Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Thursday, April 11, 2024

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CÁC LÀNG XÃ VEN BỜ THẠCH HÃN NHÌN TỪ SỰ TÁC ĐỘNG VÀ BIẾN ĐỔI ĐỊA CUỘC DÒNG SÔNG -Yến Thọ

 

Sông Dakrông, thượng nguồn của sông Thach Hãn. Ảnh Phạm Đình Quát

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CÁC LÀNG Xà

VEN BỜ THẠCH HÃN NHÌN TỪ SỰ TÁC ĐỘNG 

VÀ BIẾN ĐỔI ĐỊA CUỘC DÒNG SÔNG

Yến Thọ

 

Làng Quảng Trị được hình thành từ các cuộc di dân tập trung hoặc lẽ tẻ; tự phát hoặc do nhà nước tổ chức, của những người Việt ra đi từ đất Bắc qua nhiều đợt của các thế kỷ XI, XIV, XV, XVI hoặc từ sự phát triển nội tại theo cơ chế “làng mẹ đẻ làng con” đồng hành với quá trình mở rộng địa vực cư trú từ đồng bằng lên miền núi vào các thời kỳ tiếp sau. Trong tiến trình lịch sử, sự thay đổi địa vực cư trú và đơn vị hành chính các làng xã bị tác động và chi phối không chỉ bởi hoàn cảnh lịch sử mà còn bị ảnh hưởng bởi sự biến đổi của địa cuộc. Nằm trong bối cảnh chung đó, lịch sử hình thành và thay đổi địa lý hành chính các làng xã ven bờ Thạch Hãn gắn bó mật thiết với quá trình biến động và chuyển dịch của dòng chảy và sự thay đổi địa cuộc của dòng sông này.

Các làng xã người Việt Quảng Trị cơ bản được thiết lập ven các con sông. Cũng như mọi con sông khác, quá trình hình thành dòng chảy của Thạch Hãn không chỉ chịu sự chi phối của các điều kiện tự nhiên mà còn bị tác động rất lớn bởi các điều kiện xã hội, hoàn cảnh lịch sử. Sự giữ dòng, chuyển dòng và mất dòng chảy đa phần là do sự biến động của địa chất, môi trường, khí hậu, thủy văn... nhưng đồng thời, sự biến động của dòng chảy dẫn đến sự biến động địa cuộc và kéo theo sự thay đổi địa vực cư trú của các làng xã ven bờ cũng như môi trường sinh thái nhân văn trên mỗi vùng đất mà dòng sông đi qua.

Từ tây xuống đông, từ rừng xuống biển, xét về mặt địa hình thì về cơ bản, sông Thạch Hãn chảy quanh co qua hai vùng địa hình và tương ứng là hai khu vực địa lý: Thượng nguồn là địa hình núi đồi thuộc các xã Mò Ó, Triệu Nguyên, Ba Lòng và Hải Phúc của huyện Đakrông; một phần của xã Hải Lâm (Hải Lăng), Hải Lệ (thị xã Quảng Trị) phía hữu ngạn và một phần của xã Triệu Thượng (Triệu Phong) phía tả ngạn. Hạ nguồn là địa hình đồng bằng và ven biển thuộc các xã phường của thị xã Quảng Trị, huyện Triệu Phong (các xã ở hữu ngạn là Triệu Thành, Triệu Long, Triệu Độ, Triệu Thuận, Triệu Phước, Triệu An; các xã ở tả ngạn là Triệu Thượng, Triệu Ái, Triệu Giang), thành phố Đông Hà (các phường Đông Lương, Đông Lễ ở tả ngạn) và các xã thuộc huyện Gio Linh (Gio Quang, Gio Mai, Gio Hải ở tả ngạn).

Về phía thượng nguồn, sông Thạch Hãn đi qua khu vực thung lũng Ba Lòng (nay là các xã Ba Lòng và Triệu Nguyên), do được tích hợp một lượng phù sa rất lớn từ phía thượng nguồn của sông Đakrông và các khe suối trong vùng đổ về nên đã bồi đắp cho vùng đất hai bên bờ sông với đặc điểm thổ nhưỡng là đất, cát phù sa tơi xốp rất màu mỡ, tạo ra nhiều ưu đãi cho trồng trọt. Vùng này nguyên là không gian tụ cư và sinh sống của người Bru - Vân Kiều. Từ khoảng thế kỷ XVII - XVIII, các nhóm dân cư vùng đồng bằng Triệu Phong và Hải Lăng lần lượt mở rộng địa bàn cư trú về phía tây theo hướng dọc sông Thạch Hãn lên thung lũng Ba Lòng để hình thành nên các làng xã người Việt, sinh sống cận cư, xen cư với người Bru - Vân Kiều. Hai phường được hình thành sớm hơn cả được chép trong “Phủ biên tạp lục” là Na Nẫm (Đá Nằm) thuộc tổng Hoa La (nay thuộc xã Triệu Nguyên) và Mai Hoa (thời Nguyễn đổi thành Mai Lĩnh) thuộc tổng An Khang (nay thuộc xã Mò Ó) của huyện Hải Lăng 1. Phường Mai Lĩnh hiện không tồn tại với tư cách là một đơn vị hành chính/cư trú mà đã bị xoá tên từ những năm 1960 (thế kỷ XX) khi chính quyền miền Nam cho dồn dân vào trại tập trung. Dưới thời Nguyễn có thêm hai phường nữa được thiết lập là phường Trinh Thạch (về sau tách thành hai phường Đá Nổi và Thạch Xá) và phường Sái Xuân (có lẽ là thôn Xuân Lâm hiện nay) thuộc tổng An Thái, huyện Hải Lăng 2. Các phường của người Việt thuộc huyện Hải Lăng, còn các bản người Bru - Vân Kiều thuộc châu/huyện/phủ/đạo Hướng Hoá/Thành Hoá hoặc Cam Lộ. Các thôn còn lại như: Mai Sơn, Cây Chanh, Lương Hạ, Hà Vụng, Vạn Đá Nổi, Văn Vận, Tân Trà đều được hình thành từ thời thuộc Pháp trở về sau.

 Sông Thạch Hãn đoạn từ thôn Văn Vận xã Ba Long (trước là Hải Phúc) về đến Đập tràn là đường ranh giới tự nhiên giữa huyện Triệu Phong với Hải Lăng và ranh giới tự nhiên giữa huyện Triệu Phong với thị xã Quảng Trị.

Dòng sông quanh co, chảy theo hình chữ chi, uốn lượn gấp khúc, len lõi dưới chân các núi đá, đồi phiến thạch. Phía trên, lòng sông hẹp và sâu, có nhiều vực, lưu lượng dòng chảy lớn, mạnh, hai bên bờ là các vách đá dựng đứng, nhiều đoạn có những dải đá nhô ra. Càng xuôi dần về phía dưới, địa hình càng thoải dần, lòng sông càng rộng ra, hai bên bờ là những đồi trung sinh, đồi bát úp với kết cấu đá phiến thạch và sỏi bazan, ven sông là đất phù sa và phù sa glây.

Trên các dãy đồi thấp phía tả ngạn từ Khe Trái trở xuống với thành phần đất đá trầm tích và phun trào bazan là các nương rẫy, vườn tược của các gia đình từ đồng bằng lên lập nghiệp cùng với rừng trồng. Những nhóm cư dân này lên định cư trong khoảng thời gian sau năm 1975. Khu dân cư đông nhất là thôn Trấm với hai xóm là Trấm Thượng và Trấm Hạ thuộc xã Triệu Thượng vốn có gốc từ làng Trâm Lý (Hải Quy). Khu vực phía trên công trình đầu mối thủy nông Nam Thạch Hãn, ở bờ tả ngạn còn có  thôn Tân Xuân - khu định cư được hình thành muộn hơn vào những năm sau 1980, do một nhóm dân làm nghề sông nước theo sông Thạch Hãn từ nhiều nơi đến sinh sống và hình thành nên xóm Lá; sau đó trở thành thôn Tân Xuân trên đất của thôn Thượng Phước, xã Triệu Thượng. Phía bờ hữu ngạn còn có một bộ phận cư dân của làng Như Lệ (Hải Lệ) di cư tiến về phía tây và hình thành nên thôn Tân Mỹ. Bên cạnh thôn Tân Mỹ còn có một bộ phận cư dân thôn Tân Lệ. Bộ phận cư dân thôn này nguyên trước năm 1980 định cư phía dưới Đập tràn. Sau khi mở dòng chảy Thạch Hãn băng qua tràn bằng việc xẻ mõm đồi Đá Đứng thì việc nắn dòng đã xói lở mạnh vào làng Tân Lệ nên nhóm dân này buộc phải di chuyển nơi cư trú dịch lên phía tây, trên công trình đầu mối, ở về phía nam hồ Đập Tràn; tức hữu ngạn Thạch Hãn.

Sông Thạch Hãn từ Trấm (công trình đầu mối thuỷ nông Nam Thạch Hãn) xuôi về Cửa Việt chảy qua địa phận thị xã Quảng Trị, huyện Triệu Phong, thành phố Đông Hà và huyện Do Linh.

Từ Trấm về đến hết địa phận thị xã Quảng Trị, trước 2008, sông Thạch Hãn giữ vai trò là đường ranh giới tự nhiên giữa huyện Hải Lăng và Triệu Phong; giữa Triệu Phong với thị xã Quảng Trị. Từ ngày 19-3-2008, do Nghị định số 31/NĐ-CP của Chính phủ, thị xã Quảng Trị được điều chỉnh lại. Theo đó, xã Hải Lệ huyện Hải Lăng giao về cho thị xã Quảng Trị quản lý; phường An Đôn được thành lập trên cơ sở làng An Đôn xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong thuộc về thị xã Quảng Trị. Vì thế, thị xã Quảng Trị từ chỗ chỉ nằm bên bờ hữu ngạn sông Thạch Hãn trở thành địa bàn có sông Thạch Hãn chảy xuyên qua. Sông Thạch Hãn từ chỗ là đường ranh giới giữa thị xã với huyện Triệu Phong trở thành dòng sông chảy qua giữa lòng đô thị. Phường An Đôn từ một làng nằm bên bờ tả nay nằm ở cả hai bên bờ sông.

Xã Hải Lệ vốn từ trước 2008 thuộc huyện Hải Lăng, có 5 làng/thôn là Tích Tường, Như Lệ, Phước Môn, Tân Lệ và Tân Mỹ. Ngoại trừ Phước Môn, còn 4 làng/thôn đều có tiếp giáp với sông Thạch Hãn. Hai thôn Tân Mỹ, Tân Lệ nằm trên công trình thủy nông; giữa là làng Như Lệ; dưới cùng là làng Tích Tường. Các làng này nguyên thuộc tổng Hoa La, huyện Hải Lăng (thời Hồ và thuộc Minh là huyện An Nhân; từ thời Lê là huyện Hải Lăng). Hai làng Tích Tường và Như Lệ là hai làng hình thành sớm nhất (nửa cuối thế kỷ XV) 3. Phường Phước Môn do Quận công - Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Hữu Bài lập ra vào thập niên 30 của thế kỷ XX. Hai Phường Tân Lệ và Tân Mỹ cũng được tách ra từ làng Tân Lệ trong khoảng thời gian này. 

Phường An Đôn nguyên là làng An Đôn, tổng An Đôn, huyện Đăng Xương/Thuận Xương (nay là xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong) được hình tiếp sau đó, từ thế kỷ XVI - XVII 4.

Phường I, II, III nguyên là làng Thạch Hãn (tên cổ là Thạch Hàn) và Trí Bưu (tên cổ là Cổ Bưu), thuộc tổng Hoa La, huyện Hải Lăng. Thạch Hãn là làng hình thành sớm từ nửa đầu thế kỷ XV 5, Trí Bưu hình thành sau đó ít lâu vào thế kỷ XVI 6. Nằm trải dọc theo sông Thạch Hãn có làng Thạch Hãn và vạn An Thành (hình thành đầu thế kỷ XX). Từ đất đai của hai làng Thạch Hãn và Trí Bưu, năm 1809, khi cho chuyển lỵ sở dinh Quảng Trị từ Trà Bát - Ái Tử về bên bờ tả ngạn của Thạch Hãn, Gia Long đã cho xây thành Quảng Trị và thiết lập ở đây một trung tâm hành chính, chính trị của một địa hạt nằm sát nách kinh đô Huế về phía bắc. Ngoại trừ phường III mới thành lập năm 2008, còn lại phường I và II là hai đơn vị hành chính gắn bó mật thiết với quá trình tồn tại và biến động của thị xã. 

