Karin Karakasli sinh ở Istanbul năm 1972. Bà tốt nghiệp ngành Dịch thuật và Phiên dịch từ Trường Ngoại ngữ của Đại học Bo’sazici. Từ năm 1996 đến 2006, bà làm việc tại tuần báo Thổ Nhĩ Kỳ - Armenia Agos với tư cách là biên tập viên, trưởng phòng biên tập và chuyên mục trên cả hai trang tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và Armenia. Bà đã hoàn thành bằng thạc sĩ Văn học So sánh.
Sách của bà bao gồm một cuốn tiểu thuyết dành cho trẻ em tên là “Ay Denizle Buluşunca” (Khi mặt trăng gặp biển),1997, các tuyển tập truyện ngắn “Başka Dillerin Şarkısı” (Những Ca Khúc Của Những Ngôn Ngữ Khác), 1999, và “Can Kırıkları” (Mãnh Vụn Trái Tim), 2002, tác phẩm thơ “Her Kimsen SANA” (DÀNH TẶNG BẠN Dù Bạn Là Ai), tiểu thuyết “Müsait Bir Yerde İnebilir Miyim?” (Làm Ơn Cho Tôi Bước Ra Đâu Đó?), 2005.
Bà đứng thứ ba trong Cuộc thi Truyện ngắn của Nhà sách Gençlik năm 1994, và bà tiếp tục giành giải nhất vào năm 1995, và đã được trao Giải thưởng Nhà văn trẻ Yaşar Nabi Nayır năm 1998. Cuốn sách “Dört Kozalak” (Bốn Nón Thông) của bà được đặt tên là Sách dành cho giới trẻ năm 2014. Bốn Nón Thông kể chuyện về bốn sinh viên mặc dù nguồn gốc gia đình khác nhau nhưng đã giúp nhau vượt qua nhiều khó khăn trong học tâp. Cuốn sách gần đây nhất của bà, “Insufficient Funds”, được xuất bản năm 2015.
Bà là đồng tác giả của cuốn sách nghiên cứu “Türkiye hède Ermeniler: Cemaat, Birey, Yurttaş” (Người Armenia ở Thổ Nhĩ Kỳ: Cộng đồng, Cá nhân, Công dân).
Hiện bà đang sống ở İstanbul, là giảng viên dịch thuật tại Trường Đại học Yeditepe, giáo viên dạy ngôn ngữ và văn học Armenia tại Trường Trung học Armenia.
*
BÀ NGOẠI GARINE CỦA TÔI
Truyện ngắn
KARIN KARAKASLI (Thổ Nhĩ Kỳ)
Nguyễn Khắc Phước dịch.
Mang lại niềm vui và tin lành cho mọi người, đừng cự tuyệt họ,
Mở đường và đừng làm cho con đường trở nên quá khó khăn.
Tiên tri Muhammad.
Trong tim tôi, tất cả vị trí quan trọng nhất đều dành cho bà ngoại tôi. Chúng tôi có ngôn ngữ đặc biệt bí mật. Ký ức của tôi về bà bị manh mún và chỉ đến hôm nay các mảnh ghép ấy chuyển vị trí và chúng tạo thành một tổng thể, bỗng chốc tràn vào tâm trí tôi. Bà ngoại Kadriye Nene của tôi, người nổi tiếng có mái tóc đen tuyền. Tất nhiên, vào thời điểm tôi biết bà, tóc bà đã bạc, nhưng trong những bức ảnh chụp với ông ngoại tôi, mắt bà đen láy, tóc bà đen nhánh, đen như chim quạ.
Tôi chưa bao giờ biết ông ngoại Tashin của tôi. Ông mất vì bệnh tim ở tuổi chưa già lắm, hai năm trước khi tôi chào đời. Cái chết đột ngột của ông khiến bà tôi sụp đổ. Bà không thể sống trong căn nhà đầy ắp kỷ niệm đè nặng tâm hồn bà. Bà chuyển đến ở với chúng tôi và giúp chăm sóc tôi.
Ngay cả nhiều năm sau, mỗi khi có cuộc họp mặt gia đình và câu chuyện xoay quanh ông ngoại tôi, bao giờ bà cũng đầy nước mắt. Qua lời bà, tôi cảm thầy bà dành cho ông tôi lòng biết ơn nhiều hơn là tình yêu. “Tashin yêu quý không bao giờ nói lời không hay về tôi,” bà nói. “Tôi hy vọng ông ấy đang nghỉ ngơi ở cõi yên bình.”
