nỗi đau của cả dân tộc... là bài học mà mỗi vị
lãnh đạo cấp cao cho tới người dân thường cần ghi nhớ…
Tác giả hẳn đã đau với nỗi đau
chung của cả dân tộc, từng phải “một ngàn năm đô hộ giặc Tàu..” Nhiều trở trăn,
nhiều suy nghĩ có trách nhiệm với danh phận một người dân yêu nước… Ông đã bật
lên thành câu thơ và cũng là câu hỏi nhức nhối người đọc khi không dễ tìm câu
trả lời:
Đất rung chuyển…
biển bạc đầu…
Vì ai?
Mất nước, vương triều sụp đổ… cả
dân tộc chịu ách nô lệ nhiều đời… câu trả lời đã có!
Đất vì ai mà rung chuyển? Biển vì
ai mà bạc đầu? Vài ngàn năm vẫn là câu hỏi thật dễ mà lại vô cùng
khó trả lời…
Dòng trăn trở của tác giả còn nối
tiếp. Vẫn biết để có viên ngọc trai sáng trắng phải trải qua đau đớn trong lòng
con trai mới kết thành…
Ngọc trong đau đớn lòng
trai
Vua ôm mối hận, đã vài ngàn
năm…
Kim Quy buồn bã bặt tăm...
Triều thần tù tội, nát tan cửa
nhà ...
Truyền thuyết tổ tiên ta để lại
có phần ưu ái cho mối tình của hai kẻ tiếp sức cho Triệu Đà thôn tính Âu Lạc.
Lẽ nào nước mắt xót thương vợ của một kẻ hãm hại cả một dân tộc rơi vào “Nát
tan cửa nhà” lại hoá thành những viên ngọc trai ... và khi được rửa ở nước
giếng mà hắn gieo mình tự vẫn lại sáng đẹp... hậu thế hôm nay dẫu có thắc mắc
thì cũng chẳng tìm ra được câu trả lời...
Nhưng việc mà vua mất cảnh giác,
thì hậu quả thảm khốc đến sẽ là tất yếu… Bởi khi ấy ngay cả thần Kim Quy cũng
không thể cứu vãn… chỉ có thể chỉ ra kẻ thù rồi “buồn bã lặn bặt tăm…”
Phải chăng ở đây tác giả muốn
mượn hình ảnh viên ngọc trai quý nhất, chính là nền hoà bình cho một dân tộc mà
xương máu lớp lớp tổ tiên đã đổ ra ... Đơn cử chỉ một trận đánh Gò Đống Đa của
Vua Quang Trung năm 1789 mà đã
Thánh Nam thập nhị kình nghê quán
Chiến điệu anh hùng đại võ
công (Loa Sơn Điếu Cổ- Ngô Ngọc Du)
Dịch là:
Thánh Nam xác giặc mười hai đống
Ngời sáng anh hùng đại võ công
Hoặc:
“Đống Đa xưa bãi chiến trường
Ngổn ngang xác giặc vùi xương
thành gò”.
Đó mới chỉ là máu xương của quân
địch….ai có thể đong đếm nổi “lòng trai mẹ” Việt Nam trải qua bao nhiêu đời với
triệu triệu anh hùng ngã xuống để có cuộc sống hôm nay…
Ngoài biển khơi kia sử sách chẳng
ghi nổi có bao nhiêu người đã ra đi làm nhiệm vụ giữ quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa không trở về… Chỉ biết ngay tại điểm xuất phát những chuyến đi ấy là
Đảo Lý Sơn thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Cho tới tận ngày hôm nay vẫn còn giữ
phong tục cúng tế “Lễ Khao Lề Thế Lính Hoàng Sa” (Tế người sống - tiễn người
sống ra đi mà ai cũng xác định sẽ không trở về). Theo sự phỏng đoán của các sử
gia thì chỉ tạm tính từ khi chúa Nguyễn Hoàng vào Đàng trong thì những người
lính được gọi là Hùng Binh, đã vượt biển ra đảo Hoàng Sa và sau này thêm Trường
Sa từ Lý Sơn không dưới Vạn người. Mấy ai trong số đó trở về đâu… bởi vậy
nay trong dân chúng vùng này vẫn lưu truyền câu ca
Hoàng Sa trời nước mênh mông
Người đi thì có mà không thấy về
Hoàng Sa mây nước bốn bề
Tháng hai (ba) khao lề thế lính
Hoàng Sa (ca dao)..