Trên địa bàn huyện Triệu Phong, sông Thạch Hãn đi qua các xã Triệu Thượng, thị trấn Ái Tử, Triệu Ái, Triệu Giang (ở tả ngạn) Triệu Thành, Triệu Long, Triệu Thuận, Triệu Độ, Triệu Phước, Triệu An (ở hữu ngạn).

Xã Triệu Thượng có 9 làng/thôn. Trừ hai thôn Trấm và Tân Xuân ở phía thượng nguồn thì về phía hạ lưu có tất cả 7 làng/thôn, gồm: Thượng Phước, Nhan Biều 1, Nhan Biều 2, Nhan Biều 3, Xuân An, Tả Hữu, Trung Kiên; trong đó chỉ có làng Tả Hữu là không tiếp giáp sông. Nhan Biều (1, 2, 3) là làng hình thành sớm nhất của xã Triệu Thượng vào thế kỷ XV 7; tiếp sau có thêm làng Thượng Phước, làng Xuân An vào nửa đầu thế kỷ XVI 8. Làng Trung Kiên - một trong 5 cơ của quân đội nhà Chúa gọi là “ngũ kiên” hình thành muộn hơn (cuối XVII đầu XVIII). Các làng thuộc “ngũ kiên” không thấy chép trong PBTL. Làng Tả Hữu hình thành khá muộn vào cuối thế kỷ XIX trên cơ sở một xóm nhỏ của dân di cư từ làng Tả Hữu (Triệu Tài). Ngoài ra, còn có một xóm nhỏ nửa gọi là Đa Nghi hình thành từ một nhóm dân di cư từ làng Đa Nghi (Hải Ba) lên trong khoảng cuối thế XIX.

Các làng này thuộc tổng An Đôn, huyện Đăng Xương (Vũ Xương/Thuận Xương) nằm về phía tả ngạn của sông Thạch Hãn. Riêng làng Xuân An thì thời chúa Nguyễn thuộc tổng Hoa La của huyện Hải Lăng 9 nằm về phía hữu ngạn Thạch Hãn. Mãi đến thời Nguyễn mới thuộc tổng An Đôn của huyện Đăng Xương. Thôn Trung Kiên dưới thời Nguyễn còn thuộc tổng Bích La huyện Đăng Xương nằm cùng với các làng ở hữu ngạn sông Thạch Hãn. Như vậy, làng Xuân An và làng Trung Kiên nguyên ở bờ nam, sau mới chuyển sang bờ bắc sông Thạch Hãn. Căn cứ vào địa lý hành chính thì làng Xuân An chuyển trước còn Trung Yên chuyển sau. Điều này cho thấy nguyên nhân sự biến động này thuộc về sông Thạch Hãn.

Trước đây, trên khu vực tiếp giáp giữa làng Xuân An và Trung Yên với Tả Hữu có một làng nhỏ mang tên là làng Minh Hương (người Hoa), cư trú thành một dải hẹp theo chiều đông tây từ sông Thạch Hãn lên. Từ năm 1972, nhóm dân này phiêu tán chỉ còn một ít hộ gia đình nhập vào Trung Kiên, một hộ nhập vào Xuân An. Làng Minh Hương nay không còn tư cách là một đơn vị cư trú riêng nhưng các yếu tố văn hoá tín ngưỡng truyền thống thì vẫn được giữ gìn.

Thị trấn Ái Tử và xã Triệu Ái có tất cả 6 tiểu khu và 7 làng. Các tiểu khu thuộc về thị trấn, các làng thuộc về xã Triệu Ái. Xã Triệu Ái có các làng: Ái Tử, Hà Xá, Kiên Mỹ, Tân Phổ, Kiên Phước, Nại Hiệp, Trạng Sòi, Trung Long, Liên Phong. Sáu tiểu khu được gọi tên thứ tự bằng số.

Thị trấn Ái Tử nằm bên bở tả ngạn của sông Thạch Hãn là lỵ sở của huyện Triệu Phong, đựợc thành lập ngày 1-8-1994, theo Nghị định số 79-CP của Chính phủ trên cơ sở toàn bộ phường Giang Hến xã Triệu Giang, một phần của làng Ái Tử và một phần của làng Nhan Biều xã Triệu Thượng. Các tiểu khu 1, tiểu khu 2, tiểu khu 6 nguyên là đất của Tả Hữu và Nhan Biều, xã Triệu Thượng. Các tiểu khu 3, 4 và một phần của tiểu khu 2 nguyên là đất của làng Ái Tử xã Triệu Ái. Tiểu khu 5 nguyên là đất của phường Giang Hến xã Triệu Giang.

Trong số những làng thuộc xã Triệu Ái thì chỉ có Ái Tử là nằm sát sông Thạch Hãn. Các làng còn lại nằm bên bờ hữu ngạn sông Vĩnh Phước - một chi lưu của sông Thạch Hãn.

Ái Tử là một làng hình thành sớm vào thế kỷ XV 10; tiếp theo là Hà Xá, Giang Hến (tên cổ là Giang Hiến), Nại Hiệp (tên cổ là Cây Khế, sau đổi thành Hiệp Khế) vào thế kỷ XVI - XVII; muộn hơn là các làng Kiên Mỹ, Kiên Phước vào thế kỷ XIX thuộc tổng An Đôn, huyện Đăng Xương (Vũ Xương/Thuận Xương) 11. Các thôn Tân Phổ, Trạng Sòi hình thành đầu thế kỷ XX; các thôn Trung Phong, Liên Phong được hình thành từ khu kinh tế mới sau thập niên 60 của thế kỷ XX.

Ái Tử cùng với Trà Liên một thời từng là thủ phủ của chúa Nguyễn Hoàng (1858 - 1570) buổi đầu cát cứ, ly khai với nhà Trịnh - Mạc; đặt cơ sở nền tảng cho triều đại chúa Nguyễn và vua Nguyễn về sau. Ngoài ra, khu vực của làng Ái Tử cũng là nơi chúa Nguyễn đặt các đồn binh, kho tàng... suốt thời gian 68 năm (1558 - 1626). Từ năm 1801 - 1809, khi Gia Long cho đặt lỵ sở dinh Quảng Trị tại Trà Bát - Ái Tử thì một phần lớn các cơ quan hành chính quan trọng đều được thiết lập tại địa phận của làng Ái Tử.

Xã Triệu Giang có 6 thôn/làng: Phước Mỹ, Phú Áng, Tiền Kiên, Tả Kiên, Trà Liên Tây, Trà Liên Đông. Trước khi sáp nhập vào thị trấn Ái Tử, phường Giang Hến thuộc xã Triệu Giang. Các làng Trà Liên Tây, Tiền Kiên, Tả Kiên nằm sát tả ngạn Thạch Hãn; còn làng Trà Liên Đông nằm bên hữu ngạn Thạch Hãn. Làng Phước Mỹ (Phước Toàn) nằm bên sông Ái Tử - một chi lưu của sông Vĩnh Phước. Làng Phú Áng nằm bên bờ hữu của sông Vĩnh Phước. Các làng này trước đây đều thuộc tổng An Đôn, huyện Đăng Xương (Vũ Xương/Thuận Xương).

 Hai làng Trà Liên Đông và Trà Liên Tây vốn là một làng với tên Trà Bát (còn có tên là Trà Lễ, Trà Hương, sau đổi thành Trà Liên). Trà Bát và Phú Áng (tên cổ là Tiểu Áng) được hình thành sớm nhất vào thế kỷ XV 12. Các làng còn lại hình thành tiếp sau đó là Phước Mỹ (tên cổ là Phước Toàn) vào đầu thế kỷ XVI) 13, Tiền Kiên, Tả Kiên - hai trong 5 cơ của quân đội nhà Chúa vào cuối thế kỷ XVII, đầu XVIII.

Trà Bát là nơi hai lần được chúa Tiên Nguyễn Hoàng và chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên chọn để định đô từ 1570 - 1626. Dấu tích để lại liên quan đến thời chúa Nguyễn tập trung chủ yếu trên địa phận làng Trà Liên tây. Địa điểm hành cung của Chúa là cung Phúc Châu thuộc Dinh Cát cùng những cơ sở khác về sau được Gia Long sử dụng để đặt làm công đường của dinh Quảng Trị từ 1801 - 1809.

Xã Triệu Thành nằm bên hữu ngạn của sông Thạch Hãn. Trước khi sáp nhập với xã Triệu Đông vào xã Triệu Thành (Từ ngày ngày 17-12-2019, theo Nghị quyết số: 832/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam) thì các làng/thôn của xã này gồm có: Tân Đức, Cổ Thành, An Tiêm, Hậu Kiên. Ba thôn/làng Tân Đức, Cổ Thành và Hậu Kiên nằm ven sông Thạch Hãn; còn làng An Tiêm nằm hai bên bờ của sông đào Vĩnh Định - chi lưu Thạch Hãn. Cổ Thành là làng được hình thành sớm nhất vào thế kỷ XV 14; tiếp sau là làng An Tiêm vào đầu thế XVI, Hậu Kiên - một trong 5 cơ của quân đội chúa Nguyễn giải thể sau khi dinh Chúa chuyển vào Quảng Điền, Thừa Thiên, hình thành nên các làng Việt vào cuối thế kỷ XVII - XVIII. Thôn Tân Đức được hình thành bắt đầu từ thời Pháp, do một nhóm dân chài của vạn Tân Xuân và vạn Trọng Đức lên định cư ven sông Thạch Hãn, trên đất nguyên là của hai làng Cổ Thành và An Tiêm.

Điểm phát nguồn của sông Vĩnh Định từ sông Thạch Hãn là ở đầu làng Cổ Thành (bờ tả) và thôn Tân Đức (bờ hữu). Làng Cổ Thành nằm sát nách với làng An Tiêm và Thạch Hãn - nơi được chọn làm trung tâm hành chính, chính trị của Quảng Trị từ 1809. Tên làng Cổ Thành xuất hiện từ thế kỷ XVI, trong “Ô châu cận lục”. Tức là trước khi có thành Quảng Trị hơn 200 năm. Vì thế, địa danh này hoàn toàn không liên quan gì đến thành Quảng Trị thời Nguyễn, càng không gắn với lịch sử giai đoạn chúa Nguyễn mà phải ở vào thời điểm trước đó: thời Chăm. Khi nghiên cứu về các dấu tích thời chúa Nguyễn trong khu vực này, L. Cadière cho rằng các đạo quân thuộc các cơ Trung Kiên, Hậu Kiên “được lập trên vị trí của một cái đồn cũ của người Chàm mà do con sông lấn vào đất nên đã làm biến mất cái đồn này và tên làng Cổ Thành còn giữ được ký ức về nó”. Ông cũng cho biết thêm: “Tên của cái thành này là Cổ Thành dường như được nói đến trong một tấm bia bằng chữ Phạn được tìm thấy tại Nhan Biều: đó phải là Trivikramapura15. Dấu ấn về công trình đồn lũy này ngày nay không còn do sự xâm thực của sông Thạch Hãn nhưng lưu ảnh của nó vẫn để lại qua tên làng Cổ Thành và chợ Sãi - một thị tứ ven sông, trung tâm kinh tế nằm kề cận một trung tâm chính trị, quân sự, nơi tồn tại một toà thành cổ là thế.

Xã Triệu Long gồm 10 làng/thôn: Tân Định, Bích Khê, An Mô, Bích La Thượng, Đâu Kênh, Đại Lộc Thượng, Đại Lộc Trung, Phương Ngạn, Phù Lưu, Vệ Nghĩa. Nằm ven sông Thạch Hãn trải theo hướng đông nam - tây bắc từ trên xuống là các làng: Tân Định, Bích Khê, An Mô, Bích La Thượng, Đâu Kênh. Cuối làng Đâu Kênh là làng Trà Liên Đông của xã Triệu Giang. Cuối làng Trà Liên Đông là nơi hợp lưu của hói Thuận với sông Thạch Hãn. Bên kia hói Thuận là làng Đại Lộc (Đại Lộc A) và vạn Đại Lộc (Đại Lộc B) của xã Triệu Thuận. Các làng còn lại nằm phía nam của Hói Thuận hoặc ven nhánh sông cổ của Thạch Hãn từ Tân Định chạy xuyên qua Bích Khê, An Mô, Đại Lộc Thượng... Riêng Phương Ngạn thì không tiếp giáp với một chi lưu nào thuộc Thạch Hãn. Điều đáng nói là việc chia cắt làng Trà Liên thành hai phần: Trà Liên Đông (ở bờ hữu) và Trà Liên Tây (ở bờ tả) chứng tỏ có sự nắn dòng của sông Thạch Hãn.

