Tác giả Nguyễn Đức Tùng
Giáng Vân là một trong những tiếng nói quan trọng của
thơ Việt thời hậu chiến, với một ngôn ngữ nhiều hình ảnh, trong những câu thơ
trữ tình hàm chứa ý thức xã hội. Được chiếu sáng bởi suy nghĩ lý tính, tứ thơ của
chị mạnh mẽ, sắc sảo, đầy tính phản biện, thông minh. Phía sau một phong cách
có phần lãng mạn, là một tình cảm sâu sắc, sự quả quyết đầy nữ tính, sự phẫn nộ
xã hội, sự tỉnh thức.
Không
thể nhìn thấy
Không
thể nghe thấy
Những
đứa con đang kêu cứu
Không
ai cứu con của chúng ta
Và
ta chìm xuống
Chìm
xuống sớm mai này
Một
sớm mai không còn mặt trời
Chúng
ta – Những kẻ chưa chết nhưng không còn sống
Không
thở, không thể cả vật vã
Kiếp
này sang kiếp khác
Đớn
hèn,
Tội
lỗi,
Nhục
nhã
Ăn
và uống
Và
đói và khát…
Thời gian và không gian trong thơ kết hợp với nhau
thành một thứ không thời gian. Không thời gian không phải chỉ là một phép tu từ
mà là một cảm hứng, sự vận động của hình ảnh. Có một liên hệ giữa không thời
gian và ý niệm tự do trong thơ Giáng Vân. Trong một xã hội bị kiểm soát, ngay
những trí thức dũng cảm cũng khó cất lời: bức hại tự do là bức hại lớn nhất đối
với giá trị con người. Tuy vậy chính chúng ta đôi khi cũng sợ hãi tự do, sợ hãi
được trở thành chính mình, vì tự do là chấp nhận hiểm nguy, một số phận không
thể đoán định trước, những nhầm lẫn có thể xảy ra. Tin tức về chiến tranh,
thiên tai, bệnh tật, tội ác, muốn làm bạn suy sụp tinh thần. Trong khi đó, cuộc
đời chuyển động theo cách riêng của nó, thản nhiên: trẻ con sinh ra trong tiếng
khóc hạnh phúc của người mẹ, đám cưới diễn ra hằng ngày nơi cô dâu bước trên cỏ
về phía người đàn ông, ngập ngừng hay mạnh mẽ.
Lòng
nhớ nắng và nhớ gió
Nhớ
đường làng tháng ba đưa hương bưởi
Hoa
xoan ngát trời như mơ
Có
một tuổi thơ của ta
Chân
người ngập ngừng ngoài ngõ
Mắt
người đa tình
Chiều
bỗng gió
Câu
hát lửng lơ, ơi câu hát lửng lơ
Tôi thích đọc những bài thơ trong đó nhân vật là tác
giả. Bài thơ của Giáng Vân bắt nguồn từ ý thơ khá cổ điển nhưng chị làm mới cấu
trúc bài thơ ấy. Đó là nỗi nhớ riêng tư về những đề tài không xa lạ: mùa xuân,
mùa thu, tình yêu. Chính quyền lực của nhạc điệu, nỗi sầu muộn choáng váng, làm
người đọc trở lại với thơ chị. Nhưng thơ là một ngôn ngữ chính xác. Trong bài,
mỗi chữ đều có một ý nghĩa riêng. Đó là những chữ được tác giả chọn để mang một
hình ảnh hay ý tưởng. Đôi khi người làm thơ phải chờ đợi, họ lặn sâu xuống đời
sống bên trong của sự vật, cho đến khi tìm thấy một chữ, một chi tiết. Chi tiết
ấy phải cụ thể, riêng tư. Riêng tư với nghĩa là đã xảy ra trong một hoàn cảnh,
nhưng có thể tiêu biểu cho trường hợp khác. Cho cái khả thể. Chỉ có sự rung cảm
chân thực mới làm được điều này: độc đáo mà chia sẻ. Có lẽ đó là công việc quan
trọng nhất của thơ, nhưng tôi không chắc mọi nhà thơ hiện nay đều ý thức về điều
đó.
Mang
mang
Những
ký ức buồn
Những
mảnh vụn đã không thể chắp lại
ĐẸP
đã vỡ, đã khóc, đã bay hơi
Than khóc là một hình thức của ca tụng. Thơ Giáng Vân
nói nhiều về cái đẹp. Chị nói một cách mới mẻ. Trong thơ, mới tức là sự tưởng
tượng mới, tức là một hiện thực mới trước đó chưa từng có.
Một thiên nhiên mới. Tình yêu thiên nhiên trong thơ chị
không phải là sự trang trí mà là một phần của cấu trúc bài thơ. Thiên nhiên ấy
thể hiện trong những hình ảnh khá chọn lọc, tươi tắn, bâng khuâng, được làm mới
với những liên kết sâu xa giữa các ý tưởng, không phải chỉ là giữa các chữ, sự
liên kết giữa thế giới nội tâm và thế giới bên ngoài, không phải chỉ là ở các
chi tiết.
Nhưng
trong vô vàn thời khắc
Luân
chuyển những vẻ đẹp nàng đuổi theo không sao bắt kịp
Nàng
vẽ hay nàng tuyệt vọng
Hay
nàng phiêu du đã quá xa không sao trở về
Trong
ánh sáng huyền bí của những đóa hoa, mà không chỉ là hoa, cả thân cành, rễ, lá
Có một thứ âm nhạc ngầm xuyên suốt các câu thơ tự do
không đều, một thứ nhạc điệu bên dưới các chữ, liên kết chúng với nhau và với
tiếng nói vô thức của tác giả. Các bài thơ của chị có một hình ảnh trung tâm,
nhiều người gọi là tứ thơ, giản dị nguyên sơ như mối tình đầu, hoang dại, dữ dội.
