ĐOÁN SỐ TỬ
VI KHOA HỌC KHOA HỌC HAY MÊ TÍN?
Môn phái
"số tử vi" (STV) từ Trung Quốc truyền sang Việt Nam ta từ thủa xa xưa
và cũng không ai biết được chính xác nó đã xuất hiện ở nước ta vào thời kỳ nào.
Tuy vậy, qua các sách vở lưu truyền lại, người ta cũng đã biết ông Tổ sư của
môn phái STV này là do ông Trần Đoàn tức là Hi Di Tử thời nhà Tống Trung Quốc
(năm 966-980) sáng lập ra. Sách Vân Đài loại ngữ của Lê Qúy Đôn cũng xác nhận
như thế. Về sau, các nhà Tử Vi học cứ diễn dịch, triễn khai dần dần thành một
môn Tử Vi chính thống. Ở Việt Nam
ta cũng xuất hiện một số sách về STV của các tác giả như Vân Đằng Thái Thử
Lang, Nguyễn Phước Lộc, Nguyễn Mạnh Bảo v.v...
Cách thức
lập lá số và phép luận giải rất bài bản, công phu. Cơ sở phương pháp luận của
STV là dựa vào thuyết "ÂM DƯƠNG NGŨ
HÀNH". Do đo,vấn đề STV làm cho nhiều người xưa và nay càng thêm quan tâm
tìm hiểu.
Thực ra vấn đề STV có hay, dở ra sao còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó có yếu tố
khả năng, tài nghệ của người lý giải. Còn về mặt khoa học nó đạt mức độ nào
cũng chưa ai đánh giá, tổng kết một cách khách quan, sát thực.
Theo quan
điểm của các nhà chiêm tinh học Trung Quốc đã cho hay rằng: mỗi con người ta
sinh ra trong một thời điểm nào đó (năm, tháng, ngày, giờ âm lịch) thì đều có các vì sao tương thích
trong vũ trụ tác động vào cơ thể của người ấy và làm ảnh hưởng đến toàn diện
cuộc đời nhân sinh về trí tuệ, tình cảm, sức khỏe, sở trường v.v... Từ đó, các
nhà Tử Vi học đã nghiên cứu , sắp xếp và quy định được 14 vì sao chính và 97
sao phụ. Tất cả các loại sao đều được phân vị theo quy tắc kết hợp hoặc riêng
biệt và tác động lên 12 cung đời của từng người trong bản đồ lá STV. Đó là các
cung: Bổn mệnh, Phụ mẫu, Phúc đức, Điền
trạch, Quan lộc, Nô bộc, Thiên di, Ách tật, Tài bạch, Tử tức, Phu thê, Huynh đệ
.
Cung mệnh
được an vị đầu tiên theo tháng và giờ sinh, còn các cung sau lần lượt theo
chiều thuận kim đồng hồ mà định vị trong từng ô của lá số theo thứ tự: mệnh,
phụ mẫu, phúc đức ... còn có cung thân không cố định riêng,là cung ngụ cư tại một
cung nào đó, tuỳ theo đặc điểm của lá số Cung thân an vị cũng theo tháng và giờ
sinh như cung mệnh chỉ khác là chiều tính giờ thì ngược lại.
Các sao
chính có 14 sao. Sao Tử vi làm chủ hệ.
Nó được an vị theo ngày sinh và phụ thuộc vào bản cục của đương số còn các sao
khác phụ thuộc vào sao Tử Vi và định cư theo quy tắc riêng. Thí dụ: Sao Thiên
phủ bao giờ cũng ở vị trí đối xứng qua đường chéo Dần - Thân của lá số. Nếu Tử
Vi ở Tý thì Thiên phủ ở Thìn; Tử vi ở Tuất thì Thiên phủ ở Ngọ v.v... 14 sao chính
được sắp xếp thành hai vòng trong các ô
của lá số.
Vòng thứ nhất bắt đầu
từ sao Tử Vi (cách 3 ô) đến sao Liêm trinh (cách 2 ô)đến sao Thiên đồng, Vũ
khúc, Thái dương (cách 1 ô) đến Thiên Cơ. Vòng thứ hai từ sao Thiên Phủ; tiếp
Thái m, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng,
Thiên Lương, Thất Sát (cách 3 ô) đến Phá Quân.
Các sao phụ
có nhiều loại như Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Tuần, Triệt v,v... mỗi
loại sao an vị theo cách riêng của nó.