Hai làng hình thành sớm nhất vào thế kỷ XV nằm ven sông Thạch Hãn thuộc xã Triệu Long là Bích Khê (tên cổ là Thương Mang, sau đổi thành Hồng Khê) và Đâu Kênh; đồng thời là các làng Phương Ngạn (tên cổ là Hoa Ngạn), Phù Lưu, Vệ Nghĩa (tên cổ là Nha Nghi) 16. Các làng này về sau thuộc tổng Hoa La huyện Hải Lăng.

Tiếp sau đó là làng Tân Định và Phù Lưu hình thành vào thế kỷ XVI - XVII). Nhưng làng Tân Định lại thuộc tổng An Cư, huyện Đăng Xương; còn làng Phù Lưu thì thuộc tổng Hoa La, huyện Hải Lăng 17. Điều này cho thấy nhiều khả năng sông Thạch Hãn đoạn này có sự chuyển dòng.

Làng An Mô hình thành muộn hơn vào cuối thế kỷ XVIII. Thôn Bích La Thượng được tách ra từ Bích La (xã Triệu Đông/Triệu Thành); thôn Đại Lộc Thượng, Đại Lộc Trung được tách ra từ làng Đại Lộc (xã Triệu Thuận) cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Bích La Thượng không cùng thời với 4 giáp của Bích La thời Nguyễn (gồm: Giáp Đông, Giáp Nam, Giáp Trung và Giáp Hậu) vì đến thời Đồng Khánh (1886 - 1888) Bích La Thượng cũng như Đại Lộc Thượng, Đại Lộc Trung vẫn không thấy chép trong “Đồng Khánh địa dư chí”.

Cần nói thêm là đến thế kỷ XIX, các làng của xã Triệu Long mới thuộc tổng Bích La/Hoa La (riêng Phương Ngạn thì thuộc tổng An Dã) huyện Đăng Xương (Triệu Phong) còn trước đó thuộc về huyện Hải Lăng.

Các làng thuộc xã Triệu Long dọc sông Thạch Hãn không có gì đặc biệt; nhưng các làng gắn với hói Thuận - một chi lưu của sông Thạch Hãn lại đáng được lưu ý. Làng Vệ Nghĩa (tên cổ là Nha Nghi/Nha Lỵ - nha môn, lỵ sở) chính là nơi tồn tại của thành Thuận Châu - trung tâm hành chính, chính trị, quân sự, kinh tế của cả vùng huyện Chu Ngô (thời Hán) châu Ô (thời Chăm), châu Thuận (thời Trần - Lê) trải từ đầu công nguyên đến trước thế kỷ XVI.

Xã Triệu Thuận gồm 8 làng/thôn: Dương Lộc, Dương Lệ Văn, Dương Lệ Đông, Phúc Lộc, Võ Thuận, Trúc Thuận, Đại Lộc A, Đại Lộc B. Làng Đại Lộc A (tức Đại Lộc Hạ - làng chính của Đại Lộc) nằm trải theo sông Thạch Hãn. Thôn Đại Lộc B (tức vạn Đại Lộc - gốc từ một vạn chài) nằm góc phía bắc Hói Thuận, ở đoạn tiếp lưu với sông Thạch Hãn. Làng Dương Lệ Văn nằm về phía nam, ở khu vực ngã ba đoạn sông Thạch Hãn phân nhánh lượn vòng về phía đông ôm bọc cồn nổi có tên dân gian là Cồn Rùng - nơi có đất canh tác của hai làng Dương Lộc, An Lợi (Triệu Độ) và toàn bộ đất đai, khu cư trú của thôn Trung Yên (Triệu Độ). Làng Dương Lộc nằm cả về hai phía của nhánh đông Thạch Hãn: khu cư trú nằm về phía bờ hữu, còn phía bờ tả trên cồn nổi là đất canh tác. Các làng Dương Lệ Đông, Phúc Lộc, Võ Thuận và Trúc Thuận nằm ven hói Thuận về phía bắc.

Các làng hình thành sớm nhất vào thế kỷ XV của xã Triệu Thuận là Phù Hoa (tức là hai làng Võ Thuận và Trúc Thuận hiện nay), Dương Lệ (gồm hai làng Dương Lệ Đông, Dương Lệ Văn hiện nay), Dương Chiếu (tức Dương Lộc) và Phúc Lộc. Đáng lưu ý là làng Phù Hoa thì thuộc huyện Vũ Xương còn Dương Lệ, Dương Chiếu và Phúc Lộc lại thuộc huyện Hải Lăng 18. Hình thành tiếp sau đó (thế kỷ XVI - XVII) là làng Đại Lộc (Đại Lộc Hạ, tức làng chính Đại Lộc). Cùng thời gian này, Dương Lệ bắt đầu hình thành hai giáp gọi là An Lệ nhị giáp (về sau thành hai làng); Phù Hoa chuyển thành Vũ Thuận (sau đó tách thành Vũ Thuận và Trúc Thuận). Các làng này từ trước thế kỷ XVIII đều thuộc tổng An Dã của huyện Hải Lăng 19. Đến thời Nguyễn mới thuộc tổng An Dã, huyện Đăng Xương/Thuận Xương. Vạn Đại Lộc được hình thành từ một nhóm dân chài làm nghề sông nước trên sông Thạch Hãn lên định cư trên dải đất bồi ven sông ở ngã ba nơi tiếp lưu của hói Thuận và Thạch Hãn thuộc đất làng Đại Lộc Hạ đầu thế kỷ XX; nhưng phải đến sau năm 1975 mới hình thành một đơn vị hành chính.

Trên khu vực các làng thuộc Triệu Thuận, ở phía bên bờ bắc của hói Thuận đối diện với thành Thuận Châu (Vệ Nghĩa - Triệu Long) là làng Đại Hào (Triệu Đại) và làng Phúc Lộc, nơi có chợ Thuận - một trung tâm kinh tế thương mại gắn bó mật thiết với lịch sử sinh thành và tồn tại của thành Thuận Châu trải từ đầu công nguyên đến thế kỷ XVI, XVII. Khu vực làng Dương Lệ Đông, dưới thời Chăm là trung tâm tôn giáo - thánh địa của toàn vùng châu Ô.

Xã Triệu Độ gồm 9 làng/thôn: An Lợi, Đồng Giám, Trung Yên, An Dạ, Gia Độ, Giáo Liêm, Xuân Thành, Qui Hà và Thanh Liêm. Các làng nằm ven sông Thạch Hãn từ trên xuống có: An Lợi, Đồng Giám, Trung Yên, An Dạ, Gia Độ và Quy Hà. Hai Làng Giáo Liêm và Xuân Thành nằm hai bên bờ của hói Giáo Liêm - một nhánh sông cổ của Thạch Hãn. Làng Thanh Liêm nằm sâu vào bên trong, giữa vùng đồng trủng như một ốc đảo, có một mặt phía đông giáp với nhánh sông Vĩnh Định (nối các làng của Triệu Hòa, Triệu Đại, Triệu Phước đổ vào Thạch Hãn ở Quy Hà).

Các làng nằm trải dọc theo cả hai nhánh trong lẫn ngoài của sông Thạch Hãn trên cùng, giáp với Dương Lộc (Triệu Thuận) là làng An Lợi. Làng này nằm cả về hai phía của nhánh đông Thạch Hãn: khu cư trú nằm về phía bờ hữu, còn phía bờ tả trên cồn nổi là đất canh tác. Làng Trung Yên nằm lọt thỏm giữa cồn nổi - Cồn Rùng, do hai nhánh sông trong và ngoài của Thạch Hãn bao bọc cả về ba phía. Dọc theo bờ hữu của nhánh trong sông Thạch Hãn tiếp theo làng An Lợi cho đến điểm gặp nhau của hai nhánh sông là làng Đồng Giám và An Dạ. Làng Gia Độ nằm trên bờ hữu của sông Thạch Hãn kéo từ khu vực ngã ba hợp lưu giữa sông Hiếu và sông Thạch Hãn, gọi là ngã ba Gia Độ (xưa gọi là ngã ba Dã Độ) cho đến điểm ngã 5, nơi hợp lưu giữa sông Thạch Hãn với hói Giáo Liêm, sông Vĩnh Định và cũng là nơi sông Thạch Hãn phân thành hai nhánh ôm bọc cồn nổi Bắc Phước (Triệu Phước). Thôn Quy Hà nằm cơ bản trên hai bờ của hói Giáo Liêm; chỉ có một phần doi đất thuộc xóm Quy Hà mới thì tiếp giáp với sông Thạch Hãn ở khu vực tiếp lưu và phân nhánh.

Bốn làng hình thành sớm nhất (thế kỷ XV) của xã Triệu Độ là An Lợi (tên cổ là An Toàn), Đồng Giám, Gia Độ (tên cổ là Dã Độ) và An Dạ (An Dã) 20. Hai làng được thành lập tiếp sau (thế kỷ XVI - XVII) là Giáo Liêm và Thanh Liêm. Các làng này đều thuộc tổng An Dã, huyện Hải Lăng 21.

Đến đầu thế kỷ XIX, giáp Trung phường Trung Yên được hình thành. Nhưng phường này lại thuộc tổng An Đôn, huyện Đăng Xương - một tổng gồm các làng nằm ở bờ tả của sông Thạch Hãn. Điều này cho thấy trước khi bị sông Thạch Hãn làm dịch chuyển sang bờ hữu ngạn thì làng Trung Yên vốn nằm bên bờ tả ngạn.

Làng Xuân Thành hình thành khá muộn trên vùng đất được bồi tụ do sông Thạch Hãn vốn trước đó thuộc làng Gia Độ và Giáo Liêm. Trên một cồn nổi được ôm bọc hai mặt đông và nam bởi hói Giáo Liêm nên gọi là làng Cồn. Nhóm dân này có gốc từ cư dân làm nghề sông nước ở làng Xuân Thành, phía bờ bắc sông Thạch Hãn (thuộc xã Do Việt nay) di cư sang đầu thế kỷ XX nhờ vào mối tương giao trước đó giữa người chị của Ngự sử Phan Thiệu Khanh làng Giáo Liêm lấy chống là Tiến sĩ Lê Phát ở làng Xuân Thành (Do Linh).

 Thôn Qui Hà hình thành từ những năm thập niên 70 (thế kỷ XX) do một nhóm dân chài sống trên vùng ngã 5 - nơi hợp lưu và phân dòng giữa sông Vĩnh Định, hói Giáo Liêm và sông Thạch Hãn định cư lên đất liền trên phần đất bồi tụ vốn thuộc làng Giáo Liêm. Ban đầu chỉ là một xóm nhỏ ở bờ bắc hói Giáo Liêm; sau năm 1973 thì có thêm một xóm nửa nằm ở bờ nam, nằm kẹp giữa hói Giáo Liêm và sông Vĩnh Định đổ vào Thạch Hãn. Từ đó mới có thôn Quy Hà.

 

Làng Quy Hà ven hói Giáo Liêm và sông Vĩnh Định (Ảnh Yến Thọ)

 

Xã Triệu Phước là địa bàn có nhiều sông, hồ, đầm - nơi có hai nhánh sông của Thạch Hãn, một nhánh của sông Vĩnh Định và con hói Thái Lai rộng lớn, ngoằn nghèo lan tỏa khắp vùng, tạo thành một vùng sông nước chập chùng. Về cơ bản, do sông Thạch Hãn phân thành hai nhánh đã chia địa bàn này thành hai khu vực:

+ Bắc Phước nằm giữa cồn nổi do hai nhánh sông Thạch Hãn ôm bọc với ba làng Dương Xuân, Duy Phiên và Hà La. Hai làng Dương Xuân và Hà La trải dọc theo bờ tả ngạn của sông Thạch Hãn nhánh nam; còn làng Duy Phiên thì về cơ bản nằm ven bờ hữu của sông Thạch Hãn nhánh bắc; bên kia sông là đất của huyện Do Linh.

+ Nam Phước nằm phía hữu ngạn của sông Thạch Hãn nhánh nam, gồm các làng: An Cư, An Lợi, Hà Lộc, An Cư phường, Phước Lễ, Nhu Lý, Vĩnh Lại, Cao Hy, Việt Yên và Lưỡng Kim. Nằm ven bờ hữu ngạn Thạch Hãn nhánh nam chỉ có An Cư phường, làng An Cư và Lưỡng Kim. Các làng Vĩnh Lại, Phước Lễ, Việt Yên nằm ven bờ hữu ngạn của nhánh sông Vĩnh Định chảy từ Bồ Bản xuống. Bên kia sông là các làng Quảng Điền, Hiền Lương, Phú Tài của xã Triệu Đại và Thanh Liêm, Giáo Liêm, Quy Hà của xã Triệu Độ. Làng Nhu Lý nằm giữa vùng đồng trủng như một ốc đảo, khu vực kẹp giữa sông Vĩnh Định với hói Thái Lai, không tiếp giáp với sông. Làng An Lợi được bao bọc ba phía bởi hói Thái Lai. Làng Hà Lộc nằm bên bờ tả của hói Thái Lai; mặt đông giáp với hói Lệ Xuyên đổ ra sông Thạch Hãn; bên kia là làng Tường Vân (Triệu An).