Chị là một trong những người chịu ảnh hưởng của khuynh hướng hậu lãng mạn; một
nỗi buồn ngấm ngầm đằng sau vẻ đẹp mùa màng, một nỗi thương nhớ không nguôi đối
với cái cao quý đã mất, trật tự nguyên thủy ngày nay không còn ai biết. Một lý
tưởng.
Sen
Tháng
mười
Trên
đầm chỉ còn những cọng sen khô
Đen
thẫm dưới trăng
Nhưng
trong vô vàn thời khắc
Luân
chuyển những vẻ đẹp nàng đuổi theo không sao bắt kịp
Nàng
vẽ hay nàng tuyệt vọng
Hay
nàng phiêu du đã quá xa không sao trở về
Trong
ánh sáng huyền bí của những đóa hoa, mà không chỉ là hoa, cả thân cành, rễ, lá
Và
nàng cất lên bài hát của những phù thủy
Để
những đóa hoa, không chỉ hoa, cả thân cành rễ lá
Cùng
nhảy múa
Những
điệu múa của thần linh
Đêm
trăng này sao quá đẹp
Vẻ
đẹp này sao vĩnh cửu
Màu
xám bạc trộn từ màu của đêm và trăng, từ
niềm thương đau phong kín
Ô
những bài hát bi thương ta chưa từng nghe thấy
Nhưng
nàng không phải là phù thủy, nàng là một đàn bà,
Những
đóa sen của nàng rừng rực đỏ
Những
đóa sen của nàng xanh thẳm xanh
Những
đóa sen của nàng tan chảy
Và
rụng xuống
Như
những sớm mai
Trơ
lại cuộng sen gẫy gục
Trong
những tấm toan của nàng
Miên
man không dứt
Những
nốt nhạc lặng im
Rùng
rùng những cọng sen vươn lên trời
Ô,
những cọng sen lớn mạnh như một rừng cổ thụ
Của
những thân cành đã chết hôm qua
Vì
sao chết
Và
vì sao sống dậy?
Ngút
ngàn sen và ngút ngàn trăng…
(Tặng
họa sĩ Lan Hương)
Lâu lắm mới thấy chữ nàng. Tôi tưởng chữ này đã biến mất.
Thơ Giáng Vân điềm đạm, ít chữ, nhưng không kém phần diễm lệ. Bài thơ bắt đầu bằng
câu đơn giản và nhanh chóng chuyển thành hình ảnh. Phép ẩn dụ đưa bài thơ về hướng
xúc cảm; trong những câu thơ kế tiếp, mạch suy tưởng lại mở, giữa khoảng cách của
hai câu thơ là những gián đoạn, im lặng, tạo ra sức mạnh liên tưởng. Bài thơ trở
thành sự kết nối thế giới nội tâm và thế giới bên ngoài. Hình ảnh chuyển động về
hai hướng: mùa sen lớn mạnh trong câu chuyện hạnh phúc; và mùa sen tàn.
Các
chiều của thời gian
Đi
ngược nhau
Quá
khứ tôi là tương lai kẻ khác
Mùa
đã chết trở mình trong những cơ thể khác
Thơ
như gió ngang trời...
Trong ngôn ngữ, có một tương tác không ngừng giữa trật
tự và hỗn loạn, khi sự tương tác ấy đặt đến mức cân bằng, bài thơ xuất hiện.
Nói cách khác, khi thi sĩ đứng vào ngưỡng cửa giữa đời sống bên ngoài và đời sống
bên trong, giữa sự tầm thường và thanh cao, thơ là hiện tại. Chúng ta sống giây
phút này, nhưng giây phút này cũng không có nghĩa, nó chỉ có nghĩa khi mang
theo quá khứ và dự phóng. Tất nhiên có nhiều đời sống tốt đẹp hơn đời sống
khác, nhiều số phận may mắn hơn số phận khác, nhưng bạn phải sống số phận của
mình. Bạn phải hạnh phúc với chính số phận ấy. Giáng Vân tạo ra được một thế giới
của chị, những kết hợp chữ mới, cô đọng, kéo dài, phối hợp lại, làm cho chữ trở
nên linh động. Mặc dù thơ chị không phải là thơ ngôn ngữ, ở chị cũng có ý định tìm kiếm những chữ sáng tạo, đẹp, mới. Muốn
làm ngôn ngữ trở nên mới thì trước hết phải làm mới tình cảm và kiến thức. Thơ
không phải chỉ là những liên kết ký hiệu máy móc, không phải chỉ là các biện
pháp tu từ, ngắt câu, xuống dòng, thơ còn là, và chính ra là, cảm xúc và suy tưởng.
Không
cất được tảng đá
Nó
ở đấy
Trên
ngực
Thường
trực, từng giây
Trong thơ tự do, nhà thơ không có khuôn phép vần điệu
nào để theo đuổi, nhưng vì vậy mà sự kết hợp của chữ là một đòi hỏi khó khăn. Đọc
bài thơ tự do có thể mất nhiều thời gian hơn một bài thơ có vần vì ở đó có những
khoảng im lặng, sự chuẩn bị vô thức. Trong quan niệm của nhiều người viết hôm
nay, thơ không nhất thiết phải được hiểu rõ, và trong bài thơ có nhiều khoảng tối.
Nhà thơ chỉ là người ra hiệu, người đọc đi theo sự hướng dẫn, họ phải đi một đoạn
trước khi tự mình tìm lối đi riêng. Một bài thơ thành công tạo ra những không
gian rộng rãi cho các ý nghĩa diễn dịch, sự vận động tâm trí của người đọc.