Quá trình
luận giải lá STV gồm 2 bước: Bước đầu là sơ giải, bước sau là tinh giải. Bước
sơ giải là xem xét yếu tố Sinh - Khắc giữa bản Cục và bản Mệnh như thế nào. Nếu
Cục sinh Mệnh thì Mệnh thịnh Vượng. Thí dụ: Cục
Hỏa, Mệnh Thổ; Nếu Cục khắc Mệnh thì Mệnh suy. Thí dụ: Cục Thủy, Mệnh
Hỏa. Sau đó phải xem sao Tử Vi đóng ở cung nào để biết ý nghĩa thuộc tính thuận
nghịch ra sao ? Nếu sao Tử Vi đóng tại
cung Tý, Hợi, Mão, Dậu là bình địa (tức là bình thường); tại Sửu, Mùi là đắc
địa (thuận lợi); tại Thìn, Tuất là vượng địa (khá thuận lợi);tại Dần, Thân, Tỵ
Ngọ là Miếu địa (rất thuận lợi). Còn 13 sao chính khác thì có thêm thuộc tính
hãm địa (bất lợi).
Trong bước
sơ giải này cũng phải liên hệ với các cung đời(Mệnh, Phụ, Phúc...) cung chi
(Tý, Sửu, Dần, Mão...) để có được những thông tin về ý nghĩa.
Lưu ý rằng:
các cung chi thì luôn luôn cố định, còn các cung đời thì di động tùy thuộc vào
cung mệnh mà các cung khác xếp đặt liên tiếp theo sau (như đã nêu ở trên).
Riêng cung Thân là cung ngụ cư vào một cung khác nào đó thì phải chịu ảnh hưởng
lớn vào cung ấy. Chẳng hạn Thân cư ở cung Mệnh
thì có nghĩa bản thân tự lập, tự làm nên sự nghiệp; nếu Thân cư ở cung
Thê thì được nhờ vợ, phụ thuộc nhiều vào vợ, vợ định đoạt mọi việc trong nhà;
Thân cư ở cung Quan lộc là nhờ vào con đường công danh, sự nghiệp mà phát đạt,
có uy quyền tín nhiệm. Thông thường cung Thân được luận giải cho người từ 30
tuổi trở lên.
Sang bước
thứ hai là bước tinh giải. Bước này là giải tỷ mỷ, phải cân nhắc mức độ ảnh
hưởng của từng sao chính và sao phụ ở trong từng cung, kết hợp với các phép
xung chiếu, hợp chiếu để giải đóan. Trong đó quan trong nhất là xung chiếu (tức
là dựa vào các sao có trong cung đối xứng qua tâm lá số). Thí dụ: cung xung chiếu của cung Dần là cung
Thân. Quá trình luận giải từng cung đời chủ yếu là phân tích ý nghĩa của từng
sao trong cung chủ định rồi liên hệ với tính chất các sao trong xung chiếu rồi
tổng hợp lại thành nội dung của vấn đề giải được. Chẳng hạn về cung Mệnh, Thân
thì phải giải được về cốt cách, tinh thần, tính tình, vận mệnh, thọ yểu ra sao;
cung Ách tật thì giải xem về sức khỏe,
bệnh tật, tai họa ở mức độ nào; cung Tử tức là xem con cái nhiều ít, con đầu
trai hay gái, con cái dễ nuôi hay khó nuôi, có được nhờ con cái không v.v...
Sau khi
giải xong 12 cung đời là giải sang Đại hạn (10 năm) và Tiểu hạn (1 năm) để biết
một số điều tác động đáng kể trong vòng hạn đó đến bản thân như thế nào...
Qua gần 20
năm quan tâm tìm hiểu và luận giải STV cho nhiều người để nghiên cứu thực chất
của vấn đề này, chúng tôi thấy rằng: tỷ lệ giải đúng theo sách so với thực tế
chỉ đạt tới khoảng 60% là cao nhất (đối
với các cung Mệnh, Thân, Quan lộc, Tài bạch, Thiên di, Ách tật); các cung khác
chỉ đúng khoảng 50% . Riêng các cung Phụ Mẫu, Phúc đức, Điền trạch tỷ lệ đúng
là thấp nhất, chỉ độ 30% mà thôi. Xin
nêu dẫn chứng một trường hợp kỳ lạ là kết quả giải 2 lá STV cho hai anh em ruột
mà một người thì bố mẹ thọ bách niên giai lão, còn người kia thì bố chết sớm,
mẹ đi thêm bước nữa.