Ba làng hình thành sớm nhất (thế kỷ XV) của xã Triệu Phước là Duy Phiên thuộc châu Minh Linh (Gio Linh nay) và An Cư, Việt Yên (tên cổ là An Việt) thuộc huyện Vũ Xương 22. Các làng được thành lập tiếp sau đó (thế kỷ XVI - XVII) là Nhu Lý (tên cũ là Nho Lý ), Lưỡng Kim (tên cũ là Lưỡng Toàn), Cao Hy (tên cũ là Hạo Hy), Phước Lễ (Phúc Lễ), Vĩnh Lại (tên cũ là Khang Vĩnh, sau đổi thành Lại Mông) 23. Hai phường Dương Xuân và An Lợi được hình thành từ thời Nguyễn. Các làng, thôn, phường này đều thuộc tổng An Cư huyện Đăng Xương.

Hai thôn Hà La, Hà Lộc được hình thành khá muộn vào đầu thế kỷ XX. Thôn Hà La hình thành từ một xóm gọi là xóm Hà La vốn từ dân gốc của làng Lưỡng Kim. Thôn Hà Lộc được hình thành từ một vạn chài gốc từ làng Hà Lộc bên bờ bắc của sông Thạch Hãn (Gio Linh) sang. Phường An Cư hình thành từ nhóm dân cư chài gốc ở Quy Thiện (Hải Quy) và An Lợi (Do Việt) trên đất của làng An Cư và làng Việt Yên từ sau Cách mạng Tháng Tám.  

Điều đáng nói là việc làng Duy Phiên nằm trên cồn Bắc Phước hiện nay, nguyên trước thuộc tổng An Mỹ, châu Minh Linh; đến thời Nguyễn (cuối thế kỷ XIX) vẫn thuộc đơn vị hành chính của tổng An Mỹ huyện Gio Linh 24 cho thấy địa giới của huyện Đăng Xương (Triệu Phong) trước thế kỷ XX chỉ đến bờ hữu ngạn của sông Thạch Hãn nhánh nam.

Xã Triệu An gồm các thôn/làng: Tường Vân, Phú Hội, Hà Tây, An Lợi, Thanh Xuân. Xã Triệu An vốn từ trước năm 1981 thuộc xã Triệu Vân. Ngày 17-9-1981, theo Quyết định số 73-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, xã Triệu Vân được chia thành hai xã, lấy tên là xã Triệu Vân và xã Triệu An. Xã Triệu An là địa bàn tiếp giáp với biển, nơi có cửa biển Việt Yên (tức Cửa Việt) - đoạn cuối cùng của sông Thạch Hãn đổ vào biển Đông. Các làng có địa giới tiếp giáp với sông Thạch Hãn là Tường Vân, Phú Hội và Hà Tây. Làng Tường Vân nằm bên bờ hữu sông Thạch Hãn, ở điểm hợp lưu giữa sông Thạch Hãn nhánh nam và sông Thạch Hãn nhánh bắc; phía đông tiếp giáp với bờ tả nhánh sông có tên là sông Cụt; hai mặt tây và bắc của làng giáp sông Thạch Hãn. Hai làng Phú Hội và Hà Tây nằm trải dọc theo bờ hữu của sông Cụt; phía đông giáp biển; phía bắc giáp sông Thạch Hãn và cũng chính là Cửa Việt. Làng An Lợi và Thanh Xuân không giáp với sông Thạch Hãn nhưng nằm kề cận vùng phía đông, nơi có hói Lệ Xuyên và Hói Thái Lai đổ ra sông Thạch Hãn.

Hai làng hình thành sớm nhất vào thế kỷ XV của xã Triệu An là Hà Tây (tên cổ là Hà Bá) thuộc huyện Hải Lăng và Tường Vân (tên cổ là Vân Động) thuộc huyện Vũ Xương 25. Làng Phú Hội (tên cổ là Phụ Lũy, sau đổi thành Phó Hội) hình thành khoảng thế kỷ XVII. Từ đây, các làng này đều thuộc huyện Đăng Xương 26. Điều này cho thấy suốt từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII, nhánh sông Cụt đổ ra Thạch Hãn ở Cửa Việt là ranh giới giữa hai huyện Hải Lăng và Vũ Xương/Đăng Xương. Cửa Việt trong thời gian này thuộc huyện Hải Lăng; sau mới thuộc huyện Đăng Xương/Triệu Phong.

Thôn An Lợi - một làng sinh sống bằng nghề đánh bắt thuỷ sản trên sông vừa làm nghề biển không thể có thời điểm hình thành quá muộn sau năm 1973 như người dân vẫn nghĩ mà hẳn là đã hình thành sớm từ trước thế kỷ XVIII, trên đất đai của làng Tường Vân (cũng giống phường Phụ Luỹ hình thành trên đất của Hà Tây vậy). Phường An Tục có lẽ là tên cổ của thôn này. Sau đó, vì vừa xa biển, lại vừa do sông bồi lắng đã đẩy làng này vào sâu bên trong, xa sông nên việc làm nghề ngư không thuận lợi; và chính điều đó đã làm cho làng này có sự biến động cả về địa lý lẫn lịch sử.

Thôn Thanh Xuân được hình thành từ một nhóm dân vạn chài làm nghề sông nước dọc theo sông Thạch Hãn, hói Thái Lai, Vĩnh Định lên định cư trên bờ sau năm 1975 và hình thành nên một đơn vị dân cư như hiện nay. 

Sông Thạch Hãn đi qua khu vực thành phố Đông hà trên địa phận 2 phường Đông Lương và Đông Lễ (ở tả ngạn). Đoạn này sông Thạch Hãn giữ vai trò là đường ranh giới hành chính giữa thành phố Đông Hà với huyện Triệu Phong.

Phường Đông Lương có 8 khu phố, gồm: khu phố Trung Chỉ, khu phố Ðại Áng, khu phố Vĩnh Phư­ớc, khu phố Lai Ph­ước, khu phố Tân Vĩnh, khu phố 1, khu phố 2 và khu phố 3. Các khu phố có địa giới tiếp giáp với sông Thạch Hãn của phường Đông Lương nguyên là các làng Vĩnh Phư­ớc, Ðại Áng, Trung Chỉ. Hai khu phố Lai Ph­ước và Tân Vĩnh nằm dọc theo tả ngạn của sông Vĩnh Phước. Khu phố Vĩnh Phước (nguyên là làng Vĩnh Phước), nằm ở phía bắc ngã ba Vĩnh Phước - nơi sông Vĩnh Phước hợp lưu với sông Thạch Hãn và trải dài theo bờ tả ngạn sông Vĩnh Phước. Các khu phố Đại Áng (nguyên là làng Đại Áng), Trung Chỉ (nguyên là làng Trung Chỉ) nằm ven sông Thạch Hãn kế tiếp Vĩnh Phước về phía bắc.

Bốn làng hình thành sớm vào nửa đầu thế kỷ XV là Vĩnh Phư­ớc (tức Vĩnh Phúc), Ðại Áng (tên cổ là Thiên Áng), Trung Chỉ, Lai Phước (tên cổ là Lai Cách) thuộc huyện Võ Xương 27 (về sau thuộc tổng An Đôn, huyện Đăng Xương). Làng Tân Vĩnh được hình thành rất muộn vào đầu thế kỷ XX, trên cơ sở của một nhóm dân nhiều nơi từ Hải Lăng, Triệu Phong lên canh tác, lập vườn đặt tên là phường Mộ ở phía bắc nguồn Vịnh (sông Vĩnh Phước); sau đó hợp cùng nhóm dân cư từ làng Vân Hoà (Triệu Hòa) lên lập nên xóm Vân Vĩnh phía nam nguồn Vịnh vào cuối thế kỷ XIX để thành lập phường Tân Vân Vĩnh; sau đổi thành Tân Vĩnh (1968). Các khu phố 1, 2 được thiết lập trên đất nguyên là của làng Trung Chỉ; khu phố 3 được thiết lập trên đất nguyên là làng Vĩnh Phước, Đại Áng từ sau năm 1997.

Phường Đông Lễ có 10 khu phố; trong đó có 4 khu phố gọi theo số là: khu phố 1, khu phố 2, khu phố 3 và khu phố 4; có 6 khu phố được gọi bằng chữ là: khu phố Lập Thạch, khu phố Phú Lễ, khu phố Lạng Ph­ước, khu phố Vân An, khu phố Lư­ơng An, khu phố Phương Gia. Khu phố có địa giới tiếp giáp với sông Thạch Hãn của phường Đông Lễ chỉ có khu phố Lập Thạch (nguyên là làng Lập Thạch). Hai khu phố Phú Lễ (nguyên là làng Phú Lễ) và Lạng Ph­ước (nguyên là làng Lạng Phước) nằm ven một nhánh sông có tên là Rào Con - một chi lưu của sông Hiếu và cũng là nhánh sông cổ nối sông Thạch Hãn và sông Hiếu. 

Làng hình thành sớm nhất (nửa đầu thế kỷ XV) trên địa bàn phường Đông Lễ là Lang Da (bao gồm cả Phương Da, Lập Thạch và Vân An ngày nay) thuộc huyện Vũ Xương 28. Đến thế kỷ XVII, làng Lang Da tách thành Phương Lương (thời Nguyễn mới mang tên Phương Da), Lập Thạch và Vân An; đồng thời có thêm hai làng nữa được hình thành là Phú Lễ (tên cổ là Phú An), Lạng Ph­ước (tên cổ là Lãng Phúc) 29. Làng Lương An hình thành muộn hơn dưới thời Nguyễn. Các làng này đều thuộc tổng An Đôn, huyện Đăng Xương.

Sông Thạch Hãn đi qua khu vực huyện Do Linh thuộc các địa bàn các xã Gio Quang, Gio Mai, Gio Việt, thị trấn Cửa Việt (ở tả ngạn) sau khi hợp lưu với sông Hiếu ở ngã ba Gia Độ/Dã Độ để đổ ra biển qua Cửa Việt. Đoạn này, sông giữ vai trò là đường ranh giới hành chính giữa hai huyện Gio Linh và Triệu Phong.

 Xã Gio Quang gồm có 5 thôn/làng: Kỳ Trúc, Trúc Lâm, Kỳ Lâm, Vinh Quang Thượng và Vinh Quang Hạ. Trước đây có làng Phước Sa, sau giải phóng khoảng năm 1978 - 1979 do hoàn cảnh khó khăn nên bộ phận dân cư của làng này di cư vào Hàm Tân (Bình Thuận); một số hộ còn lại sáp nhập vào làng Trúc Lâm (4 hộ). Tên làng nay không còn, đất đai thuộc xã quản lý (nằm trong khu vực quy hoạch sân bay). Hai làng có địa giới tiếp giáp với sông Thạch Hãn là Vinh Quang Thượng và Vinh Quang Hạ. Các làng Kỳ Trúc, Trúc Lâm, Kỳ Lâm nằm gần hói Trúc Khê (còn gọi là Hói Tre) - môt chi lưu và cũng là nhánh sông cổ thuộc sông Hiếu. Hói Tre chính là đường ranh giới giữa châu Ô/Thuận và châu Ma Linh/Minh Linh thời Trần.

Ba làng hình thành sớm nhất của xã Gio Quang vào đầu thế kỷ XV là Trúc Lâm, Vinh Quang Thượng (tên cổ là Sùng Hoa Thượng) và Vinh Quang Hạ (tên cổ là Sùng Hoa Hạ) 30. Hai làng Kỳ Trúc và Kỳ Lâm hình thành tiếp sau vào khoảng thế kỷ XVI - XVII 31. Các làng này đều thuộc tổng An Xá, châu Minh Linh.

Xã Gio Mai có ba thôn/làng: Mai Xá Chánh, Mai Xá Thị và Lâm Xuân. Làng Mai Xá Chánh nằm trải dài ven sông Thạch Hãn (cả hai nhánh trong và ngoài). Làng Mai Xá Thị nằm lọt giữa làng Mai Xá Chánh, ven bờ tả của sông Thạch Hãn nhánh trong; từ góc phía tây nơi ngã ba hợp lưu giữa sông Cánh Hòm và sông Thạch Hãn nhánh Mai Xá ngược lên. Làng Lâm Xuân trải dọc về phía tây theo sông Cánh Hòm.