Nghe vậy, cậu tôi thường xen vào, “Có ai nói gì không hay về mẹ đâu, phải không mẹ?”
Bà là một phụ nữ ngoan đạo, thường xuyên cầu nguyện. Bà cầu nguyện cho những người thân yêu của mình với lòng chân thành và tôn kính thực sự đối với Chúa. Ở khu phố của chúng tôi, mọi người đều biết những lời cầu nguyện của bà luôn được Chúa nhậm. Bạn bè và bà con thường đến để yêu cầu bà cầu nguyện cho điều ước của họ trở thành sự thật. Bà thường dành những đêm thánh Kandil và Kadir để cầu nguyện. Bà không thể chịu đựng khi thấy những người thân yêu chia tay. Cảm thông với những cuộc chia tay như vậy, bà thường dâng lời cầu nguyện tới Allah, “Xin Ngài hãy giúp họ được tái hợp vững bền.”
Giọng bà trong như pha lê. Vào buổi tối, chúng tôi thường tắt tivi và yêu cầu bà hát cho chúng tôi nghe. Bà hát những bản ballad và dân ca rất hay. Bà không từ chối yêu cầu của chúng tôi nhưng tôi chưa bao giờ nghe một nốt nhạc nào từ vùng Erzurum hoặc miền Đông từ môi bà. Một buổi tối, tôi nài nỉ nghe cho được, nhưng mẹ tôi vẫy tay biểu tôi im. “Con biết rằng bà sẽ làm bất cứ điều gì cho con, cháu cưng của bà,” bà tôi nói sau một phút im lặng, vẻ đau khổ. “Đừng yêu cầu bà hát những bài hát đó,” bà nói. “Erzurum là một vết thương bà mang trong lòng.” Tôi đành thôi hỏi tại sao.
Bà và ông ngoại quê ở Erzurum. Bà là một đứa trẻ mồ côi. Ông chú của ông ngoại tôi đã đưa bà về, lúc ấy là cô cô bé Nene nghèo và không thân thích. Nene kết hôn với ông ngoại tôi và đến Istanbul năm 17 tuổi. Bà không bao giờ kể về cha mẹ mình. Bà xem cha mẹ nuôi của mình như cha mẹ ruột và thường nói về họ. Tôi quyết định hỏi mẹ tôi về việc ấy. “Mẹ có bao giờ thắc mắc về ông bà cố ngoại không? Mẹ không muốn biết sao?” “Không, thắc mắc làm chi cho bà bực mình,” mẹ trả lời, mắt chăm chú vào đồ đang rửa. “Bà không bao giờ biết cha mẹ thật của mình. Còn hỏi gì nữa không?” Mẹ tôi nhúng cái bình sạch vào thau nước lần thứ hai.
Hồi còn bé, một trong những thú vui tôi thích nhất là được ngồi yên ở một góc phòng khách vào những ngày bà tôi mời bạn bè đến uống trà. Tôi chỉ cần kiên nhẩn im lặng thì thế nào cũng có một bà cúi xuống nói “Ồ, Pasha, cháu chóng lớn lắm nhé!” Tôi được ăn bao nhiêu bánh Kurabiye tùy thích. Đó là những ngày hạnh phúc. Nằm cuộn mình trong góc, nghe những người hàng xóm buôn chuyện, tôi thường ngủ thiếp đi. Nhưng một ngày nọ, tôi không thể nuốt được miếng nào. Tiếng nói, tiếng cười the thé thông thường đã nhường chỗ cho sự im lặng căng thẳng, ngột ngạt. Không buồn ngủ nữa. Tôi bối rối nhìn họ.
Trước lúc ấy tiếng cười vẫn rộn ràng và bánh trái vẫn bề bộn. Một bà muốn lấy túi xách của mình nhưng nó xa quá nên ra hiệu cho người bên cạnh lấy giúp. Người lấy giúp nắm lấy cái túi, cố gắng nâng nó lên, đưa nó cho chủ nhân và nói, “Cái gì ở trong mà nặng thế này? Nặng hơn một xác một người Kitô giáo!”
