NHẠC TIỀN CHIẾN 1930- 1945
LÊ THIÊN MINH KHOA
Kỳ 1: TÂN NHẠC VIỆT NAM và DÒNG NHẠC TIỀN CHIẾN
Phác thảo bìa sách “9 thập kỷ ca khúc tân nhạc Việt Nam”.
- TÂN NHẠC VIỆT NAM
Ca khúc tân nhạc VN ra đời vào đầu thập niên 30 của thế kỷ truớc do sự giao lưu với văn hoá phương Tây và sự hình thành một lớp người trí thức mới. Nhưng người Việt tiếp xúc với nhạc Tây khá sớm: Đầu tiên chính là những bài thánh ca của nhà thờ. Tiếp đó người dân được làm quen với "nhạc nhà binh" qua các đội kèn đồng. Tầng lớp giầu có ở thành phố được tiếp xúc với nhạc khiêu vũ, nhạc cổ điển phương Tây và người dân Việt bình thường được nghe các hãng đĩa của người Pháp như Odéon, Béka thu âm các bài hát ta theo điệu Tây. Rồi sau đó, là rất nhiều các bài hát của Pháp lời Việt như Marinella, C'est à Capri, Tant qu'il y aura des étoiles, Un jour loin de toi, Celle que j'aime éperdument, Les gars de la marine, L'Oncle de Pékin, Guitare d'amour, Créola, Signorina, Sous les ponts de Paris, Le plus beau tango du monde, Colombella...
Thời ấy, các bài tân nhạc thường được đệm bằng các nhạc cụ phương Tây: mandoline, guitare , violon, piano… Có người đặt tên cho loại nhạc mới là "âm nhạc cải cách" (musiquerenovée).
Từ giữa thập niên 1930, nhiều nhóm thanh niên yêu âm nhạc ở Hà Nội đã tập trung cùng sáng tác: Văn Chung, Lê Yên, Doãn Mẫn… Tại Huế có Nguyễn Văn Thương... Tại Hải Phòng có Lê Thương… Tại Sài Gòn có Nguyễn Văn Tuyên… Ca khúc lãng mạn, trữ tình của các nhạc sĩ nầy mở ra một dòng nhạc gọi là Nhạc tiền chiến còn được các nhạc sĩ tiếp tục sáng tác đến năm 1975.
Tờ Ngày Nay của Nhất Linh, số 121 ra ngày 31 tháng 7 năm 1938 đã đăng lần đầu một bài hát tân nhạc, bài Bình minh (lời Thế Lữ) của Nguyễn Xuân Khoát, và sau đó là các bản Một kiếp hoa của Nguyễn Văn Tuyên, Bản đàn xuân của Lê Thương, Khúc yêu đương của Thẩm Oánh, Đám mây hàng, Cám dỗ của Phạm Đăng Hinh, Đường trường của Trần Quang Ngọc... ở các số tiếp theo.
Từ đầu năm 1939, nhiều ca khúc sáng tác từ trước được các nhạc sĩ phát hành, các bản nhạc của được bán tại các hiệu sách. Tân nhạc Việt Nam chính thức hình thành.
Nhiều băng nhạc tân thời được thành lập, trong đó những băng đã có những ảnh hướng lớn
NS Nguyễn Xuân Khoát.
tới tân nhạc Việt Nam như: Myosotis (Hoa lưu ly) gồm các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Phạm Văn Nhượng, Trần Dư, Vũ Khánh…; Tricéa gồm ba nhạc sĩ Văn Chung, Lê Yên và Doãn Mẫn; Đồng Vọng được thành lập bởi nhạc sĩ Hoàng Quý, gồm nhiều nhạc sĩ tên tuổi Phạm Ngữ, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Canh Thân và Hoàng Phủ (tức Tô Vũ); băng Tổng Hội Sinh Viên được thành lập bởi nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Cùng với Đồng Vọng, nhóm nhạc Tổng Hội Sinh Viên mở ra dòng nhạc hùng trong tân nhạc Việt Nam với thể loại hành khúc được tiếp nối sau nầy trong nhiều dòng nhạc. Tổng Hội Sinh Viên chú trọng đặc biệt đến việc dùng tân nhạc trong việc đấu tranh chính trị chống Pháp và Nhật. Lưu Hữu Phước cùng với nhóm Tổng Hội đã tung ra nhiều ca khúc giá trị khơi dậy lòng yêu nước. Vào giai đoạn cuối, cùng với nhóm Hoàng Mai Lưu mà Lưu Hữu Phước cũng là một sáng lập viên, nhóm Tổng Hội Sinh Viên đẩy dòng nhạc cách mạng (nhac đỏ) Việt Nam lên cao trào với một loạt ca khúc mới ra đời.
NS Đinh Nhu và ca khúc tân nhạc VN đầu tiên: Cùng nhau đi hồng binh.