Hai làng hình thành sớm nhất của xã Gio Mai vào đầu thế kỷ XV là làng Mai Xá (tức Mai Xá Chánh - Mai Xá nông nghiệp) và Xuân Lâm (tên cổ là Lâm Cùng) 32. Làng Mai Xá Thị chính thức trở thành một đơn vị hành chính trong khoảng thế kỷ XVII. Các làng này thuộc tổng An Mỹ, huyện Minh Linh 33.

Xã Gio Việt hiện có 5 thôn/làng: Tân Xuân (nguyên là các thôn/làng Tân Xuân, Đại Lộc, Bạch Câu); Xuân Ngọc (nguyên là các thôn/làng Xuân Khánh, Xuân Mỵ, Mỹ Ngọc), Xuân Lộc (nguyên là Bạch Lộc), Xuân Tiến (tức Bác Vọng) và Hoàng Hà. Những làng này được sáp nhập lại để phù hợp với các đơn vị hành chính từ sau 2005; còn trước đó chỉ có các làng chính: Hoàng Hà, Bạch Lộc, Bạch Câu, Đại Lộc, Tân Xuân, Ngọc Giáp (tức Xuân Khánh, sau thêm Xuân Mỵ, Mỹ Ngọc), Bác Vọng. Các thôn/làng Tân Xuân, Xuân Ngọc, Xuân Lộc, Xuân Tiến đều sinh sống bằng nghề đi biển nên nằm ven sông Thạch Hãn, phía nam đường Xuyên Á trải dọc từ phía tây xuống; trong đó chỉ có Tân Xuân (cũ) là không giáp sông mà tiếp giáp với vùng sác Tân Xuân - Mai Xá, một vùng đầm phá cổ. Làng Hoàng Hà nằm phía bắc đường Xuyên Á, hiện không sinh sống bằng nghề đi biển.  

Làng hình thành sớm nhất của xã Gio Việt vào đầu thế kỷ XV là Bạch Lộc (tên cổ là An Bạch) 34. Ngoài ra, trên một phần dải đất của xã Do Việt hiện tại thuộc đất của làng Diêm Hà (sau chia ra thành Diêm Hà Hạ). Làng hình thành tiếp sau vào thế kỷ XVI - XVII là Hoàng Hà, Bạch Câu, Đại Lộc, Ngọc Giáp (tức Xuân Ngọc), Tây Giáp (có lẽ là Tân Xuân) 35. Các làng này đều thuộc tổng Yên Mỹ, huyện Gio Linh. Việc chia tách chỉ xảy ra những thập niên giữa thế kỷ XX, còn về cơ bản các làng biển này đã hình thành từ trước thế kỷ XIX. Riêng phường Bác Vọng hình thành muộn sau nửa cuối thế kỷ XIX.

Thị trấn Cửa Việt được hình thành năm 2005 trên một phần đất của xã Gio Hải và xã Gio Việt. Hiện có 8 khu phố được gọi tên bằng số. Các khu phố 1, 2, 3 nguyên là đất của làng Long Hà; khu phố 4 nguyên là đất của thôn Đại Lộc (trước đó là của Xuân Thành); khu phố 5 nguyên là đất của thôn Tân Lợi; khu phố 6 nguyên là đất của thôn Xóm Vụng; khu phố 7 nguyên là đất làng Hà Lộc, tức là khu vực bãi tắm Cửa Việt; khu phố 8 nguyên là đất của làng An Trung. Các thôn/làng/khu phố sinh sống chủ yếu bằng nghề đánh cá biển nên nằm ven sông Thạch Hãn hoặc ven biển. Phía nam đường Xuyên Á trải dọc từ phía tây xuống theo thứ tự là: Long Hà, Đại Lộc, Tân Lợi, Xóm Vụng và cuối cùng là cảng Cửa Việt. Bên kia đường xuyên Á là Hà Lộc, An Trung (còn có một phần của làng Diêm Hà, xã Gio Hải) và khu bãi tắm Cửa Việt.

Làng hình thành sớm nhất của thị trấn Cửa Việt hiện nay là Hà Lộc (tên cổ là An Lộc), An Trung (tên cổ là Trung An), Long Hà (tên cổ có lẽ là Trù Cương) vào khoảng thế kỷ XV - XVII 36. Đại Lộc vốn hình thành từ một nhóm dân của làng Đại Lộc của Gio Việt xuống sau khi nhóm dân của Xuân Thành (một phường hình thành thế kỷ XVIII) di cư sang bờ nam (nay là Xuân Thành của xã Triệu Độ) vào năm 1966. Tân Lợi là một phường được hình thành sau năm 1975. Xóm Vụng vốn trước khi thành lập thị trấn Cửa Việt là một xóm của làng Hà Lộc.

Như vậy, rõ ràng quá trình hình thành các làng xã trên đôi bờ Thạch Hãn là một tiến trình đầy khúc khuỷu theo dòng chảy lịch sử và dòng chảy của chính con sông này! Sự biến động, chuyển dịch của dòng chảy Thạch Hãn đã tác động và chi phối rất lớn đến sự ra đời, hình thành, phát triển và chuyển đổi không chỉ tên đất, tên làng mà còn thay đổi cả phạm vi, quy mô về diện tích dân số và các yếu tố văn hóa đi kèm. Dòng chảy Thạch Hãn là dòng thời gian, thời cuộc, dòng chảy của lịch sử, văn hóa - nơi chứa chất tiềm năng và hy vọng của quá khứ, hiện tại và tương lai./.

                                                                                                              Yến Thọ

 

            Chú thích

      1, 4, 6, 8, 9, 11, 13, 17, 19, 21, 23, 26, 29, 31, 33, 35, 36. Lê Quý Đôn. Phủ biên tạp lục. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội, 1977, tr. 80, tr. 81, tr. 82.

      2, 24. Quốc sử quán triều Nguyễn. Ðồng Khánh địa dư chí lược. Bản dịch của Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin, tr. 1385, tr. 1381.

      3, 5, 7, 10, 12, 14, 16, 18, 20, 22, 25, 27, 28, 30, 32, 34. Dương Văn An. Ô châu cận lục. Văn Thanh và Phan Đăng dịch và chú giải. Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2009, tr. 47, tr. 48, tr. 55, tr. 56, tr. 57.

      15. L. Cadière: Les Residence des Rois de Cochinchine (An Nam) avant Gia Long (Dinh phủ các chúa Đàng trong trước Gia Long). B.E.O.F.E.O, 1916, tr. 113.

&&&

Bài đăng trên Trung tâm Quản lý Di tích và Bảo tàng Tỉnh Quảng Trị

Cập nhật ngày: 4/19/2023 7:17:25 PM

 

            Chú thích

      1, 4, 6, 8, 9, 11, 13, 17, 19, 21, 23, 26, 29, 31, 33, 35, 36. Lê Quý Đôn. Phủ biên tạp lục. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội, 1977, tr. 80, tr. 81, tr. 82.

      2, 24. Quốc sử quán triều Nguyễn. Ðồng Khánh địa dư chí lược. Bản dịch của Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin, tr. 1385, tr. 1381.

      3, 5, 7, 10, 12, 14, 16, 18, 20, 22, 25, 27, 28, 30, 32, 34. Dương Văn An. Ô châu cận lục. Văn Thanh và Phan Đăng dịch và chú giải. Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2009, tr. 47, tr. 48, tr. 55, tr. 56, tr. 57.

      15. L. Cadière: Les Residence des Rois de Cochinchine (An Nam) avant Gia Long (Dinh phủ các chúa Đàng trong trước Gia Long). B.E.O.F.E.O, 1916, tr. 113.

 

 

READ MORE - QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CÁC LÀNG XÃ VEN BỜ THẠCH HÃN NHÌN TỪ SỰ TÁC ĐỘNG VÀ BIẾN ĐỔI ĐỊA CUỘC DÒNG SÔNG -Yến Thọ

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH LÀNG XÃ CỦA NGƯỜI VIỆT TRÊN VÙNG ĐẤT QUẢNG TRỊ TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ -Trịnh Cao Nguyên

 

Đường từ chợ Phương Lang về Gia Đẳng. Ảnh: Phạm Đình Quát

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH LÀNG XÃ CỦA NGƯỜI VIỆT 
TRÊN VÙNG ĐẤT QUẢNG TRỊ TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ

Trịnh Cao Nguyên

Trung tâm Quản lý Di tích và Bảo tàng Tỉnh Quảng Trị
3/22/2023 

Đặt vấn đề

Trong diễn trình phát triển của lịch sử xã hội thì mỗi vùng đất, mỗi địa dư đều có một quá trình hình thành, tồn tại và phát triển. Dải đất dặm dài của miền Trung trong đó có địa bàn tỉnh Quảng Trị cũng không nằm ngoài quy luật của sự vận động đó. Lịch sử của vùng đất này là cả một quá trình phát triển liên tục và trải qua rất nhiều giai đoạn. Từ buổi sơ khai đi mở cỏi, đấu tranh, chuyển quyền cai quản cương vực lãnh thổ cho đến khi định hình xóm làng, phường hiệu là cả một chặng đường dài đầy bi thương nhưng rất đổi hào hùng của dân tộc. Vó ngựa trường chinh đi qua thì song hành với đó là sự ra đời của làng xã trở thành như một lẽ tất yếu. Và trên thực tế, sự có mặt của làng xã người Việt ở vùng đất Quảng Trị cũng được phát xuất trong hoàn cảnh như vậy.

Để có thể nhận diện rõ quá trình hình thành làng xã người Việt ở vùng đất Quảng Trị trong quá khứ thì trước hết phải đặt trong mối quan hệ so sánh với bối cảnh chung của tiến trình phát triển lịch sử xã hội suốt cả một hành trình lịch sử trên bước đường thiên di về phương nam của dân tộc. Dựa trên những cuộc đại di dân, di dân tập trung có chủ trương và di dân tự do đã từng diễn ra trong lịch sử.

 

Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến quá trình nhập cư của người Việt lên vùng đất Quảng Trị

Xét về hoàn cảnh lịch sử dẫn đến các cuộc nhập cư để rồi hình thành nên các làng xã người Việt ở Quảng Trị phải được nhìn nhận nguyên cơ bắt đầu từ thời Tiền Lê (984 - 988). Vào thời điểm này, khi mà quốc gia Đại Việt ở phía bắc trở nên lớn mạnh, nền độc lập nước nhà ngày càng được cũng cố thì ý đồ nới rộng lãnh thổ về phương nam nhằm mở mang bờ cỏi bắt đầu nảy sinh. Cũng từ đây, những cuộc giao tranh giành giật đất đai giữa hai quốc gia Việt - Chăm thường xuyên xuất hiện. Đặc biệt là dưới thời nhà Lý (1010 - 1225), tháng 2-1069, vua Lý Thánh Tông sai Lý Thường Kiệt thân chinh đem theo 5 vạn quân tiến đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Chế Củ (Yan Cri Rudravarman/Rudravarman IV). Để bảo toàn tính mạng, Chế Củ đã xin dâng 3 châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh cho Đại Việt.

Từ đây, một phần đất cực bắc của người Chăm đã thuộc về quyền cai trị của người Việt trong đó có địa bàn phía bắc tỉnh Quảng Trị, từ bờ bắc sông Hiếu trở ra, trực thuộc châu Ma Linh (bao gồm huyện Vĩnh Linh và Gio Linh ngày nay). Sau đó nhà vua đổi châu Địa Lý thành châu Lâm Bình, châu Ma Linh thành châu Minh Linh. Chính thức xuống chiếu chiêu mộ nhân dân đến ở, định đặt lại việc tổ chức, cai trị. Chiếu chiêu mộ dân này là một văn kiện quan trọng trong lịch sử của nước ta, đặt nền móng đầu tiên cho cuộc trường chinh tiến về phương nam mà dân tộc ta đã theo đuổi suốt 6 - 7 thế kỷ về sau này.

Sang đời nhà Trần, năm 1306, sau đám cưới của công chúa Huyền Trân với vị vua Chămpa là Chế Mân. Cuộc hôn nhân mà lịch sử thường nhắc đến này xét cho cùng thực chất là một nước cờ nhuốm màu sắc chính trị đã được nhà Trần định sẵn để đổi lấy món quà sính lễ là phần đất hai châu Ô, Lý. Từ thời điểm này, phần đất phía nam tỉnh Quảng Trị thuộc về lãnh thổ của Đại Việt, mở ra một bước đi tiếp theo trên hành trình nam tiến của người Việt trong lịch sử. Vua Trần Anh Tông đổi tên Ô Châu thành Thuận Châu gồm phần đất phủ Triệu Phong, huyện Hải Lăng (Quảng Trị), huyện Phong Điền, huyện Quảng Điền, huyện Hương Trà (Thừa Thiên) ngày nay; và đổi Châu Lý thành Hóa Châu gồm phần đất huyện Phú Lộc, huyện Phú Vang (Thừa Thiên), huyện Hòa Vang, huyện Đại Lộc, phủ Điện Bàn, phủ Duy Xuyên (Quảng Nam) ngày nay. Thời điểm này dòng người Việt trên bước đường vào nam bắt đầu vào đến Thừa Thiên và địa đầu tỉnh Quảng Nam.