Để
tuyệt giao với nhơ bẩn
Chúng
ta chỉ có một nỗi buồn rất nặng
Để
thanh lọc
Thơ Giáng Vân không giản dị, nhưng nếu thơ ấy khó đọc,
thì đó không phải là sự cố ý mà vì cuộc đời vốn khó hiểu hơn chúng ta tưởng.
Người đàn bà đắm mình trong tình yêu thơ mộng, đôi khi điên rồ, nhưng nhân vật ấy
cũng có khả năng ngoái nhìn trở lại, với cái nhìn thấu suốt, cảm thông mà
nghiêm khắc, đắng cay mà hy vọng. Thân xác trong thơ phụ nữ là một đề tài khác,
nhưng thật ra cũng là một phần hữu cơ của tình yêu, là nơi hợp nhất giữa tình
yêu và dục vọng, giữa những giấc mơ và hối hận, giữa nhu cầu trần tục và nghi lễ
huy hoàng.
Một
trăm cây rơm yên ngủ
Một
trăm hơi thở khẽ
Rung
động tâm hồn này
Hai
mươi năm có lẻ
Tưởng
gì mà quay về
Tính dũng cảm của một nhà thơ làm cho đề tài và các vật
liệu của thơ ca trở nên phong phú, làm cho giọng điệu thay đổi. Lòng dũng cảm
trong sáng tạo không nói về kết quả của nó, của tác phẩm, ví dụ sau khi xuất bản
một cuốn sách, ảnh hưởng của nó ra sao, tác giả có bị liên lụy gì không, mà nói
về mối quan hệ giữa nhà thơ và người đọc, giữa nhà thơ và đối tượng miêu tả.
Thơ
ơi
Người
có thể giúp người ta sống lại?
Không,
nhưng tôi có thể làm sống lại những linh hồn đã chết!
Bọn
tàn độc, tham lam người có làm gì được họ?
Bạn
hỡi, tôi chỉ có làn nước tinh khôi
Đòi hỏi sự tuyệt đối là một trong những cá tính của
nghệ sĩ, ở một số người cá tính ấy rất mạnh. Tính tuyệt đối thể hiện ở chỗ yêu
thích cái đẹp đến tận cùng, không chấp nhận kìm hãm hay thỏa hiệp. Có một sự
khác nhau giữa tính yêu cầu cao trong sáng tạo và sự buông lơi ở Giáng Vân.
Tính chất thế sự, thời sự trong thơ chị ít rõ ràng nhưng vẫn bàng bạc. Những
bài thơ của chị rung lên vì xúc động của con người, lòng thương xót trước nghịch
cảnh. Tính xúc động đầy sức mạnh của chúng làm ta dừng lại, bối rối.
Và
tôi mơ
Tôi
mơ
Ngay
sau ô cửa sổ bé xíu
Một
chân trời màu lam sáng
Hiện
lên một gương mặt thiếu nữ đẹp tới mức
Tôi
không thể diễn tả
Thậm
chí không thể tin nổi
Tôi
dụi mắt. Mơ chăng?
Nhưng
không
Mỗi
một chớp mắt
Nàng
đã mang một vẻ đẹp khác
Sự dừng lại gây ra áp lực ở người đọc, làm họ ngạc
nhiên, bất an. Tâm trí của họ hoạt động mạnh ở những đoạn đứt gãy. Có một nhu cầu
muốn được ghép lại những mãnh vỡ, nối kết. Có một sự cân bằng, đôi khi đạt được
đôi khi không, giữa tiếng nói và im lặng trong thơ Giáng Vân. Thơ chị ngắn, tiến
độ thường không gấp gáp như ở nhiều nhà thơ hiện nay, mà thong thả, trầm lặng.
Đó không phải là một loại thơ tạo ra các bước ngoặt thách thức. Chị có ý thức về
dấu phẩy và dấu chấm trong các câu thơ, sự ngắt đoạn, ngắt câu của chị được
tính toán đúng lúc. Tuy vậy chị còn thiếu sự phóng khoáng, tính ngẫu hứng, gần
với nổi loạn, trong việc buông các câu thơ xuống mặt giấy. Bài thơ tác động lên
hạ ý thức, bên trong một bài thơ giống như một căn nhà có cấu trúc khác nhau.
Chữ được dàn xếp sao cho cảm xúc và ý tưởng mang lại những liên kết có ý nghĩa
nhất. Nếu các câu thơ quá dài, dồn dập, bài thơ cũng như một căn nhà chất đầy
bàn ghế. Nếu một bài thơ rời rạc, các khoảng trống quá lớn, bài thơ biến thành
các gợi ý, minh họa. Giáng Vân tránh được hai điều ấy trong môt số bài thơ, như
bài sau đây.