Nhưng ca khúc được cho là bản tân nhạc đầu tiên của Việt Nam ra đời rất sớm. Theo nhiều tư liệu, trong đó có nhận định của GS- TS âm nhạc Trần Quang Hải và nhà nghiên cứu Dương Viết Á, trên văn bản “khai sinh”, ca khúc tân nhạc được hình thành từ năm 1930 với bài Cùng nhau đi hồng binh theo điệu March của tác giả Đinh Nhu, viết lúc mới 20 tuổi, khi bị tù ở Côn Đảo (sau này được đưa vào ca khúc Hồi tưởng, chương 2 tổ khúc hợp xướng Tổ quốc ta của NS Hoàng Vân).
Như vậy, tân nhạc Việt Nam là từ ngữ để chỉ chung 9 thập niên âm nhạc VN hiện đại theo âm luật Tây phương phổ biến từ thập niên 30 đến nay với nhiều giai đoạn phát triển: 1930- 1945, 1946- 1954, 1954- 1975, 1975- nay.
- NHẠC TIỀN CHIẾN
Thực ra, thời tiền chiến (trước 1946), tồn tại 3 loại nhạc: nhạc đỏ (nhạc cách mạng), nhạc hùng (hùng ca) và nhạc tiền chiến (nhạc trữ tình). Nhưng người ta quen dùng cụm từ “nhạc tiền chiến” để chỉ một dòng tân nhạc Việt Nam chiếm ưu thế trong giai đoạn nầy, mang âm hưởng trữ tình lãng mạn với nội dung về tình yêu lứa đôi, quê hương và lời ca giàu chất văn học xuất hiện vào nửa sau thập niên 1930, trước khi nổ ra cuộc kháng chiến chống Pháp`(1946–1954).
Về sau, khái niệm này mở rộng, bao gồm một số sáng tác trong chiến tranh (1946–1954) và cả sau 1954 đối với một số nhạc phẩm ở miền Nam có phong cách trữ tình lãng mạn và lời ca giàu chất văn học... như dòng nhạc tiền chiến 1930-1945.
Đặc biệt, nhiều NS kháng chiến trong thời 9 năm vẫn tiếp tục viết các ca khúc lãng mạng và được xếp vào dòng nhạc tiền chiến như: Lời người ra đi, Sơn nữ ca của Trần Hoàn, Ngày về của Hoàng Giác, Thiên thai, Suối mơ của Văn Cao, Dư âm của Nguyễn Văn Tý, Tiếng hát
quay tơ của Tử Phác, Nụ cười sơn cước của Tô Hải, Tình quê hương của Việt Lang, Bên cầu biên giới, Thiên thai, Cây đàn bỏ quên, Tình kỹ nữ, Tiếng thu (thơ Lưu Trọng Lư) của Phạm Duy, Đoàn Chuẩn với Ánh trăng mùa thu (1947- ca khúc đầu tay), Tình nghệ sĩ (1947), Đường về Việt Bắc (1948), Lá thư (1949) ...
NS Đoàn Chuẩn.
Cũng trong 9 năm, nhiều nhạc sĩ ở vùng đô thị cũng viết ca khúc theo dòng nhạc tiền chiến như: Văn Giảng dưới bút danh Thông Đạt viết Ai Về Sông Tương (1949). Võ Đức Thu với Mưa đêm thu, Nhớ người xa vắng; Nguyễn Hữu Ba với Sám hối, Xuân xuân (1947); Văn Phụng với Trăng sơn cước (1949- lời Văn Khôi), Lam Phương với Chiều thu ấy (1952- lúc mới 15 tuổi); Lê Trọng Nguyễn với Nắng chiều (1952); Lê Hữu Mục với Hẹn một ngày về; Phạm Duy viết Đàn tôi, Nụ tầm xuân (phổ ca dao), Tiếng sáo thiên thai (thơ Thế Lữ), Tình ca, Tình hoài hương (1952), Thuyền viễn xứ, Viễn du, Hẹn hò (1954); Hoàng Giác với Lỗi cung đàn, Quê hương, Hương lúa đồng quê, Bóng ngày qua, Cô hái hoa, Quê hương; Hùng Lân với Vườn xuân, Hận Trương Chi, Hè về, Cô gái Việt, Mùa hợp tấu, Ca xuân hẹn ước, Luống cầy mạch sống, Nhớ rừng, Sầu lữ thứ, Tơ vương, Xóm nghèo; Phạm Đình Chương với Khúc giao duyên, Được mùa; Đoàn Chuần với Thu quyến rũ (1950), Chuyển bến (1952), Gửi gió cho mây ngàn bay (1952), Cánh hoa duyên kiếp (hay Dạ lan hương-1953), Lá đổ muôn chiều (1954); Văn Phụng với Ô! Mê ly (1948), Bóng người đi (lời Hoài Linh), Trăng sơn cước (1949- lời Văn Khôi), Thuyền xưa bến cũ; Dương Thiệu Tước với Đêm tàn bến Ngự (1946), Kiếp hoa, Áng
NS Hoàng Giác. |