Đến thời nhà Hồ (1400 - 1401), Lê Quý Ly ngay sau khi lên ngôi đã thực hiện ngay kế hoạch xâm chiếm Chiêm Thành nhằm xoa dịu dư luận xã hội lúc bấy giờ đang dị nghị và buộc tội mình về việc thoán đoạt ngôi vị. Ông bắt vua Chăm phải nhường đất và hạ lệnh cho dân cư từ phía bắc vào làm ăn sinh sống.

Tiếp đến thời Hậu Lê, niên hiệu Hồng Đức năm thứ nhất (1470), vua Lê Thánh Tông xuống chiếu thân chinh đi đánh Chiêm Thành. Vương triều Vijaya dần dần kiệt sức và cuối cùng đã bị sụp đổ. Nhà Lê mở rộng biên giới Đại Việt vào tận Phú Yên - chấm dứt sự tồn tại của vương quốc Chămpa. Sau đó thực hiện việc hoạch định lại đất đai, đặt định quan chế và tiến hành chiêu mộ dân đinh đến định cư làm ăn sinh sống. Đây là cuộc đại di dân lớn nhất trong lịch sử của người Việt tiến về phương nam, trong đó có sự hình thành các làng xã trên vùng đất Quảng Trị.

Những năm tháng tiếp theo về sau này, khi Nguyễn Hoàng vào đảm trách nhiệm vụ trấn thủ vùng Thuận Hóa. Trên bước đường chạy trốn khỏi lưỡi gươm oan nghiệt của người anh rễ Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng cũng đã kịp nuôi nấng và mang theo một hoài bảo thật lớn lao, đó chính là ý đồ cát cứ. Bằng tài năng và đức độ, cộng với những danh vọng lớn lao của mình nên trong quá trình từ đất bắc vào Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng đã được nhiều người ủng hộ hưởng ứng, hòa chung trong đoàn tùy tùng đi vào vùng đất mới để lập nghiệp.

Đó là những hoàn cảnh lịch sử dẫn đến các cuộc nhập cư của người Việt về phía nam trong đó có địa bàn tỉnh Quảng Trị ngày nay. Xét về động lực di dân thì phần lớn là do chủ trương điều phối nhân lực của nhà nước, được thể hiện qua các cuộc đại di dân, di dân tập trung có tổ chức và quy mô, dựa trên lời kêu gọi của nhà nước. Đó là vào các năm 1069, 1104, 1252, 1306, 1402, 1430, 1434, 1444, 1446, 1471, 1558, 1648. Tuy nhiên, nhìn trên phương diện tổng thể và lâu dài thì công cuộc di dân khai khẩn vùng đất mới vẫn mang tính tự động và tự phát nhiều hơn. Bên cạnh những đợt chuyển cư theo chiếu lệnh của nhà vua mang tính nhà nước, có quan binh lo về an ninh và phần nào có trợ cấp ban đầu của chính quyền là quá trình di cư lẻ tẻ, thưa thớt và rời rạc của từng nhóm nhỏ, thậm chí là từng gia đình, từng người một. Qua thời gian số lượng ngày một đông lên và hình thành nên các làng xã nối dài trên dải đất miền Trung nói chung và Quảng Trị nói riêng.

 

Quá trình hình thành làng xã của người Việt trên vùng đất Quảng Trị trong tiến trình lịch sử

Song hành với các đợt di dân là sự hình thành của các xã/làng. Các xã/làng người Việt có mặt trên địa bàn tỉnh Quảng Trị ngày nay cũng bắt đầu được định hình trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể như vậy. Trên thực tế, có thể nhận định rằng cuộc nhập cư đầu tiên của người Việt lên vùng đất Quảng Trị để rồi hình thành nên các xã/làng được diễn ra dưới thời nhà Lý. Bắt đầu từ mốc thời điểm này đã thiết lập nên một hệ thống làng mạc ở ven các vùng đồi đất đỏ bazan, các vùng thung lũng thấp, ven sông và ven biển thuộc phía bắc sông Minh Lương/Hiền Lương, tức là toàn bộ vùng đất Vĩnh Linh ngày nay. Tuy nhiên, ở giai đoạn này tên gọi của các làng/xã không được chính sử biên chép lại.

Đến cuối thời Trần, suốt thời nhà Hồ và thời thuộc Minh, những làng xã người Việt tiếp theo được thiết lập lên vùng phía đất Quảng Trị và tiến dần về phía nam. Từ sau năm 1306, từ bờ nam sông Hiếu trở vào, các xã/làng của người Việt bắt đầu xuất hiện.

Dưới thời Lê - Mạc, từ năm Quang Thuận thứ 10 (1469), sau khi vua Lê Thánh Tông cho định lại bản đồ của các phủ, châu, huyện, xã, trang sách thuộc 12 thừa tuyên trong cả nước. Địa giới tỉnh Quảng Trị ngày nay lúc bấy giờ thuộc trấn/phủ/lộ Thuận Hoá (Thừa tuyên Thuận Hoá), bao gồm châu Minh Linh (thuộc phủ Tân Bình) và các huyện Võ Xương, Hải Lăng (thuộc phủ Triệu Phong). Trong giai đoạn này, một số lượng lớn các xã/làng đã có mặt và được Dương Văn An thống kê rất rõ trong sách Ô Châu Cận Lục (1555). Theo đó, châu Minh Linh có tất cả 65 xã/làng gồm Tùng Công (Huỳnh Công), Tân Sài (Tân Trại thượng, hạ), Minh Ái (Minh Lương/Hiền Lương), Lân Trì (Đan Thầm), Cổ Trai, Tùng Luật, Đan Duệ, Tang Ma (Gia Lâm), Lâm Sài (Phúc Lâm), Sa Lung, Hàm Hòa, Hồ Xá, An Điền (An Do/Du Nam, An Do/Du Đông), Thượng Lập, Trung Lập, Lai Cách, Mô Nham, Thạch Ma (Thạch Tuyền/Thạch Bàn), Cổ Hiền, Tiên Trạo, Võ Tá (Mỹ Tá), Phan Xá, Hoàng Xá Thượng (Huỳnh Thượng), Huỳnh Xá Hạ (Huỳnh Hạ), Nguyễn Xá (Quảng Xá), Lâm Cao, Tử Lai (Tiên Lai), Đặng Xá, Duy Viên, Lại Xá, Thủy Ba Thượng (Thủy Ba Tây, Thủy Ba Đông), Thủy Ba Hạ, Vũ Xá/Võ Xá, Kinh Môn, Bùi Xá (An Xá), Lễ Môn, Cao Xá, Gia Môn, Hương Gia (Lan Đình), Lại Phúc, Phúc Thị (Phước Thị), Hà Lạc Thượng (Hà Thượng, Lạc Tân), Hà Lạc Hạ (Hà Trung, Hà Thanh), Hy Nguyễn (Hạo Hy/Cao Hy), Trí Tuyền (Phước Tuyền/Phước Toàn/Phước Mỹ), Trúc Lâm, Sùng Hoa Hạ (Vinh Hoa hạ/Vinh Quang Hạ), Sùng Hoa Thượng (Vinh Hoa thượng/Vinh Quang Thượng), Mai Xá, Diêm Hà Thượng, Diêm Hà Hạ, Lâm Ngang, Thì Thái Thời Hoà (Xuân Hoà), Xuân Lôi (Xuân Long), Hải Chữ, An Bạch (Bạch Lộc), Bào Phố (Cẩm Phổ), Thuỵ Khê, Nhĩ Thượng, Nhĩ Hạ, Nhĩ Trung. Còn lại 3 xã/làng là Thử Luật (nay thuộc xã Vĩnh Thái), Thuỷ Cần (nay thuộc xã Vĩnh Kim/Kim Thạch), Thuỷ Trung (nay thuộc xã Vĩnh Trung/Trung Nam) và 1 thôn Mỗi Thôn/Thuỷ Tú (nay thuộc xã Vĩnh Tú)  huyện Vĩnh Linh ngày nay lúc bấy giờ thuộc huyện Lệ Thủy (Quảng Bình).

Huyện Vũ Xương có 59 xã/làng gồm Hoa Vi (Hoa Viên/Xuân Viên), Đông Dương, Diên Cát (Diên Khánh), An Nghi (Đa Nghi), Cổ Luỹ, Toàn Giao (Kim Giao), Đan Quế/Đơn Quế, Phương Lang, Cổ Kinh (Phú Kinh), Trung Đan/Trung Đơn, Tiểu Khê (Mỹ Khê), Văn Phong, Linh Vũ (Linh Yên), Linh Chiểu, Đạo Đầu, Hội Khách (Hội Yên), Đại Hào, Hoà Điều (Vân Hoà), Vân Đoá (Vân Tường), Vân Động (Tường Vân), Hướng Ngao (Điếu Ngao), Thượng Đô (Thượng Nghĩa), Hạ Đô (Đông Lai), Lang Gia (Phương Gia), Nhan Biều, Ôn Tuyền (Lễ Tuyền/Lệ Xuyên), Ái Tử, Trung Chỉ, Thượng Độ (Thượng Độ), Hạ Độ (Đại Độ), Nghĩa Đoan (Nghĩa An), Chính Lộ (Cam Lộ), Thượng Nguyên, Trà Bát (Trà Liên), Vĩnh Phúc (Vĩnh Phước), Thiên Áng (Đại Áng), Lai Cách (Lai Phước), Thanh Lê, Trâm Hốt (Trâm Lý), Trúc Giang (Trúc Khê), Kỳ Trúc, Bích Đàm (Bích Giang), An Cư, An Việt (Việt Yên), Trúc Liêu (Phú Liêu), Bố Liêu, Lâm Lang, Trương Xá, Chính Đường (Cam Đường/Cam Vũ), Kim Đâu, Trúc Kinh, Tiểu Áng (Phú Áng), Tam Vô (Tam Hữu), Liên Trì (Tây Trì), Tài Lương, Phù Hoa (Võ Thuận, Trúc Thuận), An Nhân/An Nhơn, An Nghiệp (An Lạc).

Huyện Hải Lăng có 49 xã/làng gồm An Thư/An Thơ, Vĩnh Hưng (Hưng Nhơn), Văn Quỹ, Câu Nhi, Hà Lộ, Lãng Uyên, Đoan Trang (Mỹ Chánh), Diên Sinh, Câu Hoan, Trà Trì Thượng, Trà Trì Hạ, Lam Thuỷ, Mai Đàn, Hương Lan (Hương Vận/Văn Vận), Hương Liễu (Hương Liệu/Phương Sơn), Long Đôi (Long Hưng), Thái Nại (Đại Nại), An Khang (An Thái), Hoàng Xá (Thượng Xá), Xuân Lâm, Tích Tường, Như Lệ, Thạch Hàn (Thạch Hãn), Cổ Thành, Thương Mang, Hoa Ngạn (Phương Ngạn), Phù Lưu, Nha Nghi (Vệ Nghĩa), Hữu Điều (Hữu Niên), Hoa La (Bích La), An Lộng, Hà Mi, Nại Cửu, Dương Lệ, Dương Chiếu (Dương Lộc), An Toàn (An Lợi), Đồng Giám, Dã Độ (Dạ Độ), An Dã (An Dạ), Quảng Đâu (Quảng Điền), Đâu Động (Lượng Động/Quảng Lượng), Phúc Lộc, Đại Bối (Đại Hoà), Tiểu Bối (Duy Hoà), Đại Bị (Đại Lộc), Tiểu Bị (Dương Lộc), An Hưng, Hà Bá (Hà Tây), Đâu Kênh.

Những lớp người đầu tiên đặt chân đến vùng đất này để lập làng vốn là những chiến binh từng tham gia trong đoàn quân mở cỏi. Sau khi mãn hạn binh đao, bộ phận này đã tự nguyện ở lại vùng đất mới để tiến hành khẩn hoang điền thổ, chiêu mộ dân đinh đến làm ăn sinh sống và rồi hình thành nên các làng xã. Lớp người này về sau được dân làng suy tôn là Tiền khai khẩn, Hậu khai canh của làng. Ban đầu, những nhóm cư dân Việt mới từ bắc vào sống cộng cư với bộ phận Chămpa còn sót lại. Việc này được Dương Văn An chép rằng “người La Giang nói tiếng Chiêm, đàn bà Thuỷ bạn thì mặc áo Chiêm”. Qua thời gian, trước sự phát triển lớn mạnh không ngừng của người Việt đã khiến không ít người Chăm bị đồng hóa. Số còn lại, do không chấp nhận chung sống với người Việt nên họ đã chuyển đi nơi khác và nhường lại lãnh thổ cho các làng người Việt.

