NHỮNG THÀNH NGỮ CÓ XUẤT XỨ
TỪ THƠ CỔ VÀ ĐIỂN CỐ - PHẦN IV
TS Nguyễn Ngọc Kiên
(9) Mài sắt nên kim
Thành ngữ “mài sắt nên kim” (铁棒磨成针
/ 铁柱磨成针) [thiết bổng ma thành
châm / thiết trụ ma thành châm] được lưu truyền rộng rãi như một lời dạy, lời
giáo huấn mọi người về ý chí bền bỉ trong công việc nói riêng, trong cuộc đời
nói chung.
Đến như sắt mài mãi cũng thành kim, thì bất cứ việc gì cũng có thể làm được, miễn
là chúng ta biết chịu khó khổ luyện, biết kiên trì nhẫn nại, không quản gian
lao vất vả. Lời giáo huấn biểu hiện qua câu thành ngữ “mài sắt nên kim”, một mặt
được nhận thức qua ngôn từ của nó mà mấu chốt là sự đối lập giữa hai hình ảnh sắt
và kim, mặt khác, thông qua sự liên hệ tới giai thoại về cuộc đời của nhà thơ nổi
tiếng đời Đường ở Trung Quốc – nhà thơ Lý Bạch.
Tương truyền, thuở niên thiếu, Lý Bạch là cậu bé không chịu khó học hành, ham
chơi như bao đứa trẻ bình thường khác. Một hôm, cậu bé chán học, lẻn sang chơi ở
chân núi phía Đông. Kỳ lạ quá! Trước mắt cậu bé là một bà lão đang cắm cúi mài
một thanh sắt bên một tảng đá lớn. “Bà già tóc bạc đến dường kia mà lại chăm chắm
mài một thanh sắt để làm gì nhỉ?” Cậu bé hết sức phân vân, bèn rón rén đến bên
cạnh cụ già rồi cất tiếng hỏi:
- Cụ ơi, cụ mài sắt để làm gì vậy?
Bà lão ngoảnh mặt lên, hiền từ trả lời:
- Để làm kim khâu cháu ạ.
- Làm kim khâu ư? Thanh sắt thì làm thế nào mà trở thành cái kim khâu được? Cậu
bé chất vấn bà lão.
- Mài mãi cũng phải được. Kẻ có công mài sắt thì có ngày nên kim chứ - Bà lão
trả lời một cách tin tưởng như vậy.
Lý Bạch nửa tin nửa ngờ hỏi lại:
- Liệu hôm nay có xong được không hở cụ?
Bà lão thong thả trả lời hoà nhịp với động tác mài kim:
- Hôm nay không xong thì mai lại làm tiếp vậy, năm nay không xong thì sang năm
tiếp tục làm, ngày lại ngày, già nhất định mài xong.
Nghe đến đây, Lý Bạch chợt hiểu ra và im lặng. Về nhà Lý Bạch thường ngẫm nghĩ
về những lời của bà lão mà càng chuyên tâm học tập. Chẳng bao lâu, Lý Bạch trở
thành nhà thơ lỗi lạc với những áng thơ Đường tuyệt mĩ, có một không hai trong
nền văn học Trung Quốc. Từ đó, trong dân gian lưu truyền câu tục ngữ “Chỉ yếu
công phu thâm/ Thiết trụ ma thành châm” (只要功夫深,
铁柱磨成针), nghĩa là “có công mài sắt,
có ngày nên kim”; trong đó có chứa thành ngữ “mài sắt nên kim”. Thoạt đầu, nó
như một nhận xét về cuộc đời, văn nghiệp của Lý Bạch: từ chỗ lười học, nhờ sự tỉnh
ngộ qua cuộc gặp gỡ với cụ già mà siêng năng, kiên trì học tập và cuối cùng trở
thành tài. Nhưng dần dần câu tục ngữ “có công mài sắt, có ngày nên kim” được
lưu truyền rộng rãi, vượt qua phạm vi của một cuộc đời, một sự nghiệp, trở
thành một lời dạy, lời giáo huấn mọi người về ý chí bền bỉ trong công việc nói
riêng, trong cuộc đời nói chung.
(Theo chuyện kể của Trịnh Mạnh)
Ở Việt Nam,
ngoài thành ngữ “mài sắt thành kim” còn có tục ngữ “có công mài sắt, có ngày
nên kim” cũng được sử dụng rộng rãi như một lời khuyên, răn dạy về đức tính
kiên trì sẽ dẫn đến thành công, nhưng trên thực tế, ít người biết đến nguồn gốc
của nó.
(10) Buôn tảo bán tần
Thành ngữ “buôn tảo bán tần” có xuất xứ từ bài thơ “Thái Tần” (采蘋) của Khổng Tử. Nguyên văn:
于以采蘋?
南澗之濱。
于以采藻?
于彼行潦。
Phiên âm:
Vu dĩ Thái Tần,
Nam
gián chi tân
Vu bỉ Thái Tảo
Vu bỉ hàng lạo
Dịch nghĩa:
Đi hái rau Tần,
bên bờ khe phía nam,
đi hái rau Tảo,
bên lạch nước kia.
(Chú giải:
tần: rau lục bình nổi trên mặt nước, người Giang Đông gọi là bèo.
tân: bờ nước.
tảo: rong tụ, tảo ở đáy nước, cọng như ngọn cây thoa, lá như cỏ bồng.
hành lão: cái rãnh nước mưa chảy cuốn đi.
Nước ở phía nam chịu sự giáo hoá của Văn Vương, vợ của quan đại phu năng đi việc
cúng tế, người nhà của nàng mới kể lại việc ấy mà khen tặng).
(Theo chú giải của Chu Hy)
Dịch thơ:
Để mà đi hái rau tần,
Núi nam hay mọc ở gần bờ khe.
Tảo kia ta hái luôn về,
Bên đường nước chảy dầm dề sau mưa.
(Bản dịch Tạ Quang Phát)
Theo cách chú giải truyền thống thì câu thơ trên ca ngợi người “vợ hiền dâu thảo”,
chăm chỉ hái rau Tần, rau Tảo về làm cỗ cúng tổ tiên. Trong truyền thống văn
hóa Trung Quốc, “Tảo Tần” tượng trưng cho đức tính siêng năng, chịu khó, hay
làm hay làm của người phụ nữ. Thành ngữ “buôn tảo bán tần” đã xuất hiện trong
Kinh Thi.
Ở Việt Nam,
ý biểu trưng của “Tảo Tần” cũng được sử dụng nhiều trong văn học cổ. Chẳng hạn,
trong truyện Phạm Tải – Ngọc Hoa:
Sớm khuya chăm việc tảo tần
Thờ cha kính mẹ đôi lần chẳng sai
Về sau: thành ngữ “buôn tảo bán tần” được dùng với nghĩa rộng hơn, chỉ đức tính
đảm đang việc nhà của người phụ nữ. Chẳng hạn:
Cô Hai buôn tảo bán tần
Cô Ba đòi nợ chỗ gần chỗ xa
(Ca dao)
……………………
(còn nữa)
TS Nguyễn Ngọc Kiên