Qua những
thực tế mâu thuẫn đó, chúng tôi thấy rằng về cách thức luận giải lá STV theo
sách vở xưa và nay của Tàu và ta thì thấy rằng vẫn có một cái gì đó chưa ổn.
Những kết quả của luận giải có nhiều chỗ mâu thuẫn với thực tế của cuộc đời.
Mặc dù quy trình tạo lập lá số và cách thức luận giải nội dung rất là bài bản;
có quy tắc chặt chẽ, rõ ràng. Chính nhờ đó mà các nhà toán tin học của Việt Nam ngày nay đã
tiến hành lập trình, tạo ra được các phần mềm chấm STV chạy được trên các máy
vi tính hiện nay. Một trong những phần mềm STV có giao diện màn hình lá STV đầu
tiên là phần mềm cuả Bảo Trân (ở Canada). Nhưng tiếc thay về phần
luận giải lá số thì khó mà tin được. Vì kết quả giải ra thường cứ trùng lặp,
giống nhau nhiều về nội dung trong những lá số khác nhau. Có lẽ "từ điển
giải mã" của các nhà Tử vi học ngày xưa vẫn còn có những chỗ khiếm khuyết
mà lâu nay chưa ai đủ điều kiện nghiên cứu thật sâu để bổ sung hoàn chỉnh. Cũng
không phải vì thế mà chúng ta nghi ngờ rằng STV
là phương sách giả tạo của các nhà chiêm tinh học phong kiến thời xưa để
nhằm ổn định tâm lý, đạo đức cho mọi người trong xã hội. Bởi vì các nhà Tử vi
học không dễ dàng gì mà đánh lừa được nhiều nhà thông thái trong xã hội. Qua
thực tế, cái gì thực sự nghiệm đúng được
nhiều thì người ta mới tin tưởng và nó mới tồn tại được lâu dài. Chẳng hạn chuyện thực về Trần Thái
Tông đã giải đoán STV và biết trước đuợc ngày mất của mình là ngày mồng một
tháng tư năm Đinh Sửu (1277)[Sách Đại Việt sử kí toàn thư quyển V, trang 39].
Mặt khác, cũng không phải vì một số điều giải đoán STV chính xác với thực tế mà chúng ta quá sùng
bái STV đến mức mê tín. Từ đó dễ sinh ra những tâm lý lo âu, sợ hãi hoặc vui
sướng, lạc quan hão huyền. Như vậy sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe, đến hạnh
phúc gia đình và quan hệ bà con, bạn bè
trong xã hội.
Trải qua
thực tế nhiều năm khảo sát, nghiên cứu vấn đề giải đoán STV, chúng tôi xin mạnh
dạn nêu lên mấy ý kiến sau đây:
* Môn phái
Tử vi học, theo chúng tôi nghĩ là nó có tính khoa học. Bởi vì nó dựa theo
phương pháp luận là thuyết âm dương ngũ hành phương Đông - Thuyết này đã được
nhiều Hội đồng khoa học của các nước thừa nhận và đã ứng dụng vào y dược học,
châm cứu, luyện tập dưỡng sinh, trong lịch pháp, trong thời vụ nông nghiệp
v.v... có hiệu quả.
* Cách luận
giải STV có vẻ thâm thúy nhưng chưa tạo được những mạch tư duy lôgích giữa
những diễn biến của các vấn đề khi luận giải. Do vậy, có nhiều trường hợp phát
sinh mâu thuẫn thì không giải quyết được. Điều đó cũng dễ hiểu thôi. Bởi vì
ngày xưa những thầy Tử vi học viết sách luận giải theo chủ quan suy đoán của mình. Lúc đó chưa đủ các điều kiện về
phương pháp toán học như bây giờ để rà xét lại những kết quả giải đoán mà hoàn
chỉnh và tối ưu hóa dần.
* Ngày nay,
chúng ta có thuận lợi về các phương tiện hiện đại thì có thể đi sâu để tìm ra
được bản chất của vấn đề.
Chúng tôi
hy vọng rằng trong thời gian không xa nữa, những ai đã quan tâm đến vấn đề này
thì cùng nhau hợp lực nghiên cứu để có thể đi đến thống nhất được ý kiến về
giải đoán STV là khoa học hay là mê tín. Hiện nay thì tôi vẫn cho rằng giải
đoán STV là còn bí ẩn khó hiểu và chỉ mang màu sắc khoa học mà thôi.
Nguyễn Hồng Trân