Tiếp theo các làng hình thành từ thời nhà Lê là những làng được hình thành dưới thời chúa. Năm 1558, khi chúa Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm vùng Thuận Hoá, dòng người Việt tiếp tục vào nhập cư và hình thành nên nhiều xã/làng. Bấy giờ, huyện Hải Lăng được chia làm 5 tổng là Hoa La, An Thư, An Dã, Câu Hoan và An Khang.

Tổng Hoa La có các làng mới hình thành là Hồng Khê, Nại Diên, Tả Hữu, An Tiêm, Cổ Bưu, Dư Triều, Hậu Lễ, Xuân An, Vạn Long, Nà Nẫm.

Tổng An Thư có làng Hội Kỳ.

Tổng An Dã có các làng An Trung, An Lệ nhị giáp, Giáo Liêm, Phú Tài, Thanh Liêm, Hiền Lương, Phan Xá, Trúc Đăng.

Tổng Câu Hoan có các làng Trường Sinh, An Phúc, Hà Lộc, Lương Phúc (Lương Điền), Miễn Trạch, Đổ Phùng.

Tổng An Khang có các làng La Duy, Anh Hoa (Anh Tuấn), Duân Kinh, Thi Ông, Mai Lộc, Phú Xuân, Mai Hoa, Mai Đàn Thượng thôn.

Huyện Đăng Xương cũng được chia làm 5 tổng là An Phúc, An Lưu, An Cư, An Đôn và An Lạc. Các xã/làng mới xuất hiện là An Phúc, Diên Phúc, Kim Lung (Kim Long), Ba Du, Thượng An, Đôn Điềm, Thâm Khê, Mỹ Thuỷ, Tân An (thuộc tổng An Phúc); các làng An Lưu, Thượng Trạch, An Phủ, An Trú, Đồng Bào, Thanh Lê, Xuân Dương, Trung An, Phú Hải, Phú Toàn, Ba Lăng, Gia Đẳng, Thuận Đầu, An Hội, Tân An, Ngô Xá Đông giáp, Ngô Xá Tây giáp (thuộc tổng An Lưu); các làng Bồ Bản, Đăng Quang (Long Quang), Lại Phúc, An Trạch, Nhu Lý, Lưỡng Toàn (Lưỡng Kim), Mỹ Lộc, Tân Định, Phúc Lễ, An Tục, Phụ Luỹ (Phó Hội), Khang Vĩnh, An Toàn, Tân An (thuộc tổng An Cư); các làng An Đôn, Thượng Phước, Trà Lễ, Vân An, Hà Xá, Lập Thạch, Phương Lương, Phú An, Lãng Phúc (Lạng Phước), Đông Hà, Đông Vu, Ỷ Bích, Bạch Câu, Cây Khế, Giang Hến, Thiết Trường tứ chính, Thiết Trường hạ phường, Sơn Trập, Sơn Bàng, An Trung ngũ giáp (thuộc tổng An Đôn); các làng Phả Lại, Đình Tổ, Định Xá, Thanh Lương, An Bình, Phú Ngạn, Nhật Lệ, Thuận Đức, Phi Hưu (Phi Thừa), An Thịnh, Bàu Đá, Trung Hác (Mỹ Hoà), An Xuân, Phúc An (Phú Hậu), Khang Mỹ, Đâu Bình, Khang Thái, Tân An, Ba Xuân, Cây Lúa, Bái Sơn, Thiết Trường, Thiên Xuân, Bố Chính, Quật Xá, An Cát (thuộc tổng An Lạc).

Huyện Minh Linh được chia làm 5 tổng là An Xá, Minh Lương, Bái Trời, Thuỷ Ba và Yên Mỹ. Các xã/làng mới được hình thành trong giai đoạn này là Trung Xá, Lang Môn (Gia Môn), Phúc Xuân, Tân An, Kỳ Lâm, Liễu Môn (thuộc tổng An Xá); Liêm Công, Liên Trì, Di Luân (Di Loan), Cồn Cát, Để Võng, Châu Thị, Thịnh Mỹ, Mỹ Lộc, Tứ Chính, Tân Khang, Thương Tuyền, Phú Trường, Phú Xuân thị (Phú Thị), An Khang (thuộc tổng Minh Lương); các phường/làng Tân An, An Hướng, Trung An, An Định, Cảnh Sơn, Long Sơn, Gia Định, An Khê, Phú Ốc, Thương Nhậm, Phú Vinh, An Định Nha, An Phúc, Khang Xá, Nam Dương, Bình An, Phú Xuân, Khe Sông và An Lộc (thuộc tổng Bái Trời); Mỹ Xá, Phúc Thuận, Đại Phúc, Phúc Lộc (thuộc tổng Thủ Ba); Yên Mỹ (An Mỹ), Hoàng Hà, Hà Lợi Thượng, Hà Lợi Trung, Hà Lộc, An Lộc, Đại Lộc, Ngọc Giáp, Trung An, Phúc An, Bạch Câu, Tây Giáp, Xuân An, Trù Cương, Mai Xá Thị, Cảnh Dương (thuộc tổng Yên Mỹ).

Cuối thế kỷ XVIII, hệ thống làng mạc ở Quảng Trị về cơ bản đã đi vào ổn định. Trong giai đoạn này, quá trình hình thành thêm các xã/làng mới theo hình thức chuyển cư/di cư như trước diễn ra rất ít. Tuy nhiên, vẫn có một số lượng các xã/làng, thôn, phường, giáp  mới xuất hiện trên cơ sở tách ra từ những làng chính, làng cái. Ngoài ra còn có thêm một số phường/làng mới đến tụ cư. Trên địa bàn tỉnh Quảng Trị ngày nay, dưới thời Đồng Khánh, huyện Thành Hoá (Cam Lộ) xuất hiện thêm các xã/làng, thôn, phường, giáp là xã Mộc Đức, thôn Phúc Xá, phường An Mỹ, phường Thiện Chính, phường Cao Hy, phường An Thái, phường Phan Xá, phường Thọ Xuân, phường Tân Định, phường Tân Hoà, phường Tân Hưng, phường Tân Thành, phường Tân Hoà, phường Tân Mỹ, phường Tân Trúc, giáp Hiếu Đức (thuộc tổng Cam Đường); phường Phổ Lại, phường Cẩm Thạch, phường Tuy Lộc, phường Phú Hậu, phường Bằng An, xã Hoan Thịnh, giáp An Thái (thuộc tổng An Lạc); phường Hiếu Sơn/Hảo Sơn, phường Tân Minh, phường An Hoà, phường Phương Xuân, phường Thanh Khê, phường Phú Ân, phường Tân Xuân, phường Gia Bình, phường Lịch Sơn, phường Phú Thọ, phường Ninh Xá (thuộc tổng Bái Ân); phường Mai Lộc, phường Mai Đàn Thượng, phường An Thái Thượng, phường Việt Yên, phường Trung Chỉ, phường Miễn Hoàn, phường Bảng Sơn, phường Cam Lộ, phường Làng Phúc, phường Lập Thạch, phường Hà Xá, phường Câu Hoan, phường Quân Ngao, phường Phương An, phường Tân Kim, phường Mậu Hoà, phường Tân Sơn, phường Tân Lâm (thuộc tổng Mai Lộc). Huyện Đăng Xương (Triệu Phong) xuất hiện thêm các xã/làng, thôn, phường, giáp là phường Yên Mô/An Mô, phường Tân Xuân, thôn Hậu Kiên, thôn Trung Kiên (thuộc tổng Bích La); xã Lương An, thôn Tả Kiên, ấp Kiên Mỹ, giáp Trung phường Trung Yên (thuộc tổng An Đôn); phường Dương Xuân, phường Thịnh Hội, phường Bảo An, phường An Lợi, phường Vĩnh Hoà (thuộc tổng An Cư); xã An Bình, xã An Lợi (thuộc tổng An Dã); tổng An Lưu giai đoạn này không thấy xuất hiện thêm các xã/làng, thôn, phường, giáp. Huyện Hải Lăng xuất hiện thêm các xã/làng, thôn, phường, giáp là phường Trinh Thạch, phường Phú Xuân, phường Sái Xuân (thuộc tổng An Thái); phường Xuân Lộc, thôn Trường Phúc, thôn Thuận Nhân (thuộc tổng Câu Hoan); xã An Nhân, xã Phương Da, xã Mỹ Thuỷ, xã Ba Thâu (thuộc tổng An Nhân); tổng An Thư không xuất hiện thêm xã/làng, thôn, phường, giáp. Huyện Minh Linh xuất hiện thêm các xã/làng, thôn, phường, giáp là phường Phước Lý, phường Thuỷ Liên, phường An Ninh, phường An Thái (thuộc tổng Minh Lương); xã Xuân Mỵ, phường Cát Sơn, phường Bảo Lộc, phường An Xuân, xã Vũ Xá, xã Cương Gián, (thuộc tổng Xuân Hoà); phường Khánh Thọ, phường Vĩnh Lộc, thôn Mỹ Thành, phường An Cư, phường Dục Đức (thuộc tổng Thuỷ Ba); trang Minh Lý, thôn Hoà Lạc, phường Tân An, thôn Ba Nguyệt, phường Tứ Chính, phường Tân Định, thôn Chấp Lễ, giáp Yến Vũ (thuộc tổng Hồ Xá). Huyện Do Linh xuất hiện thêm xã Đào Xuyên (thuộc tổng An Xá); phường Quảng Xá, phường Phú Phụng, phường An Phú, phường Dương Xuân, phường Nam Dương Đông, phường Nam Dương Tây, phường Bác Vọng, phường Xuân Lộc, phường Xuân Thành, phường Vạn Kim, phường An Phú, phường Bái Sơn, thôn Chợ (thuộc tổng Yên Mỹ).

Những làng ở vùng đồng bằng được hình thành sớm hơn so với các làng ở phía thượng du. Ngoài những làng được định hình từ sớm trong lịch sử thì dần dà qua thời gian lại xuất hiện thêm những làng mới. Sự có mặt của những làng mới này xuất phát từ hai trường hợp chủ yếu. Thứ nhất, đó là những làng di cư vào vùng Thuận Hóa ở những khoảng thời gian muộn về sau này (khoảng thế kỷ XVII - XVIII), tức là sau các làng đã hình thành trong đợt di dân nhập cư diễn ra dưới thời Nguyễn Hoàng. Cư dân của những làng mới này cũng có nguồn gốc ở vùng Thanh Nghệ Tĩnh hoặc xa hơn nữa ngoài vùng đồng bằng Bắc Bộ như Nam Định, Ninh Bình, Vĩnh Phúc, Thăng Long... Khi xã hội phong kiến ngày một phát triển, cư dân trở nên đông đúc, ruộng đất công chiếm đại đa số khiến những cánh đồng chiêm trũng rộng lớn thẳng cánh cò bay ở đồng bằng Bắc Bộ trở nên chật chội, nhỏ hẹp không đủ để canh tác cày cấy. Bộ phận những cư dân không có ruộng vườn buộc phải chèo kéo nhau tiến vào vùng Thuận Hóa trong đó có địa bàn tỉnh Quảng Trị để làm ăn sinh sống. Ngay từ buổi đầu “chân ướt chân ráo” bước vào vùng đất mới, một bộ phận cư dân này đã xin gia nhập vào các làng đã được định hình từ trước. Họ được chấp nhận với tư cách là những “khách hộ”. Một thời gian sau họ trở thành “chính hộ” và có quyền lợi đồng đẳng như những cư dân chính của làng. Qua tư liệu đinh bạ thời Thái Đức có trường hợp chỉ sau hai năm cư ngụ tại làng, những người ngụ cư được cho “trục” vào dân cư chính của làng. Bộ phận còn lại vì nhiều lý do khách quan lẫn chủ quan khác nhau đã không nhập làng mà tiến hành khai phá những khu đất còn hoang hóa chưa có chủ sở hữu nằm cạnh các làng cái, làng chính. Họ dựng nhà cửa để định cư và khai thác điền thổ. Sau đó, trong quá trình sinh sống họ đã tiếp cận, quan hệ với các làng cái để trao đổi mua bán, lấn chiếm và thậm chí là dùng thủ đoạn lừa gạt đất đai để nới rộng địa vực cư trú và diện tích canh tác. Từ đó các làng mới được ra đời, họ được chính quyền sở tại lúc bấy giờ công nhận và chính thức có tên trên bản đồ làng xã Quảng Trị.

