|
Đình làng NẠI CỬU |
Tìm hiểu và phân tích kỹ một lễ hội dân gian ở vùng nông
thôn tỉnh Quảng Trị quả là không dễ. Dù Quảng Trị là vùng đất có bề dày lịch sử
văn hóa nhưng qua hai cuộc chiến tranh, nhiều kiến trúc văn hóa vật chất như:
đình, chùa, miếu mạo bị tàn phá nặng nề cái còn cái mất. Cái còn thì đã rêu
phong hoang phế, hoặc là những kiến trúc mới được xây dựng lại trong những năm
gần đây. Những lễ hội dân gian gắn liền với đình, chùa, đền miếu do vậy cứ bị
mai một dần đi, mặt khác dù nhu cầu văn hóa tinh thần của đời sống tâm linh là
lớn nhưng đời sống hiện tại còn gặp muôn vàn khó khăn chế ngự nên lễ hội có
tính quy mô, rầm rộ ít được diễn ra.
Tuy nhiên, lễ hội dân gian là khát vọng tinh thần, là sinh
hoạt văn hóa làm nên diện mạo của một vùng đất, tạo nên nhân cách, bản sắc
riêng của người dân sống trên vùng đất đó. Nó là yếu tố cơ bản tạo nên sức sống
mảnh liệt trong tâm thức của con người, tồn tại cùng con người thuở khai khẩn
vùng đất mới, đồng hành trên bước đường con người kiếm tìm hạnh phúc, tạo lập
và xây dựng nên những mảnh làng. Tất nhiên bất kỳ một lễ hội dân gian nào đều
có những mặt phải và mặt trái của nó. Dưới đường lối đổi mới của Đảng, đặc biệt
là đất nước đang triển khai cuộc vận động lớn “xây dựng làng văn hóa, gia đình
văn hóa”, vấn đề tìm hiểu và khôi phục một lễ hội dân gian để phát huy những
giá trị truyền thống, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, gạt bỏ những yếu tố lạc
hậu mang màu sắc mê tín là một việc làm có ý nghĩa nhân bản.
Với suy nghĩ này, chúng tôi đã tìm về làng Nại Cửu thuộc xã
Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị để tìm hiểu. Đây là một làng có
bề dày lịch sử khá lâu đời gắn liền với những cuộc "nam tiến" của ông
cha, có nhiều thành tựu vẻ vang trong chống giặc ngoại xâm, trong lĩnh vực giáo
dục, gắn liền với nhiều tên tuổi của nhiều người được cả nước biết đến. Tên
làng Nại Cửu có nghĩa là "chịu đựng lâu" thể hiện tính cách bền bỉ,
kiên nhẫn chịu đựng mọi khó khăn gian khổ để vươn tới khát vọng ấm no, hạnh
phúc của người dân nơi đây; và trong tiến trình đi lên, dân làng Nại Cửu đã đạt
được những thành tựu không nhỏ để tạo nhân cách riêng của một làng quê Việt
Nam.
Làng Nại Cửu từ xưa có nhiều lễ hội như: Lễ thành hoàng, lễ
hạ canh, lễ hạ ương, hội thi cày đất khô, hội thi kéo co, thi bơi trãi, hò giả
gạo...Tuy nhiên qua nhiều thời gian và hoàn cảnh sống có những đổi thay nên đã
dần dần mất đi chỉ còn lại một lễ hội đáng chú ý hơn cả là lễ hội Kỳ yên (hoặc
là Cầu an hay siêu yên) được dân làng Nại Cửu duy trì hàng năm tại đình làng
Nại Cửu vào ngày rằm tháng bảy.
1. Vài nét về lịch sử làng Nại Cửu:
Năm 1347, kỷ nhà Trần, biên giới Đại việt chỉ từ Quảng Bình
trở ra Bắc. Sau cuộc hôn nhân Việt-Chăm, Vua Chăm pa là Chế Mân dâng 2 châu:
Châu Ô và Châu Lý để đổi lấy Huyền Trân Công Chúa. Nhà Trần đổi 2 Châu này
thành Châu Thuận và Châu Hóa. Để mở mang bờ cõi, nhà Trần đã kêu gọi dân chúng
ở phía Bắc (Thanh Hóa, Nghệ An, một số ít người Nam Định) vào khai khẩn vùng
đất mới.
Năm 1471, Vua Lê Thánh Tông tiến hành cuộc chinh phạt quân
Chiêm Thành lần thứ 2. Nhiều chiến binh sau cuộc "Chinh Tây" thắng
lợi đã lưu lại vùng đất mới khai khẩn lập ấp, tiếp tục đưa thêm con cháu vào
hiệp lực tạo nên làng Nại Cửu. Qua 18 thế hệ kế tiếp nhau mà qua gia phả của 6
họ: Lê, Nguyễn, Hoàng, Võ, Phan, Trần còn lưu trữ thể hiện một bề dày lịch sử
với một quá trình phát triển mạnh mẽ tạo nên cộng đồng Nại Cửu hôn nay với diện
tích đất tự nhiên 232 ha, đất canh tác 138 ha, với gần 3000 người chưa kể số
người xa quê đây đó, làm ăn sinh sống tiếp tục tạo dựng những quê hương mới
trên đất nước Việt Nam thân yêu.