Âm thanh của câu nói đó vang khắp phòng với độ chính xác dường như được tinh chỉnh. Trong phút im lặng tê liệt đó, con dao đã bay, sáng lấp lánh như lưỡi kiếm và đâm vào tim bà ngoại tôi. Tôi nhìn thấy con dao, tôi nghe thấy tiếng rít bay trong không khí. Bà tôi nhảy lên và áp hai tay lên ngực. Tôi khá chắc rằng nếu bà cho tôi thấy lòng bàn tay, chúng sẽ đặc quánh máu. Tuy nhiên, khi cánh tay của bà cuối cùng buông xuống, không thấy máu me gì. "Xin các bạn tha lỗi cho tôi…” bà nói trong hơi thở nghẹn ngào. Quay lưng lại với những người phụ nữ, bà rút vào phòng. “Để con lấy nước trà cho mẹ nhé,” mẹ nói và đi về phía bếp, những ly trà va chạm nhau kêu leng keng trong khay trên tay mẹ..
“Xấu hổ chưa, Selma!” Bà lớn tuổi nhất, Hüsniye, nói. “Chị ngốc quá! Làm thế nào chị có thể nói một điều như vậy trước mặt Kadriye?” Mặt Selma chuyển sang màu đỏ. “Tôi không có ý đó, chị Hüsniye! Đó là câu thành ngữ,và tôi chỉ buột miệng vậy thôi!” Bà Hüsniye chuẩn bị nói tiếp khi bà ấy nhận ra rằng tôi vẫn ở trong phòng, nhìn họ với đôi mắt mở to. Bà ấy ngừng nói. Những người phụ nữ lập tức nối lại cuộc trò chuyện như những người lính nhận được một mệnh lệnh bí mật.
Vào buổi tối ngày hôm đó, tôi thấy bà ngoại gục đầu vào vai mẹ tôi, khóc. Câu nói của họ đã khiến ngoại không còn muốn giao tiếp nữa và bây giờ người phụ nữ mạnh mẽ này khóc trên vai cô con gái của mình như một đứa trẻ nhỏ. Qua một vết nứt ở cửa, tôi nghe mẹ nói, “Trái tim của mẹ thật nhân hậu, mẹ ạ. Đừng tự làm khổ bản thân vì một người vô ý vô tứ đó. Nhớ khi con còn nhỏ, lúc bạn bè và con đang chơi bên ngoài gây ồn ào, hãy nhớ mẹ đã tức giận như thế nào khi một người hàng xóm gọi con là đồ lại cái? Nhớ mẹ nói gì không? 'Đợi đó, tao sẽ lộn ruột mày ra ngoài cho mầy xem!' Người phụ nữ đó sợ quá phải thụt vô nhà! Hôm đó, mẹ đã dạy con thế nào là một người phụ nữ mạnh mẽ.” Bà tôi cười, tỏ vẻ xấu hổ. Tôi rón rén bước vào phòng ngủ để nghe tiếng họ cười rúc rích với nhau. Trước khi ngủ thiếp đi, tôi tưởng tượng mình đang tìm từ điển, xóa sạch những từ làm tổn thương ngoại tôi. Tôi không biết những từ đó có nghĩa gì, hoặc tại sao chúng lại làm ngoại buồn như vậy. Không biết chúng gây ra chuyện gì. Nếu chúng làm tổn thương bà thì chúng phải bị tiêu diệt. Tôi chĩa súng nước vào các trang từ điển. Nước phun ra và mực trôi đi, để lại những trang giấy sạch sẽ. Sạch đến độ trắng tinh .
Những giấc mơ về thế giới thời thơ ấu của tôi chẳng ăn thua gì bởi những điều làm bà ngoại của tôi thất vọng vượt xa giới hạn của một cuốn từ điển. Vào một dịp nọ khi tôi lên sáu hoặc bảy tuổi, chúng tôi cùng đi phố để mua sắm. Ngoại nắm chặt tay tôi như thường lệ. Tay còn lại chúng tôi cầm túi nhựa phất phơ sột soạt. Ngoại tỏ ra là người lắng nghe trung thành nhất của tôi và tôi huyên thuyên kể về một trong những cuộc phiêu lưu không bao giờ dứt của tôi. Ngay lúc đó, một tiếng nổ vang lên. Bà tôi sững người. Cái túi nhựa trong tay bà rơi xuống đất nhưng bà chẳng quan tâm, đôi mắt bà dán chặt vào nơi khác. Tôi buông tay bà và đi nhặt cái túi lên, nhưng bà không chú ý. Tôi lại nắm tay bà - tay bà lạnh như nước đá. Cố gắng hiểu chuyện gì không hay đang xảy ra, tôi hướng mắt về tòa nhà mà bà đang nhìn chằm chặp ấy. Tôi không biết đó là nhà gì. Không phải là nhà ở. Cũng không phải là một cửa hàng. Nhưng bà ngoại bị hút hồn, bà hoàn toàn quên sự có mặt của tôi. Bà ngây người ra nhìn, dường như ngôi nhà cũ vô hồn đó là những người bạn mà bà đã không gặp trong trong nhiều năm. “Mình đang ở đâu, ngoại ơi?” tôi hỏi. Khi nghe tiếng của tôi, bà tỉnh lại, như thể từ một giấc mơ, nhìn tôi và những chiếc túi trên tay tôi. “Đưa mấy cái túi ấy cho bà.” Lấy túi xong, bà kéo tôi vào sát bà và tiếp tục đi. Mọi sự trở lại như cũ. Nhưng tôi vẫn bị kích động. “Cái nhà gì vậy, ngoại?” Tôi hỏi lại. “Đó là nhà thờ người Armenia,” bà nói nhỏ. “Con biết chúng ta cầu nguyện trong nhà thờ Hồi giáo chứ? Còn họ thì cầu nguyện trong nhà thờ Kitô giáo.”