Con đường thứ hai hình thành những làng mới xuất phát ngay chính trong nội tại các làng chính/cái và ít nhiều có phần mang tính “quy luật”. Khi những làng được hình thành từ xa xưa thì vốn ban đầu cư dân đang còn ít ỏi, họ tụ cư gần kề nhau và mang tính co cụm theo kiểu chòm xóm nhiều hơn. Nhưng dần dà qua thời gian, các dòng họ trong một làng sinh con đẻ cháu làm cho dân số ngày càng phát triển. Cộng thêm bộ phận dân cư mới xin gia nhập làng đã khiến cho sổ hộ tịch của làng ngày một dày lên. Từ đó dẫn đến một hệ quả tất yếu là nhu cầu về nhà ở và đất canh tác ngày càng lớn. Việc dựng nhà cửa bắt đầu có sự giản nở và hình thành nên các xóm mang tên gọi như xóm trên, xóm dưới, xóm làng, xóm cồn, xóm bàu, xóm thượng, xóm hạ, xóm trung,… Các xóm này tồn tại và phát triển trong phạm vi của một làng. Cho đến khi mạnh dần lên, cư dân trở nên đông đúc, diện tích đất canh phá thêm ngày một rộng rãi và dần dần vượt ra khỏi sự quản lý của làng. Họ bắt đầu tách dần ra khỏi làng chính, xin lập điền bộ, đinh bộ và thuế bộ riêng. Từ đó hình thành nên những làng mới tồn tại độc lập, có đầy đủ tư cách pháp lý và được chính quyền nhà nước quản lý bảo vệ.

Bên cạnh những làng Việt thuần nông thì trên địa bàn Quảng Trị còn có những vạn/làng chài. Họ là những cư dân làm nghề sông nước đánh bắt thủy hải sản trên các dòng sông và ven biển. Nghiệp mưu sinh “bềnh bồng thủy diện” đã đưa đẩy họ đến với vùng quê Quảng Trị mà cụ thể là dọc theo bờ biển và trên các dòng sông. Trong quá trình hành nghề bộ phận cư dân này đã dạt vào hai bên bờ để neo đậu thuyền bè và xin một khoảng đất nhỏ để phơi ngư cụ và chôn cất người quá cố. Sau đó, bằng nhiều hình thức khác nhau như xin cho, mua bán, lấn chiếm… họ đã nới dần đất đai ra và bắt đầu lên định cư lâu dài. Kết hợp kinh tế nông ngư nghiệp để làm ăn và sinh sống. Có thể nói cư dân của các vạn/làng chài là một bộ phận không nhỏ đã góp phần tô vẽ cho bức tranh làng xã người Việt Quảng Trị thêm phần phong phú và đa dạng.

Sự hình thành các làng xã người Việt trên vùng đất Quảng Trị diễn ra xuyên suốt trong lịch sử từ trung cận cho đến hiện đại. Vào nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, vùng đất phía tây ngược lên phía thượng nguồn của các con sông bắt đầu hình thành thêm những làng mới. Sự xuất hiện những làng mới này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau.

Trước hết là do thời điểm lúc bấy giờ mật độ làng xóm ở vùng đồng bằng trở nên dày đặc, dân số tăng nhanh. Trong khi đó diện tích đất vốn có không còn đủ để đáp ứng nhu cầu canh tác nên một số bộ phận dân cư từ các làng nơi đây bắt đầu tiến về phía tây, nơi có đất đai rộng rãi, rừng núi bao la để khai phá trồng trọt. Ban đầu họ dựng lều trại ở lại để làm ăn trong một thời gian ngắn rồi xuôi ngược lên về bằng thuyền bè. Dần dần nhận thấy đất đai nơi đây màu mỡ, cây cối tốt tươi, việc sản xuất nông nghiệp thuận lợi và những vụ mùa bội thu đã níu giữ chân họ ở lại. Từ đó bộ phận cư dân này quyết định lên đây sinh sống lâu dài.

Nguyên nhân thứ hai dẫn đến sự ra đời của các làng xã người Việt ở vùng đồi núi trung du xuất phát từ chính sách cai trị và khai thác thuộc địa của thực dân thực dân Pháp. Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trước sự bóc lột hà khắc của nền chính trị thuộc địa, một số cư dân vùng đồng bằng đã chạy trốn thuế thân lên đây lập nghiệp. Từ đó hình thành nên các làng mới. Bên cạnh đó còn có một số quan lại, địa chủ có quyền hành đã lên đây bao chiếm đất đai để lập trang trại đồn điền, thuê nhân công lên canh phá và sản xuất nông nghiệp để thu lợi. Một bộ phận cư dân bần cố nông nghèo khổ không có ruộng vườn đã đi theo lên làm ăn sinh sống dần dần họ dựng nhà cửa và định cư lâu dài để rồi về sau hình thành nên các làng xã mới.

Ngoài hai nguyên nhân dẫn đến sự hình thành các làng xã ở vùng trung du và thượng du thì một số làng còn lại được hình thành dựa trên chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Vào những năm từ 1960 - 1980, hưởng ứng chương trình di/giản dân đi làm ăn kinh tế mới, một số bộ phận dân cư ở các xã đồng bằng đã lên đây lập nghiệp và lập nên các làng mới. Mặc dù đã tách thành một làng mới, tồn tại độc lập và định cư gần như tách biệt về mặt không gian nhưng mọi sinh hoạt làng xóm và tôn tộc thường năm nơi quê cũ họ đều trở về đóng góp và tham gia đầy đủ. Đây cũng chính là nét đẹp văn hóa truyền thống của người Việt đã được đúc kết, duy trì và tồn tại trong tâm thức từ bao đời nay.

 

Nguồn gốc và thành phần dân cư

Cư dân Việt ra đi từ đất Bắc trên bước đường tiến dần về phương Nam vốn có quê hương bản quán từ Thăng Long, Tứ Trấn, Hải Dương, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh…, trong đó gốc Thanh Nghệ là chủ yếu. Năm 1069, hưởng ứng lời kêu gọi di dân của vua Lý Thánh Tông, cư dân Đại Việt bắt đầu vượt Đèo Ngang vào khai phá vùng đất mới. Trong số cư dân ấy, những người có cùng họ tộc thường tụ tập một nơi rồi lập thành một xã (làng). Đó là các xã (làng) đầu tiên của người Việt được thành lập ở châu Lâm Bình, châu Minh Linh, tức phía nam Quảng Bình và phía bắc Quảng Trị ngày nay. Ranh giới hoạch định giữa hai quốc gia Chăm - Việt lúc bấy giờ là sông Hiếu.

Sang đến đời nhà Trần, nhờ mối quan hệ giao hảo giữa hai quốc gia Chăm - Việt mà đặc biệt là sau đám cưới Huyên Trân công chúa (1306) thì phần đất từ nam sông Hiếu trở vào bắc Quảng Nam mới chính thức nằm trong cương vực Đại Việt. Châu Ô của Chămpa trở thành Châu Thuận của Đại Việt trong đó bao gồm huyện Triệu Phong, huyện Hải Lăng, thị xã Quảng Trị và thành phố Đông Hà ngày nay. Thời điểm này quá trình di dân lập ấp của người Việt vào vùng Thuận Hóa mới chính thức bắt đầu. Các làng Việt thay thế dần những làng Chăm và từng bước phát triển lớn mạnh dần lên qua các thời kỳ lịch sử.

Đến thời nhà Hồ, sau khi thu lại được đất của người Chăm, Hồ Qúy Ly đã ra lệnh cho những cư dân có tiền của mà không có ruộng vườn từ Nghệ An, Thanh Hóa tiếp tục di cư về phương nam để làm ăn sinh sống, thiết lập nên các làng xã tiếp theo của người Việt.

Thời nhà Lê, sau khi bình định xong Chiêm Thành, kết thúc sự tồn tại của vương quốc Chămpa, vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu chiêu mộ nhân dân vào ở. Trong dòng người di cư đó có người từ Nghệ An, Hà Tĩnh, họ vốn quen thạo nghề ghe thuyền đã vượt biển tiến vào sinh sống.

Về thành phần dân cư và xã hội, dòng người Việt ra đi từ đất Bắc tiến về Nam trong lịch sử gồm rất nhiều hạng người. Trước hết, lúc sơ khởi những cư dân được coi là đặt nhát cuốc phở hoang đầu tiên trên vùng đất mới phải kể đến đó là những chiến binh, quan lại, những người tiên phong trong hành trình mở mang bờ cỏi qua các thời đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn … Sau khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử, lớp người đó đã tự nguyện ở lại vùng đất mới. Họ tiến hành khẩn hoang điền thổ, tập hợp và kêu gọi dân đinh đến làm ăn sinh sống, lập nên phường hiệu, làng xã.

 Tiếp đến là những người nông dân nghèo khổ không có ruộng vườn ở phía Bắc vào làm ăn sinh sống với niềm hy vọng ước mong sẽ có một tương lai tươi sáng và tốt đẹp hơn nơi vùng đất mới. Trong những khoảng thời gian này còn có một bộ phận cư dân có tiền của mà không có ruộng vườn canh tác cũng được theo vào. Bên cạnh đó còn có một bộ phận không nhỏ bị bắt buộc phải di cư vào Nam dưới thời nhà Lê. Đó là những tù nhân bị kết án lưu. Bấy giờ trong ngũ hình về lưu đày được chia thành 3 loại: lưu cận châu là bị đày đi các xứ Nghệ An, Hà Tĩnh; lưu ngoại châu là lưu đi các xứ thuộc châu Bố Chính; lưu viễn châu là lưu đi các xứ Tân Bình. Thành phần di cư vào Nam trong bối cảnh lúc bấy giờ còn có những kẻ trộm cướp, những nghịch đảng bị pháp luật truy đuổi đã phiêu bạt đến đây lánh nạn. Và bên cạnh đó còn có những phần tử bất mãn xã hội cũng hòa chung vào dòng người tiến vào Nam để kiếm chổ dung thân….

Tóm lại, từng đó hạng người, xuất phát từ thân phận và hoàn cảnh khác nhau, bằng nhiều lý do và con đường khác nhau, họ đã từng bước tiến dần về phía nam, tạo lập nên các làng xã tồn tại và phát triển cho đến hôm nay. Công cuộc khẩn hoang buổi đầu tập trung nơi vùng đồng bằng phù sa màu mở, đất bãi bồi ven các dòng sông. Về sau nhu cầu mở rộng và phát triển đã lan dần về phía tây trên vùng “lâm lộc” đất gò đồi và mở rộng về phía đông trên vùng “thổ ương” đất bàu đầm. Bằng các hoạt động “trưng khẩn”, “thác thổ” và lập xã hiệu, lần lượt các làng xã ra đời đã tạo nên một bức tranh sống động, một quang cảnh sầm uất cho một vùng đất mới. Từ một vùng đất phên dậu biên thùy đầy biến động đến một chiến trường ác liệt binh đao khói lửa, với rất nhiều biến cố ly thương tan hợp lưa thưa buồn tẻ nhưng đến giữa thế kỷ XVI đã trở thành một nơi đô hội như tác giả Dương Văn An đã từng miêu tả trong Ô Châu Cận Lục rằng “ non sông kỳ tú, ruộng đất mở mang, nhân dân đông đúc, thực là nơi đô hội lớn của một phương. Cảnh tượng vui tươi, phong vật quý giá còn đâu hơn nữa!”./.   

                                                                                           Trịnh Cao Nguyên

 

Tài liệu tham khảo

1. Phan Khoang. Việt sử xứ Đàng Trong. Nhà xuất bản Văn Học, 3-2011.

2. Trần Trọng Kim. Việt Nam sử lược. Nhà xuất bản Tổng Hợp Thành Phố Hồ Chí Minh, 3-2005.

3. Dương Văn An. Ô Châu Cận Lục. Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, 3-2009.

4. Lê Quý Đôn. Phủ Biên Tạp Lục. Nhà xuất bản Văn Hóa - Thông Tin, 2007.

5. Huỳnh Công Bá. Mấy đặc điểm về làng xã Quảng Trị, Thừa Thiên- Huế, Quảng Nam, Đà Nẳng. Nghiên Cứu Huế, tập 4 - 2002, tr 72.

6. Văn bản Hán Nôm làng xã vùng Huế. Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2008.


Nguồn: 

Chép từ: Trung tâm Quản lý Di tích và Bảo tàng Tỉnh Quảng Trị.

https://trungtamquanlyditichvabaotangquangtri.vn/chuyenmuckhac/baiviet/qua-trinh-hinh-thanh-lang-xa-cua-nguoi-viet-tren-vung-dat-quang-tri-trong-tien-trinh-lich-su/272


READ MORE - QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH LÀNG XÃ CỦA NGƯỜI VIỆT TRÊN VÙNG ĐẤT QUẢNG TRỊ TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ -Trịnh Cao Nguyên