Yên
Tĩnh
Mặt
trời trưa đã quá đỉnh đầu
Vách
đá chắn ngang điều muốn nói
Em
ru gì cho đá núi
Đá
núi trụi trần vết tạc của thời gian
Em
ru gì cho dòng sông
Dòng
sông chẳng khi nào ngừng lặng
Sóng
cuộn lên nỗi khát khao vô bờ
Sóng
rất biết nơi mình đi và đến
Em
ru gì cho anh
Mặt
trời linh thiêng mặt trời giông tố
Đã
mệt mỏi rồi đã bao nỗi âu lo
Trên
gương mặt anh hằn lên nỗi khổ
Khiến
câu hát cất lên bỗng tắt nửa chừng
Em
yêu anh như yêu cuộc đời cực nhọc
Có
tuổi thơ em buồn bã dịu dàng
Sáng
lung linh vầng ánh sáng thiên thần
Niềm
hạnh phúc muôn đời có thật
Xin
đừng trách em nhiều
Cũng
xin đừng day dứt
Cây
lá có rơi nhiều xin đừng hỏi mùa thu
Lặng
nghe anh
Yên
tĩnh - lời ru
Giọng điệu của bài thơ không phải là chủ đề, không phải
là hoạt động. Đó thực ra là một hình thức của nội dung, sự nhận thức. Giọng điệu
là một phong cách của tác giả, và trong từng trường hợp là phong cách của bài
thơ. Bằng giọng điệu chúng ta nhận ra sự tiếp cận của bài thơ đối với thế giới,
dịu dàng hay nghiêm khắc, can dự hay lãnh đạm, triết lý hoặc hài hước. Giọng điệu
chính là ngôn ngữ của một bài thơ, một ngôn ngữ không lời. Chúng ta sống trong
thời đại cởi mở hơn trước nhưng bộc lộ mình xưa nay vẫn khó, tự tha thứ càng
khó. Cảm kích đối với số phận, bất kể số phận ấy nghiệt ngã ra sao, không phải
là việc dễ dàng. Nhân vật của chị cố gắng sống trọn vẹn ý thức của mình, không
phải là không kèm theo nhầm lẫn, nhưng sẽ vượt qua. Vì vậy mà nghệ thuật trở
nên có giá trị, chúng chỉ đường cho lương tâm ở người đọc. Miễn là chúng ta
không để cuộc sống làm nản lòng. Thời gian: cảm giác về sự trôi chảy không quay
ngược lại là một trong những giọng điệu của Giáng Vân. Nhưng đó không phải là sự
chán nản của Xuân Diệu trong thơ mới:
Em,
em ơi, tình non sắp già rồi
Mà là giọng hiểu biết, tiếc nuối nhưng không giận hờn.
Cảm giác ly biệt, tan vỡ, được vùi trong một cảm xúc lớn của tình yêu. Như vậy
thời gian đối với Giáng Vân tuy vẫn là hoài niệm nhưng nhà thơ chấp nhận nó như
cuộc đời hiện thực, một phần của nữ tính Đông phương. Nhờ nữ tính này, thơ chị
có vị ấm áp chứ không lạnh lẽo, có suy tư mà không quá sắc bén, bên trong quyết
liệt mà bên ngoài dung dị. Dòng chảy thời gian tạo ra nỗi cô đơn, đó chỉ là một
khía cạnh. Không gian của Giáng Vân cũng chứa nỗi cô đơn ấy. Nó đến từ những
giác quan sắc bén, tuy đẫm vị trần gian vẫn phảng phất siêu hình:
Không
sở hữu điều gì
Tất
cả những cảm xúc từng có thì đã đi qua, đã không còn nũa, đã lạ xa như không hề
in dấu gì.
Trong
mơ tôi hỏi người vì sao còn trở lại?
Không
sở hữu điều gì
Nhẹ
thênh như mây bay
Con
gái ơi con có đời sống riêng của con
Có
tình yêu con dành cho mẹ
Nhưng
mẹ chỉ xem con như niềm hạnh phúc trời ban chứ mẹ không trói chặt con như cái
cách nhiều bà mẹ khác vẫn làm.
Tình
yêu cũng giống như đôi cánh của con tim, của tâm hồn, của cuộc đời ta
Mẹ
cũng không dại gì nhốt hạnh phúc trong lồng để hoài công canh giữ.
Giáng Vân là sự tiếp nối, nhưng một cách riêng biệt,
khác, đối với các nhà thơ nữ đi trước, ví dụ Nhã Ca, Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ,
Ý Nhi. Thơ tình Giáng Vân là sự thất bại của tình yêu. Phải đến một tuổi nào
đó, khi tâm hồn đã chín, khi sức nghỉ, sức cảm đã đạt đến một chừng mực, con
người mới đối diện các lỗi lầm trong tình yêu. Phải từ bỏ sự cưỡng lại các niềm
tin đối kháng. Giáng Vân tự đánh giá lại con đường của mình, các cảm xúc và hy
vọng của mình, những niềm hứng khởi và bước ngoặt, chịu trách nhiệm về mình. Bất
chấp những nhầm lẫn của người khác có lớn đến đâu, điều chính yếu là bạn nhận
ra khuôn mặt mình trong gương: một khuôn mặt vừa xinh đẹp vừa khiếm khuyết, chấp
nhận nó, yêu lấy nó, mang nó đi. Chị có nhiều bài thơ khiến tôi ngạc nhiên thú
vị, nhưng cũng có những bài rơi vào tình trạng ước lệ:
Và
em quỳ trên cát mịn êm
Lòng
thắt lại trước điều bí ẩn
Nghe
vị biển trên môi mình mặn chát
Mong
con thuyền đi xa nghe thương nhớ quay về
Hoặc
rời rạc như văn xuôi:
Những
chiếc lá mục rất dễ được dịnh giá
Thậm
chí có thể trả giá cao
Bởi
việc đó định được giá của người trả giá cho nó
Dù
chiếc lá mục tôi chẳng đáng giá một xu
Nhiều người đã nói về cái mới và cái hay trong thơ.
Trong giới phê bình, cái hay ngày càng ít được nói tới, nhường cho các bàn luận
lý thuyết đôi khi có ích đôi khi giả tạo. Hai khái niệm này gần nhau, phụ thuộc
vào nhau nhưng vẫn là hai khái niệm độc lập. Một bài thơ hay thì không được cũ
quá, mặc dù có thể không mới lắm, một bài thơ mới thì không được dở quá, dù có
thể không hay lắm. Bài thơ Sen, trên đây, là một bài thơ mới và hay.