Trong một lần khác không bao giờ tôi quên. Hồi ấy tôi là một thiếu niên đang học tại lycée, đang mệt dứt hơi vì khóa học về cách mạng. Bà tôi giúp tôi học từ khi tôi học tiểu học và thường xuất hiện trước cửa phòng tôi với một ly nước cam trong tay. “Cháu đang học gì vậy, Hakan?” Tôi nhìn vào tiêu đề của chương: “Vấn đề Armenia và cuộc chiến với người Armenia.” Có gì đó bảo tôi không nên cho bà biết. Tôi chỉ trả lời, “Chỉ là lịch sử thôi, ngoại ơi, nhàm chán lắm!” Chính lúc đó, cô em gái bé bỏng của tôi xía vào, “Cháu đọc được, để cháu đọc nhé!” Nó giật cuốn sách và đọc một cách háo hức:
“Khi người Nga tiến đến Đông Anatolia trong những năm đầu của Thế chiến thứ nhất, người Armenia có cơ hội nổi dậy. Đã chuẩn bị trước khi chiến tranh bắt đầu, các nhóm phiến quân Armenia tham gia cùng với người Nga. Cuộc nổi dậy đầu tiên xảy ra ở Zeytun (Süleymanlı) vào ngày 17 tháng 8 năm 1914. Những người lính Armenia ở Ma-na đã cầm vũ khí của họ cùng tham gia, và bắt đầu tấn công các ngôi làng Thổ Nhĩ Kỳ, giết hại nhiều cư dân. Vào tháng 4 năm 1915, những người Armenia nổi loạn ở Van đã tàn sát khu vực dân cư Thổ Nhĩ Kỳ. Đáp lại, chính phủ Ottoman đã đưa ra quyết định rằng người Armenia ở Đông Anatolia sẽ được di cư sang Syria, nơi không có nguy cơ chiến tranh vào thời điểm đó (Luật Tehcir, ngày 14 tháng 5 năm 1915). Mục tiêu của người Armenia là yêu sách đòi lãnh thổ các vùng Kilikya (Ukurova), Maraş, Erzurum, Bitlis, Van, Harput và Diyarbakır và tạo thành một bang của riêng họ. Người Armenia đã không từ bỏ mục tiêu này cho đến ngày nay. Trong nỗ lực để thực hiện điều này, họ tiếp tục ủng hộ các hành động khủng bố đe dọa đến sự thống nhất của đất nước chúng ta.”
Trong khi em tôi đọc, tôi ngồi cúi mặt, hai tay ôm đầu. Tôi không dám nhìn ánh mắt của bà tôi, chắc chắn đang tràn trề nước mắt. Em gái tôi thiệt ngu ngốc. Nhưng giây lát sau, tôi giật mình khi nghe Elvan hỏi, “Tại sao ngoại lại cười?” Nó hỏi đúng; một nụ cười nở trên khuôn mặt bà tôi. Đó không phải là nụ cười hạnh phúc. Nụ cười đó làm tôi nghĩ đến Mona Lisa, một nụ cười cam chịu khi đối mặt với đau khổ. “Bao lâu nay họ viết như vậy à?” Bà nhìn chằm chằm xuyên qua chúng tôi, dường như nói với một người vô hình khác. “Có nhiều người Armenia hàng xóm ở Erzurum. Họ là những người tốt, chăm chỉ. Bà chưa bao giờ thấy bất kỳ dấu hiệu gì là ‘khủng bố’ ở họ vào lúc ấy và bà cũng không thấy dấu hiệu ‘khủng bố’ gì ở người Armenia mà chúng ta biết bây giờ. Có thực họ viết vậy không?" Bà đứng dậy và loạng choạng đi về phòng.