Xưa tổ tiên ta tế sống những
thanh niên trai tráng ra đảo bảo vệ chủ quyền bằng lễ “khao lề thế lính Hoàng
Sa”….
Thời hiện đại nay vẫn còn 75
người con nước việt nằm lại biển khơi trong trận Hải chiến Hoàng Sa
năm 1974 với quân Trung Quốc… và gần nhất là trận Gạc Ma với 64 người con nước
Việt nữa đã vĩnh viễn nằm lại biển khơi…
Còn Đất rung chuyển nào đâu chỉ
có xa xưa..
Gần đây ngay những năm cuối thập
niên 70 của thế kỷ trước. Mới “Hảo Hảo” ngày nào… Lập tức lật mặt ngay.
Chúng mang quân sang xâm lược năm 1979 những câu hát “Quân xâm lược bành trướng
dã man. Đã dày xéo mảnh đất tiền phương. Lửa đã cháy và máu đã đổ trên khắp dải
biên cương” (Chiến đấu vì độc lập tự do -Phạm Tuyên) đã phần nào nói lên bản
chất của quân xâm lược… và cuối cùng chúng phải bỏ lại xác hơn ba vạn quân… rồi
rút lui…
Viên ngọc hoà bình hôm nay quả
thật được hình thành từ Đau Thương…
Những “Đau thương còn mãi trong
ta...” lời nhắc nhở đầy trách nhiệm của một công dân yêu nước Trà Thanh Lam vẫn
còn tiếp tục:
Bài học ngày ấy...
nước nhà hôm nay!
Vâng nước nhà đang lâm nguy, bởi
kẻ thù đã vào tới cửa ngõ, chúng cắm giàn khoan, mang theo một lực lượng hùng
hậu tàu chiến, máy bay, tàu cá trá hình gây hấn trên biển Đông… Trong nước
chúng cho thương lái đi thu gom hết móng trâu bò, rễ tiêu, lá cà phê.. đỉa
và vô vàn những chiêu trò hại dân ta…
Việt Nam ơi! Cần lắm. Rất cần những cái
đầu tỉnh táo cảnh giác với “phường quay lưng” ngàn đời nay lăm le cướp nước… Để
sự ân hận muộn màng của An Dương Vương không bao giờ lặp lại…
Và chắc chắn một điều, lòng dân
đoàn kết, lãnh đạo sáng suốt. Sẽ không có kẻ thù nào bước vào dẫu chỉ một tấc
đất hay một ngọn sóng ngoài biển khơi được.
Tôi xin mượn một đoạn ca từ trong
ca khúc “Chiến đầu vì độc lập tự do” của nhạc sĩ Phạm Tuyên để kết thúc cho bài
viết cảm nhận Đau Thương này:
Ôi đất nước của ngàn chiến công
Vẫn sục sôi khí thế hào hung
Những Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống
Đa vẫn gọi tiếp những bản hùng ca
Việt Nam ! Ôi nước Việt yêu thương
Lịch sử đã trao cho người một sứ
mệnh thiêng liêng
Mang trên mình còn lắm vết thương
Người vẫn hiên ngang ra chiến trường
Vì một lẽ sống cao đẹp cho mọi
người
Độc Lập- Tự Do!
Sài Gòn 6/6/2014
Huỳnh Xuân Sơn
Thông tin cá nhân:
Tác giả Huỳnh Xuân Sơn
Tên thật Cao Thị Phương Lan
hiện ở Thủ Đức, Tp HCM.
Email: huynhphuvang@gmail.com
Trà Thanh Lam gởi đăng qua email: vovansuu@tckt.edu.vn