Không
thể lường được
Đường
đi của gió
Không
thể lường được
Những
cơn bất thường của sông
Dù
ngày mai sông cạn
Những bi kịch ẩn giấu dưới vẻ xinh tươi mùa xuân, những
hài kịch được che giấu sau chân dung hiền hòa. Thơ chính là các ẩn dụ, mà ẩn dụ
là hóa trang. Tại sao tâm hồn gần với các ẩn dụ, tại sao chúng ta thích thú trước
những so sánh, là câu hỏi tâm lý học khó trả lời. Sức mạnh của hình ảnh chính
là vì chúng là tấm gương phản ảnh tâm hồn chúng ta, huyền thoại, những câu chuyện
không bao giờ được kể lại, sự mờ đục của tình duyên, sự bôi xóa, tiếng gọi vô sở
xứ. Những hình ảnh thấp thoáng như thế trong thơ Giáng Vân tạo ra mời gọi liên
tục về một phía của tâm hồn.
Thơ
ơi
Người
sẽ đến cánh đồng cạn khô nhân tình này chứ?
Vâng,
tôi sẽ tới đó, tới đó
Khuôn mặt tráng lệ của tình yêu ẩn sâu phía sau một thế
giới ly biệt. Thơ Giáng Vân gây ra lòng trân trọng, cảm giác muốn đánh giá lại,
đặt sự vật vào đúng chỗ, sắp xếp lại một đời sống từ bên trong, hoạch định.
Trong những bài thành công, thơ chị hồi phục trí nhớ, sự toàn vẹn của đời sống,
cội rễ của tình yêu, mùa hè với sen đỏ.
Tất
cả chúng ta đã gắng gỏi biết bao
Để
đi đến cái chết này
Trước
khi đến được sớm mai
Bài thơ trữ tình không giải quyết tình trạng tiến
thoái lưỡng nan, trả lời câu hỏi thực tế. Thơ không tạo ra các sự kiện, không
làm thay đổi dòng chảy thời gian. Ngôn ngữ đa nghĩa, nhưng ngôn ngữ thơ sở hữu
một thứ quyền lực riêng. Các ý tưởng tinh tế, các hình ảnh sống động trong thơ
giúp người đọc thoát khỏi định kiến, tình trạng nhận thức hẹp hòi, khuôn khổ, đặc
biệt trong hoàn cảnh xã hội ao tù. Ở nơi mà có sự phân biệt trắng đen, phải
trái, đúng sai, bạn và thù, cái ta và cái chúng nó, cái ta và cái khác, ngôn ngữ
thơ có khả năng đi xuyên qua, kiến tạo lối thoát cho người mắc kẹt.
Ngạc
nhiên
Tôi
đứng ngắm nhìn
Từ
trong trái tim sâu có nhiều phiền muộn
Này,
phiền muộn người bạn trung thành của ta ơi
Con
người kia có là ta không?
Con
người kia so với ta có gì hơn không
Một đời sống không được thử thách, sẽ trở thành buồn
chán, dừng lại. Một xã hội vắng tự do tạo nên những nô lệ mới, kẻ hoàn toàn
sung sướng lặp lại chính họ, chống lại thay đổi. Một bài thơ thành công cất giữ
ở đó những kinh nghiệm, kiến thức, cảm xúc không được bày tỏ bằng phương thức
nào khác. Ngôn ngữ thơ không dừng lại ở một lớp ý nghĩa, bao giờ cũng vượt qua
các định nghĩa, sự diễn dịch bằng một ngôn ngữ khác. Giáng Vân là tiếng nói
khác, và cho đến bây giờ sau nhiều năm từ khi chúng được viết ra, thơ ấy vẫn
khác. Khuynh hướng ca tụng, sử thi đã bị thay chỗ. Giáng Vân có khả năng mô tả
những yếu tố tâm lý tinh tế, những góc khuất bí ẩn phụ nữ, những câu chuyện mà
chỉ tình yêu mới biết. Tôi ước gì chị có thể nói nhiều hơn nữa về điều này, triết
lý hơn nữa nếu cần, mô tả hơn nữa nếu thích hợp. Giáng Vân gần với thế tục, đời
sống cụ thể. Trong thơ thành thực có thể là một đức tính, nhưng không phải bao
giờ cũng vậy. Thành thực quá hóa ra chất phác, giản dị quá có thể thành dễ dãi.
Bởi vì thơ là một ngôn ngữ mang tính ký hiệu. Độc giả đọc các câu thơ như những
ẩn dụ, không phải lời kể chuyện. Họ muốn tìm thấy ở đó những hình ảnh khiến ta
lảo đảo, những cảm xúc làm ta bừng tỉnh, các chiều kích không thời gian bị xáo
trộn để mô tả sự thay đổi dòng đời, sự tan rã tình người. Trong thơ chị, có sự
liên thông giữa người này và người khác, và bằng cách ấy, thơ chị biểu đạt tính
toàn vẹn của thế giới, tính bất nhị trong Phật giáo. Ngôn ngữ thơ thuyết phục
người đọc không phải ở những lời rao giảng mà ở tính thân mật, tức khoảng cách
giữa người viết và người đọc.
Ta
nhớ đời sống và ta làm ra những nghĩa lí
Giống
như những bức vẽ của con, nó đẹp bởi ánh sáng đựơc tạo ra nhờ bóng tối
Nó
giống những điệu nhảy của con
Không
ngừng biến đổi
Con
gái yêu của mẹ ơi, con hãy nhìn, hãy nghe, và hãy lắng
Những
tia chớp vụt lên
Rồi
tắt
Huyền thoại không phải là không có thật, chúng từng có
mặt nhưng biến mất. Giáng Vân không rời bỏ thế giới vật thể, nhưng theo đuổi những
cơn mơ. Thơ là cái khả thể của thế giới, là những điều đã từng có thể xảy ra.
Ngôn ngữ của cơn mơ là ngôn ngữ siêu thực, điều mà, theo quan sát của tôi, hiếm
gặp ở các nhà thơ nữ của chúng ta.