Nhiều năm sau, khi truyền hình và báo chí gào thét những báo cáo về “các tổ chức khủng bố của người Armenia,” thì bà tôi không còn biết gì nữa. Các bác sĩ thấy không cần phải can thiệp. Vẫn ở nhà, bà ngoại tôi lặng lẽ bắt đầu một hành trình dài, thoát khỏi đau khổ. Trong những ngày cuối cùng, bà thường nói chuyện trong giấc ngủ, nhưng tôi không thể hiểu được một từ nào. Lúc đầu, tôi nghĩ rằng không có ý nghĩa gì trong tiếng thì thầm của bà, rằng bã đã lú lẫn rồi, lưỡi bà đang cố tạo ra âm thanh, nhưng khi tôi lắng nghe kỹ hơn một chút, tôi nhận thấy những từ ngoại ngữ, một thứ tiếng liên tục như nước chảy và nghe như một bài hát. Tôi nghĩ ra một số câu hỏi và tối hôm đó tôi hỏi mẹ, “Có phải bà ngoại nói tiếng Armenia không?” Mẹ không ngạc nhiên, cũng không ngần ngại khi trả lời, “Đúng vậy.” “Có bao giờ ngoại kể cho mẹ nghe chuyện ngày xưa của ngoại không?” Mẹ tôi vuốt ve bàn tay bà một cách yêu thương, biết rằng bà sẽ sớm ra đi. "Chỉ một lần. Ngoại nói như thể mọi chuyện không liên quan gì đến ngoại, như thể ngoại chỉ chứng kiến điều đó. Ngoại kể với mẹ về người thân, vườn cây, hoa màu, bánh mì nướng ở nhà, làm thế nào ngoại trải nệm sạch ra mỗi đêm. Sau đó, máu, toàn là máu, tiếng thét gào, rồi đi tỵ nạn cùng với hàng xóm và rời xa mãi mãi, biết rằng sẽ không bao giờ trở lại.”
“Tên ngoại bằng tiếng Armenia là gì?” tôi hỏi mẹ. Một nụ cười làm sáng lên khuôn mặt hiền dịu của mẹ tôi, đôi mắt mẹ tràn ngập ánh sáng. Giống như một mật khẩu, mẹ tôi nói nhỏ, chậm rãi và rõ ràng, “Garine. Ngoại của con là Garine Yaya.” “Garine,” tôi nhìn bà và lặp lại. Thân xác của bà ở với chúng tôi nhưng linh hồn bà đã ở rất xa. Mẹ tôi lại nói, “Garine bằng tiếng Armenia có nghĩa là Erzurum."
Hai ngày sau, bà ngoại tôi qua đời. Sau lễ cầu nguyện Namaz giữa trưa, bà được đưa từ nhà thờ Hồi giáo Şişli đến lô đất nghĩa trang của gia đình tại Zincirlikuyu và chôn cất bên cạnh người chồng yêu dấu của bà. Sau đám tang, tôi đến nhà thờ Armenia, nơi bà đã đứng nhiều năm trước, sợ quá nên không dám vào bên trong. Tôi đã thắp một ngọn nến lớn cho Garine Yaya của tôi, cho bà cố và ông cố, cho anh chị em của bà và tất cả những người thân yêu mà bà đã mất, và tôi đã cầu nguyện rất lâu. Khi tôi chuẩn bị rời đi, một bà già người Armenia vào nhà thờ cùng với một người bạn, cùng nói một ngôn ngữ như nước chảy. Và đôi mắt của bà. Đôi mắt của bà ấy giống như đôi mắt của bà ngoại tôi. Tôi mỉm cười và cúi đầu chào bà. Bà đáp lại một cách lịch sự và nụ cười của bà làm lộ ra những nếp nhăn đẹp lão.
Bà ngoại Garine Yaya đã nhìn thấy tôi, linh hồn của bà đã vuốt ve tôi. Tôi hít một hơi thật sâu.
Karin Karakasli
***
Nguyễn Khắc Phước dịch từ bản tiếng Anh của Ayça Türkoğlu, “Garine”, đăng trên https://www.wordswithoutborders.org/issue/october-2017-turkish-short-stories