Tác giả Trần Hữu Thuần |
(Kỳ 2)
Cha tôi mất rồi, tôi lớn thêm và bắt đầu thắc mắc tại sao
cha tôi không ở nhà lo lắng cho mạ và anh
em tôi như cha mấy đứa khác mà đi đâu ở
đâu rồi đột ngột quay về bệnh hoạn liệt
giường để chết mấy tuần sau đó. Thêm vào đó, tại sao mỗi khi không vui, mạ tôi đều nhìn xa xôi về phía đồng bằng, ôm tôi rồi
thủ thỉ vào tai tôi rằng An Đôn không phải là
quê hương chúng tôi mà là tận Phúc Lộc
đâu đó ở hướng mặt trời mọc, ở “dưới đó.” Tôi hỏi tại sao lại lên ở đây,
mạ tôi nói đã dìu dắt anh chị tôi và bế tôi lên An Đôn này sau trận lụt “Mậu
Thìn” khi tôi mới được ba tháng tuổi. Lúc đó, tôi nghĩ lí do đưa chúng tôi đến
đây chính tại quê tôi bị lụt tàn phá. Khi lớn hơn một chút, tôi tìm hiểu và
biết lụt Mậu Thìn năm 1928 triều Bảo Đại thứ ba, cũng là năm tôi chào đời,
chẳng phải là trận lụt gây thiệt hại miền Trung nhiều đến độ cha mạ tôi phải bỏ
xứ ra đi. So với các trận lụt năm Thìn trước đó như Giáp Thìn 1844, Giáp Thìn
1904, và sau đó Nhâm Thìn 1952, và Giáp Thìn 1964, lụt Mậu Thìn 1928 tàn phá
khủng khiếp ở Miền Nam nhưng vẫn chỉ là trận lụt như bao nhiêu trận lụt khác
hàng năm ở quê hương tôi. Vùng đồng bằng miền Trung dọc bờ biển, mỗi năm hứng
chịu năm sáu trận bão lụt là chuyện bình thường. Lí do nào ở đàng sau để cha mạ
tôi phải bồng bế anh chị em tôi bỏ đồng bằng Phúc Lộc lên đất An Đôn rừng rú
này? Mỗi khi tôi hỏi đến, mạ tôi đều tìm cách né tránh không trả lời. Một hôm,
dẫn tôi ra đầu hè, chị đầu của tôi bảo tôi:
“Mi muốn biết cha đi mô và tại răng gia đình mình lên chỗ ni
lắm, phải không?”
Tôi nhìn chị:
“Bộ chị biết?”
Chị cười:
“Trong nhà ni, tau không biết thì ai biết? Tau lớn hơn mi
hơn chục tuổi.”
“Biết răng lâu ni chị không cho em biết?”
Chị cười:
“Mi nhỏ chút xíu mần răng mà nói cho mi hiểu được?”
“Rứa chừ em hiểu được chưa?”
“Được rồi, mi hiểu răng thì hiểu. Quê mình ở Phúc Lộc, Triệu
Phong, mi biết chỗ mô không?”
“Không, răng mà em biết được? Chị biết?”
“Tau biết, tau lớn lên dưới đó.”
Cha tôi gốc Phúc Lộc, mạ tôi gốc Nhu Lí. Cha mạ tôi sở dĩ bồng bế anh chị tôi và tôi lên An Đôn này chẳng phải để tránh lụt
Mậu Thìn mà chỉ là cái cớ để ra đi không gây chú ý. Cha tôi phải trốn chạy vì
đang theo một “hội kín” mà cả mạ cả anh chị tôi đều chẳng biết là hội gì, ngoại
trừ đó là một tổ chức chống Tây thời đó. Đến tuổi trưởng thành, tôi nghĩ cha
tôi theo Việt Minh. Thời đó, người yêu nước muốn quê hương thoát khỏi ách thống
trị của thực dân Pháp đều theo một tổ chức chống Pháp nào đó, của Phan Bội
Châu, của Cường Để, của Phan Châu Trinh, của Huỳnh Thúc Kháng. Cuối cùng, nhiều
người theo Việt Minh vì đó là tổ chức duy nhất có lực lượng vũ trang để chống
Pháp. Có người đã tố cáo cha tôi nhưng Pháp chưa bắt mà chỉ cho người theo dõi,
có lẽ để tìm đủ bằng chứng hoặc cũng có lẽ để tóm trọn ổ. Thêm vào đó, cha tôi
còn “phạm” tội nấu rượu lậu. Thời đó, thực dân Pháp cho phép hãng Sica độc
quyền nấu rượu, ai nấu rượu lậu sẽ bị gán tội chính trị, bị tù đày tan nhà nát
cửa. Tuần tra lí trưởng chỉ cần bắt được ngoài ruộng ngoài vườn của ai đó một
hũ “hèm” tức gạo đang ủ men là đủ bằng chứng buộc chủ ruộng chủ vườn phải chạy
chọt tan nhà nát cửa hoặc phải đi tù mọt gông mà chẳng cần xét đến lí lẽ ngoài
ruộng ngoài vườn ai vào ai ra cũng được. Biết đã bị lộ, cha tôi muốn đã nuôi ý
nghĩ bỏ làng ra đi và trận lụt là lí do chính đáng để cha tôi thực hiện ý định.