Công
việc khó khăn nhất của thơ là gì?
Thơ
ơi
Người
có thể rửa sạch ô nhục chất chồng?
Có,
tôi có thể làm được việc đó
Giáng Vân chống lại tội ác, thói bi quan. Tất cả điều
bạn cần là lòng kiên nhẫn, sự lắng nghe. Như là tình yêu với con gái, với mẹ
hay là với một người đàn ông, bao giờ thơ chị cũng làm lòng chúng ta ấm lại.
Thơ chống lại thói ích kỷ, vong thân, dung tục, hướng về sự vượt qua, về sự
giàu có của đời sống tâm hồn dân tộc, một tương lai không sợ hãi nhưng tự tin,
quyến rũ.
Cửa
phòng anh vắng lặng
Mùa
hạ đi qua không chờ
Lá
táo cũ rơi đầy dưới gốc
Trên
những cành hoa trắng đơm đầy
Tôi tin rằng có một sự giao tiếp mạnh mẽ hơn, bí ẩn
hơn giữa phụ nữ và hoa lá cỏ cây, thời tiết, nhiều hơn ở nam giới. Khi Giáng
Vân nhìn vào thiên nhiên, thiên nhiên cũng nhìn lại chị, không phải như một đối
tượng nghiên cứu, mà như một người bạn. Tại sao thơ hình thành rất sớm trong lịch
sử loài người? Mặc dù phép tu từ là phổ biến trong thơ, mặc dù ngôn ngữ thơ ca
là một ngôn ngữ chắt lọc, nhà thơ tìm đến những khoảng trống hơn là lời nói, sự
phản chiếu hơn là ánh sáng. Tuy vậy chất giọng của chị đôi khi cũng có tính phê
phán, châm biếm:
Cánh
tôi gẫy
Ngay
khi vừa ra khỏi nhà
Chỉ
vì chạm phải một cành cây vớ vẩn
Thơ vốn nói nhiều về cái cụ thể, nhưng ở Giáng Vân nhiều
câu thơ được nâng lên đến mức khái quát. Nỗi buồn của chị là nhìn thấy sự giả dối
khắp nơi, những tội ác, một đời sống văn hóa ngày càng nông cạn, tan vỡ.
Mẹ
ơi,
Đường
đi nào dẫn dắt mẹ con ta
Đức
Phật từ bi có quá nhiều sinh linh phải cứu vớt
Mẹ
con ta có đủ sức tự đi về phía người?
Thơ trữ tình hôm nay cho phép bày tỏ cảm xúc một cách
trực tiếp nhưng cũng tiếp nhận khái niệm khách quan ở mức độ thích hợp. Mối
quan hệ giữa nhà thơ và chất liệu, xét từ quan điểm của chủ nghĩa hiện đại, là
có tính ý thức và lương tri. Những yếu tố siêu thực hay vô thức ít khi được xem
là cái tôi của tác giả. Thơ chị không có những bài hoàn toàn thế sự hay chính
trị, nhưng ý thức về xã hội gặp bang bạc ở nhiều bài. Chị là một người tham dự,
với những hiểu biết từng trải của trái tim nhạy cảm. Dù đôi khi chán nản, với lời
tự thú, nhưng hầu hết thơ chị hướng về cái tốt đẹp mà dân tộc đánh mất nhiều
năm.
Bao
bọc ngôi nhà mẹ
Những
cơn mưa dài hằng đêm
Vách
đất nhà mình ẩm lạnh
Ếch
kêu vang đồng ngoài
Hoạt động sáng tạo của các nhà thơ nữ những năm gần
đây là một trong những yếu tố quan trọng làm nên diện mạo văn học Việt Nam,
trong thơ cũng như trong văn xuôi. Các nhà thơ nữ có tiếng nói chung với những
quan tâm của dân tộc, vừa riêng biệt của nữ giới: xã hội, môi trường, gia đình,
số phận, nữ quyền.
Con
có thấy những cái cây con đang tỏa những cái rễ non
trong
đất
Chúng
đang tự kiếm tìm thức ăn để tự nuôi lớn mình, và
Trong
cuộc kiếm tìm đó chúng học hòa thuận với tất cả
Trong
tình yêu đôi khi cũng nặng nhọc xiết bao
Giáng Vân không rơi vào tình trạng cực đoan, cái nhìn
siêu thực của chị không đến mức hoàn toàn tách rời cuộc sống, trở nên lý tính.
Ý thức phản kháng vẫn là một ý thức về cái tốt đẹp. Tôi không rõ lắm Giáng Vân
có chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa nữ quyền hay không. Sự quan tâm đến các giá trị
vĩnh hằng của tình yêu được làm cân bằng với nguyên lý vui thú trong nghệ thuật
(pleasure principle).
Tôi
có một chút mặn mòi
Để
có khát vọng, để không nhạt nhẽo
Ai cũng biết rằng một câu thơ không thể sắp xếp lại và
các chữ trong một câu không thể thay thế nhau. Sở dĩ như thế là vì tính âm nhạc.