mây chiều, Nhạc ngày xanh, Xuân mới, Thuyền mơ; Hoàng Trọng với Nhạc sầu tương tư, Gió mùa xuân tới, Dừng bước giang hồ (1953- lời Quang Khải), Phạm Mạnh Cương với Nhạc chiều quê, Màu thời gian (1951- thơ Đoàn Phú Tứ), Thu ca (1953); Cung Tiến với Hoài cảm (1952- viết lúc mới 14 tuổi), Thu vàng (1953- 15 tuổi); Lâm Tuyền với Tơ sầu (ca khúc đầu tay), Tiếng thời gian, Hình ảnh một buổi chiều, Khúc nhạc ly hương, Tiếng thời gian (lời Dạ Chung, đạo diễn nổi tiếng Hoàng Vĩnh Lộc, anh ruột của ông). Ở Huế, Lê Mộng Nguyên viết Mùa lúa mới, Vó ngựa giang hồ (1948), Trăng mờ bên suối, Một chiều thương nhớ, Trọng Thủy Mỵ Châu, Chiều thu, Mưa Huế (1949), Hoàng Hoa thôn, Bài thơ Huế, Cô gái Huế, Về chơi thôn Vỹ Dạ, Đôi mắt nhung (1950). Qua Pháp, ông viết Mơ Đà Lạt, Ly hương, Nhớ Huế (1950), Bên dòng sông Seine, Xuân tha hương, Lá thư cho mẹ, Trời Âu (1951)…
NS Doãn Mẫn |
Các bản nhạc tiền chiến thường theo điệu Valse, Tango, Slow Waltz, Boston, Blues, March, một số là các trường ca, hay phong cách bán cổ điển. Hầu hết các ca khúc tiền chiến thuộc dòng thính phòng. Dòng nhạc tình khúc ở miền Nam sau này cũng ảnh hưởng của dòng tiền chiến nhưng thường theo điệu Slow Rock, Slow Ballad, Slow Fox, trong khi nhạc đỏ nhiều bài cũng ảnh hưởng của nhạc tiền chiến về giai điệu.
Những nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc tiền chiến: Đặng Thế Phong (mất lúc hơn 20 tuồi), Văn Cao, Lê Thương, Nguyễn Văn Thương, Dương Thiệu Tước, Phạm Duy, Hoàng Quý, Doãn Mẫn, Nguyễn Đình Phúc, Hoàng Trọng, Bùi Công Kỳ, Hoàng Giác, Lê Yên, Nguyễn Thiện Tơ, Tô Vũ, Văn Chung, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Mỹ Ca ...
Các ca khúc tiêu biểu như Đêm thu (1937), Giọt mưa thu (lúc đầu tên là Vạn Cổ sầu), Con thuyền không bến của Đăng Thế Phong, Trên sông Hương (1936- lúc 17 tuổi) Đêm đông (1940), Bướm hoa (1942), Mưa thu của Nguyễn Văn Thương, Cô hái mơ (thơ Nguyễn Bính- 1942- ca khúc đầu tay) của Phạm Duy, Xuân năm xưa (1936), Tiếng đàn âm thầm (1937), Trên sông Dương Tử, Thu trên đảo Kinh Châu, Đêm tàn bến Ngự, Hòn vọng phu (1945) của Lê Thương, Lời du tử (1943), Cô lái đò (thơ Nguyễn Bính) của Nguyễn Đình Phúc, Ca khúc ban chiều, Trên thuyền hoa, Bóng ai qua thềm của Văn Chung; Đêm trăng (1938- ca khúc đầu tay- lúc 16 tuổi). Tiếng đàn tôi, một trong những bản Tango VN đầu tiên, Một thuở yêu đàn của Hoàng Trọng; Sao hoa chóng tàn, Tiếng hát đêm thu, Gió thu, Một buổi chiều mơ, Bến yêu đương, Từ đâu tiếng tơ, Hương cố nhân, Nhạc chiều, Gió khơi xa, Biệt ly (1939) của Doãn Mẫn, Con thuyền xa bến của Lưu Bách Thụ, Buồn tàn thu (1939- lúc 16 tuổi), Thiên thai (1941), Bến xuân, Về đồng quê, Trương Chi của Văn Cao, Bẽ bàng, Xuân nghệ sĩ hành khúc, Ngựa phi đường xa, Vườn xuân của Lê Yên, Bình minh (1938- lời Thế Lữ), Mây trên cao, Hồn Xuân (thơ Thế Lữ), Màu thời gian (thơ Đoàn Phú Tứ) của Nguyễn Xuân Khoát, Tiếng xưa, Đêm tàn bến ngự của Dương Thiệu Tước, Dạ khúc (lời Hoàng Mai Lưu) của Nguyễn Mỹ Ca, Ngày xưa của Tô Vũ, Trầu cau của Phan Huỳnh Điểu, Cô hàng cà phê, Khúc ca mùa hè,
NS Hoàng Quý |
(Mời xem tiếp Kỳ 2: Nhạc hùng và Nhạc đỏ tiền chiến).
LÊ THIÊN MINH KHOA
(Trích trong cuốn sách “ 9 THẬP KỶ CA KHÚC TÂN NHẠCVIỆT NAM”- nghiên cứu, nhận định- Lê Thiên Minh Khoa- trang 9- 14, sắp xuất bản, 2018).
-----------------
Nguồn ảnh: Internet.