Sau trận lụt, cha tôi hái các trái bí rất to mà ông đã trồng chia cho bà con,
rồi dắt díu vợ con lên An Đôn tá túc gần người chị của mạ tôi, viện cớ An Đôn
là vùng rừng núi đất cao không còn sợ lụt lội. Lên An Đôn, gia đình tôi tiếp
tục nghề nấu rượu lậu. Tránh bị phát giác, cha mạ tôi nấu rượu ban đêm trong
rừng và trữ rượu trong các hang hốc. Chẳng may, không làm sao che đậy hết được
ánh lửa bập bùng ban đêm, cha tôi bị phát giác và bị bắt. Tại nhà tù, cha tôi
bị phát giác thêm tội đã theo “hội kín” nên bị đày đi Lao Bảo, một trại tù ở
ngã ba biên giới, nơi hùm beo và muỗi sốt rét đầy tràn. Cha tôi được tha về để
chết mấy tuần sau đó là do đã bị bệnh “nước độc” tức sốt rét rừng, sau thời
gian nằm nhà thương điều trị không kết quả.
Cái không may đó của cha tôi và của gia đình tôi lại là cơ
duyên đưa tôi đến với Nguyệt, đến với tình bạn và tình cảm thơ dại để lại dấu
ấn suốt đời tôi. Vườn nhà tôi liền với vườn nhà Nguyệt. Nói là vườn nhà tôi
nhưng không thực sự là của gia đình tôi mà của chủ vườn. Mạ tôi không hề cho
tôi biết vì lí do nào, chủ vườn cho gia đình tôi cất một ngôi nhà nhỏ trong
vườn để ở tạm với nhiệm vụ trông coi vườn cho ông ấy. Phần vườn mênh mông được
trồng đủ loại cây ăn trái mà gia đình tôi được phép ăn hoặc biếu hàng xóm chút
ít nhưng không được phép bán. Khi cần, chủ vườn mướn người đến chăm sóc vườn
cây. Đến mùa, ông cho người thu hoạch trái đem bán. Phần đất trống chung quanh
nhà chúng tôi, mạ và các anh chị lớn của tôi đã trồng thêm rau ráng và vài loại
cây quen thuộc mà hầu như bất cứ gia đình thôn quê nào thời đó cũng trồng chung
quanh nhà. Bên phải nhà, cạnh bếp là một cây trà. Hàng ngày, mạ hoặc các chị
tôi ra hái một nắm lá đem vào rửa sơ rồi khoanh lại cho vào nồi đất nấu sôi
thành nước “chè.” Nước mới nấu rót ra tô, loại tô đựng canh hoặc ăn phở bây
giờ, màu vàng nhạt đậm một chút hơn màu rượu chát trắng, gần với màu mật ong
hoặc màu hổ phách, thơm phưng phức. Có người khi rót nâng cao vòi ấm cho nước
chảy mạnh xuống tô sủi bọt, bọt “đứng” càng lâu, nước trà càng đậm càng ngon.
Sáng thức dậy, đàn ông thường uống một tô lớn như vậy trước hoặc sau bữa ăn
sáng, thêm chút đường phèn là tuyệt vời. Đàn bà, con gái, và trẻ em chỉ uống
bằng chén, sau khi ăn cơm, không mấy ai uống sáng sớm như đàn ông. Nước chè nấu
đi nấu lại trong nồi không còn màu vàng trong như nước đầu nữa mà đã biến thành
màu vàng nâu. Sát bên cây trà là cây chanh cho trái để pha nước mắm, làm nước
chanh, cho lá để gói thịt gà khi thích, con gà cục tác lá chanh. Sau nhà là bụi
chuối Mốc, chuối Xanh, chuối Sứ. Chuối Sứ trái nhiều hột, chỉ ăn non làm rau
ghém với khế, lá dùng gói bánh chưng bánh tét, gói nem, gói tré. Cạnh bụi chuối
thế nào cũng phải có mấy luống thơm mà có nơi gọi là dứa hoặc khóm, mấy bụi ớt,
mấy bụi rau húng quế, một vạt húng đất, mấy cây cà trắng, cá tím, và cà chua
theo mùa.