Một bài thơ không phải là các ý tưởng được diễn tả và tất nhiên cũng không phải
chỉ là các chữ, vốn không có khả năng tự tạo ra nghĩa cho chúng. Trong một bài
thơ đề “viết tặng họa sỹ Trần Trọng Vũ”:
Ngay
cả nỗi buồn cũng ấm và rất trong
Cả
những bùn đen cùng rách nát
Ước
muốn được tắm mặt trời
Để
được sáng lên
Tư duy thơ hiện đại. Không ai muốn đau khổ và tan vỡ,
nhưng chỉ trong những điều kiện ấy tâm hồn mới có dịp bộc lộ như một căn nhà bị
hỏng mái để ánh trăng chiếu rọi vào. Một khi chúng ta tin rằng con người xứng
đáng được yêu thương, bạn sẽ sung sướng mà nhận ra rằng những cơ hội đối với
trái tim là nhiều hơn bạn tưởng. Những tổn thương của con người trở thành chất
liệu sáng tạo. Những tình đời ấm lạnh, những nhầm lẫn tuổi trẻ, tạo ra xúc cảm
mạnh mẽ. Dù mơ mộng đến đâu, dù có nhiều năm hình như Giáng Vân không làm thơ nữa,
thơ của chị vẫn gắn bó với cuộc đời. Bài thơ mời người đọc đi tìm những ý nghĩa
khác nhau của sự chia sẻ, cá nhân và cộng đồng. Những người chỉ quan tâm đến bản
thân mình, ít chú ý đến người khác, sẽ là những người đau khổ nhất. Sự chia sẻ,
khả năng giao cảm làm thay đổi các mối quan hệ. Thơ Giáng Vân cũng có giọng điệu
của một bài ru, giao cảm.
Một
ngày
Tôi
thấy mình sáng dịu
Như
những tơ trời lắc thắc giăng giăng
Tôi
thấy tôi không quá độ buồn
Người
thấm vào tôi
Cũng
theo cái cách không khí thấm vào tôi
Điệu ru xuất phát từ chủ nghĩa lãng mạn. Điệu ru buồn
nhưng lại nói về sự khổ đau có thể chấp nhận được, niềm vui hy vọng về tình
yêu. Ngôn ngữ mềm mại của nó làm cho bài thơ như hát ru được quần chúng yêu
thích. Tình yêu của chị càng về sau càng dung chứa nhiều suy tưởng, trong khi
chị biết chọn lựa những chữ giản dị, những tình cảm chất phác, làm cho bài thơ
thoạt có một vẻ đẹp chân phương.
Không
có mặt trời
Không
có mặt trăng
Không
có anh và con đường bão lốc
Mưa
ngoài kia như lời ru của số phận muộn phiền
Tôi
ngủ
Không
biết mình đang khóc
Ý tinh tế, cấu trúc chặt chẽ. Tâm trí của người đọc dừng
lại lâu ở những hình ảnh được mô tả với cảm xúc tiết chế. Bài thơ của chị có kết
thúc (ending) gọn ghẽ, chứ không bỏ lửng. Sự vận động của các câu thơ có khi trở
nên ngẫu hứng tự do, đôi khi rời rạc, thực ra vẫn là một cấu trúc được chọn lựa
kỹ, với chi tiết đắt, tương tự kỹ thuật phim ảnh. Giáng Vân không tránh khỏi sự
lặp lại chính mình qua một số bài thơ, làm cho chúng trở nên dễ tiên đoán. Tuy
nhiên so với nhiều nhà thơ cùng thời, chị là một trong những người biết tránh sự
lặp lại, tránh sự sáo rỗng. Rất khó khăn để theo dõi quá trình sáng tác của
Giáng Vân. Có những giây phút sáng lên trong thơ, chuyển thể, nhận thức.
Thơ
ơi
Người
sẽ đến cánh đồng cạn khô nhân tình này chứ?
Vâng,
tôi sẽ tới đó, tới đó
Lòng biết ơn không dựa vào tài năng, sức mạnh, ưu thế.
Nó dựa vào nguyên lý không toàn hảo. Chúng ta không toàn hảo và chúng ta không
che dấu điều ấy. Đó là khả năng thưởng thức cái đẹp, yêu quý những khoảnh khắc
đời sống, sự giúp đỡ, sự may mắn. Lòng tri ân làm cho tâm hồn thanh thản, làm
nên nhịp điệu của câu thơ. Thơ tự do, trong khi mở rộng biên giới của câu, cho
phép bộc lộ không những tính cách của một cá nhân mà còn đặc tính của một ngôn
ngữ.
Giọng
cao của gió
Giọng
trầm của sông
Khi
du ca khi trầm mặc
Đừng
đổi chác điều gì
Kẻo
điều thiêng đi mất
Chảy
tuôn
Theo
những ánh sáng đẹp
Theo
mưa rây ngày xuân
Theo
hoa hồng mới nở
Những
hồn hoa trong ngần
Nếu
một ngày ta chết
Hồn
ta vương vấn ngàn hương
Khi viết một bài thơ, bạn nên buông nó ra, thản nhiên
để nó chuyển động về hướng chính bạn cũng không biết. Bạn không thể đoán trước
ý nghĩa của nó đối với người đọc. Một khi nó mở được cánh cửa của người đọc, nó
sẽ nói gì, bạn không biết. Đó không phải là trò đánh bạc may rủi, đó là niềm
tin bạn đặt vào ngôn ngữ. Trong khi bạn làm một bài thơ, bạn tìm thấy cảm xúc của
mình, không phải trước đó. Bạn ở vào vị trí dễ bị thương tổn, khi không biết
bài thơ dẫn đến đâu. Chúng tôi hy vọng bạn sẽ tới một nơi nào đó, trên đường đi
tìm cái đẹp hay một điều gì khác. Tìm trong ánh sáng, trong bóng tối, khi còn
trẻ, khi đã già, trong chung thủy, trong chia lìa, trong cái còn lại. Cái đẹp
cũng như sự thật sẽ làm chúng ta thay đổi. Nhưng đời sống trong văn học không
phải là đời sống thực tế mà là cái nhìn của tác giả, ký ức, quan điểm, ấn tượng.