Nhưng, không cây nào hấp dẫn trẻ con nói chung, Nguyệt
và tôi nói riêng, cho bằng mấy cây ổi.
Miền Trung thời đó chưa thấy có loại ổi
xá lị trái to như trái đu đủ ở miền Nam mà chỉ có loại ổi sẻ, cây mọc cao vút lên với
cành tỏa vươn dài ra. Cây ổi sẻ ít lá nhưng sai trái khi đến mùa. Ổi có hai
loại, ổi “nếp” và ỏi “tẻ.” Ổi “nếp” vỏ mỏng trơn tru, cơm màu trắng, ít hột. Ổi
“tẻ” vỏ sần sù, cơm màu đỏ, nhiều hột. Cả hai loại, hột đều rất cứng, khó tiêu
hóa được. Nhiều vườn ổi chẳng do người trồng mà mọc lên từ hột do chim phóng uế
ra. Đến mùa, hương ổi chín thơm ngát mời mọc trẻ em và lũ chim chóc dơi chuột.
Mùa không trái, cành ổi dẻo dai là nơi cho đám con trai bạo dạn như tôi trèo
lên cành làm “xiếc.” Tôi men cành ra chỗ xa nhất, ngồi vắt vẻo đù đưa theo gió,
rồi nhún nhẩy cho cành đong đưa “bay” từ phía này sang phía khác giống như loài
khỉ loài vượn, chỉ khác không buông cành này bay qua cành khác. Dưới gốc cây,
Nguyệt hoảng hốt la lớn:
“Coi chừng anh, gãy cành bây chừ.”
Cành ổi chưa lần nào gảy để gây tai nạn cho tôi, không biết
vì may mắn hoặc vì tôi chẳng nặng nề gì đáng kể so với độ dẻo dai của nó. Dẫu
vậy, thấy tôi càng “bay” càng hăng, Nguyệt gắt lên:
“Anh có xuống liền không? Em về đây nè.”
Thấy Nguyệt đang long lanh nước mắt, tôi vội vàng tụt cây
leo xuống, không phải vì sợ nguy hiểm mà vì không đành lòng nhìn thấy những
giọt nước mắt trên đôi mắt Nguyệt. Tôi không hiểu sợi dây vô hình nào cột chặt
hai đứa chúng tôi vào nhau như hình với bóng. Vắng tôi, Nguyệt đi tìm. Vắng
Nguyệt, tôi buồn chẳng thiết làm điều gì khác kể cả đá dế, trò chơi mà tôi có
thể lao theo quên ăn quên ngủ. Bạn gọi đi đá dế, không có Nguyệt, tôi không đi.
Bạn gọi đi bắt dế, không có Nguyệt, tôi không đi. Ngược lại, để tôi vui, dù
không thích chơi dế, Nguyệt sẵn sàng bắt dế cho tôi vì nhanh nhẹn hơn tôi rất
nhiều. Có lần, chẳng biết do ai thách đố, tôi xuống tận thị xã Quảng Trị đá dế
thi. Nguyệt theo tôi đi bộ từ An Đôn xuống thị xã. Đường đất xa tít mù. Từ An
Đôn, hai đứa lội bộ mấy cây số xuống đến cầu Ga. Quốc lộ 1 lúc đó chưa phát
triển vì chưa có nhiều nhu cầu cho xe cộ lưu thông. Xe trên đường phần lớn là
“công-voa” nhà binh Pháp, mỗi tháng vài lần xe tải của hãng Trương Công Huynh
đệ chở hàng từ Huế ra Quảng Trị Quảng Bình. Vì thế, mặc dù xe vẫn chạy qua cầu
Ga, cầu chủ yếu dành cho xe lửa nên ván sàn được lót thưa nhau. Xe đạp phải dắt
qua. Đi bộ phải nhìn chằm chặp xuống chân, sợ lọt chân rơi xuống sông. Con trai
bặm trợn như tôi không thấy gì, con gái nhát gan như Nguyệt, bước hân lọng
cọng, mặt mày tái mét. Qua khỏi cầu rẽ trái lội bộ thêm một đỗi xa nữa là đến
thị xã. Tôi tinh nghịch hỏi nguyệt:
“Em theo anh đi xa như ri vì thích đá dế rồi phải không?”
Nguyệt ngúng nguẩy trả lời:
“Không thích, em vẫn không thích.”
“Không thích răng theo anh làm chi cho mỏi chân?”
Nguyệt hứ một tiếng:
“Thì em nói rồi, em muốn gần anh cho anh vui.”
(Còn tiếp)
Trần Hữu Thuần