Đó là một người phụ nữ sống hết lòng, có lý tưởng, cao thượng. Đôi khi tuyệt đối
hóa, đã từng trải qua hạnh phúc và thất bại cay đắng. Đó là con người của thời
đại hôm nay, mất lòng tin nhưng vẫn đầy bao dung, nghiêm khắc nhưng tha thứ. Dù
có thể sử dụng phương pháp nghệ thuật lãng mạn hay tượng trưng, hiện thực hay
siêu thực, thơ Giáng Vân đi sát đời sống, đem lại hương vị mới cho ngôn ngữ
thơ, những rung động của trái tim chân thật, ảo tưởng bị đập vỡ, sự phản tỉnh.
Thơ
ơi
Người
có thể rửa sạch ô nhục chất chồng?
Có,
tôi có thể làm được việc đó
Nhân vật nữ trong thơ Giáng Vân không quá sầu thương,
cũng không bần hàn khổ cực. Trong thơ chị, họ cao sang và đơn độc, chạm tay vào
đời sống nhưng vẫn là hình ảnh của hồi tưởng. Thơ chị đầy những những ám ảnh
dai dẳng; chúng chuyển động. Thơ chị ra khỏi khuynh hướng phản ảnh hiện thực,
trở thành ký ức của thế giới khác. Chị không triết lý nhiều trong thơ nhưng
hình ảnh của chị có tác dụng dẫn đường cho người đọc đến một thế giới mà chị sáng
tạo ra. Giáng Vân cũng không có nhiều những liên tưởng lạ, quá bất ngờ, nhưng
hình ảnh trong thơ thuyết phục. Những cá thể dựa vào nhau. Cảm giác ràng buộc,
trong những mối liên kết chằng chịt của đời sống, làm cho tâm hồn một người trở
nên yên tĩnh, vững vàng.
Suốt đời mơ sự công bằng
Đó là cảm giác nâng đỡ và được nâng đỡ. Trong khi đơn
độc mang lại tự do, thì cảm giác liên kết mang lại an ủi, tình yêu dịu dàng,
cái đẹp của tan rã. Sự cô đơn và sự nối kết, tự do và sở hữu, tuy là những khía
cạnh đối lập, lại bổ sung cho nhau ở thơ Giáng Vân, làm cho đời sống cân bằng,
càng về sau càng an tĩnh.
Sự an tĩnh dũng cảm.
An tĩnh sinh ra từ lòng tin cậy, tin cậy vào sự thật,
sự cao quý. Bạn tin vào một người: đó là quà tặng của bạn mang tới cho người ấy.
Bạn tin vào tình yêu: quà tặng của bạn cho chính mình, và do đó, cho những tình
nhân. Thơ Giáng Vân là sự tưởng tượng mới, nơi vô thức được phép lên tiếng.
Trong thơ chị một số hình ảnh siêu thực chính là yếu tố vô thức. Những giọng
thơ trữ tình như thế vượt ra khỏi tiếng nói của trái tim, trở thành ý thức xã hội.
Hình ảnh trong thơ Giáng Vân là sự kết hợp giữa quan sát hiện thực và trí tưởng
tượng huyễn mộng, làm cho nhân vật trở thành tượng trưng. Thơ chị vượt qua hoàn
cảnh riêng tư, giúp người đọc phát hiện rằng cuộc sống là đáng sống, đáng quan
tâm hơn nữa.
Rất
nhiều hạt mầm gieo không mọc
Rất
nhiều cây tôi trồng đã chết
Rất
nhiều gió
Những
cơn gió ngang tàng đã buồn
Đã
đến, đã đi, và quay trở lại
Vì
những cái cây, những hạt mầm đã chết
Hay
vì khu vườn tôi?
Tôi
có một chút mặn mòi
Để
có khát vọng, để không nhạt nhẽo
Tôi
thả tôi vào nước hy vọng sẻ chia
Tụ
vào tôi
Giọt
nước ngày một lớn
Thời gian trong thơ tình không có nhiệm vụ hàn gắn các
vết thương, mà chính là sự nhận ra bản chất của tình yêu, tấm lòng nhân hậu và
các xung đột. Ít có một đề tài nào mà sự xung đột lại lớn như trong thơ tình.
Chị đứng từ nhiều phía trong bài thơ của mình, làm cho khuôn mặt của một người
làm ta đau khổ trở thành khuôn mặt thân yêu, tốt và xấu lẫn lộn, như chính cuộc
đời, và đó là điều khó khăn. Chúng ta dành nhiều thời gian để đi tìm người bạn
đời của mình, hay đi tìm lại một người mà ta đánh mất. Chúng ta bỏ rơi những
người đi tìm chúng ta và đuổi theo những người chúng ta không cần tới. Một người
nào đó đang chờ bạn phía sau khúc quanh, như đóa sen hồng rực rỡ, nhưng chúng
ta không thấy. Một người nào đó chiếu sáng khuôn mặt đau khổ của chúng ta,
nhưng bạn không biết. Nhiệm vụ của thơ ca không phải là giúp người đọc đi tìm một
người như thế trong đời, nhưng nhiệm vụ ấy khó khăn hơn, đó là chỉ ra cho tâm hồn
bạn cái bóng của chính mình, chân dung thực sự của tình yêu của mình, cho chúng
ta biết điều đang theo đuổi đôi khi không phải là điều tâm hồn chúng ta cần tới.
Một khi bạn tin rằng bạn xứng đáng với tình yêu ấy và nó cũng xứng đáng với sự
tìm kiếm gian nan của bạn, chỉ khi ấy thôi bạn sẽ có nhiều cơ hội, chúng chờ đợi
bạn đâu đó, trên trang sách này, bên bìa rừng kia, sau một góc phố khi chiều tối.
Tình yêu là món quà tặng.
Có một người nào đó, ở một nơi nào đó, sẽ nhận món quà
ấy.
Nguyễn Đức Tùng
(Đọc Thơ- bài 25)