Làng Nại Cửu có vị trí địa lý Bắc giáp ba làng: Bích La
Đông, Bích La Trung, Bích La Nam( đồng thuộc xã Triệu Đông), Nam giáp hai làng:
Thâm Triều, An Tiêm (xã Triệu Tài và xã Triệu Thành), Đông giáp 2 làng: Anh
Tuấn, Tả Hữu (xã Triệu Tài), Tây giáp 3 làng: Cổ Thành, Hậu Kiên, Bích Khê
(Thuộc xã Triệu Thành và xã Triệu Long). Là một làng nông nghiệp nên nghề
nghiệp chủ yếu là nông nghiệp, có một số nghề khác như dịch vụ buôn bán, may,
mộc, nề...Tổng thu nhập bình quân đạt trên 300USD/người/năm. Mặc dù mức sống
chưa cao nhưng người dân Nại Cửu rất chú trọng đến vấn đề giáo dục, 100% phổ
cập tiểu học, nhiều tiến sĩ, phó tiến sĩ, bác sĩ, kỷ sư, cử nhân... đang công
tác ở nhiều ngành và đặc biệt có một đội ngủ đông đúc làm nghề giảng dạy ở khắp
mọi miền đất nước, đó chính là hệ quả tất yếu của một truyền thống hiếu học vốn
có từ xưa. Lần tìm gia phả các Họ có thể thấy được nhiều vị đổ đạt làm quan qua
các triều đại phong kiến trở thành niềm tự hào của hậu thế.
1. Tiến sĩ Trần Văn Thoại (Đời Lê Hiển Tông)
2. Cử nhân Lê Trọng Điều (Làm quan phủ đời Minh Mạng)
3. Cử nhân Lê Trọng Huy (Làm quan phủ đời Thiệu Trị)
4. Cử nhân Lê Trọng Huyên (Làm quan phủ đời Tự Đức)
5. Cử nhân Lê Văn Trung làm cận vệ cho phụ chính Đại thần
Tôn Thấy Thuyết.
6. Nguyễn Đức Nghi (Tham tri Bộ Lễ thời Tự Đức)
7. Phó Bảng Võ Tử Văn, thời đại Tự Đức được tôn vinh
"Bậc thơ thánh thổ thần" là Thái Tử Thiếu bảo (dạy con vua) văn minh
điện học sĩ, một chủ khoa tài ba.
Thời hiện đại có các vị tiêu biểu sau:
1. Trần Quỳnh (Nguyên Phó Thủ Tướng chính phủ)
2. Lê Lăng ( Nguyên Thứ trưởng Bộ ngoại thương)
3. Hoàng Hữu Bình (Tiến sĩ, cục trưởng cụ Hóa chất)
4. Nguyễn Liêm ( Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam)
5. Lê Sơn (Thiếu Tướng Quân đội nhân dân Việt Nam)
6. Lê Hữu Thỏa (Thiếu Tướng Quân đội nhân dân Việt Nam)
Và nhiều vị có chức sắc, học hàm, học vị không thể thống kê
hết được.
Trải qua trên dưới 500 năm tồn tại và phát triển, đất và người
Nại Cửu của 18 thế hệ kế tiếp nhau đã chịu đựng nhiều gian khổ, hy sinh, bền
gian, kiên nhẩn, tương thân, tương ái, đùm bọc nhau trong tình làng nghĩa xóm
để xây dựng và bảo vệ quê hương và đất nước. Đó là một truyền thống quý báu
đáng tự hào và trân trọng của người dân làng Nại Cửu. Truyền thống này chính là
xuất phát từ tác động của những sinh hoạt văn hóa lễ hội, của tính hiếu học đúc
kết nghìn đời mà ta đang đề cập ở trên lễ hội Kỳ yên ở đình Nại Cửu.
2. Nại Cửu đình và lễ hội Kỳ yên:
a. Đình Nại Cửu không xác định được xây dựng từ năm nào
trong lịch sử, chỉ có thể nói sơ lược như sau:
Năm 1886 bị giặc Pháp đốt, năm 1900 được làm lại bằng tre,
năm 1935 lại bị đốt, 1942 làm lại, năm 1958 được sửa chữa thêm, năm 1972 chiến
tranh tàn phá, năm 1990 xây lại như hiện tại. Đình Nại Cửu có một đặc trưng
riêng biệt là có mái đình (có sắc chỉ của Vua ban) khác với Đình của nơi khác,
ngôi đình hiện nay có chiều rộng 6m, chiều dài 14m tọa lạc trên khu đất rộng,
quay mặt về hướng nam. Cổng đình có hai câu đối bằng chữ Hán đã mờ vì gió bụi
thời gian. Phần sân đình ở giữa là bức bình phong có trang trí một con Nghê làm
bằng mãnh vỡ, trên lưng nghê mang một chiếc hộp màu vàng có thắt nơ kiểu bướm
(chiếc hộp này tượng trưng bằng sắc của các học sĩ). Phía dưới là âm hồn, phía
trên là văn chỉ, phiá đông sân đình là bức thờ âm hồn, phía tây sân đình thờ
bức có hai chữ Hán "Thánh Tiên" (chỉ bậc thánh hiền đời trước là
Khổng Tử). Mái đình lợp ngói móc, trên nóc có biểu tượng âm dương ở giữa, hai
bên nóc có hai rồng đối xứng, 4 góc mái đình là 4 con chim phượng. Mặt trước
đình ở trên gần sát mái có 5 bức tranh vẽ chim, thú, cây cảnh, bên trái của
đình có bức tranh vẽ rồng trên mây, bên phải là hổ trong rừng (tả thanh long,
hữu bạch hổ).
Trong điện thờ gồm có năm gian đặt năm bàn thờ. Ngày xưa thờ
thần chủ, nay thờ bằng lư hương.
1. Bàn thờ thứ nhất (ở phí tây): Thờ thổ thần, hai chữ thổ
thần viết bằng chử Hán ở trên tường, hai bên có hai câu đối như sau:
"Địa hậu bát tiết thảo mọc sum
Tổ vương trí thời nhân tài tụ"
Tạm dịch:
"Đất màu mở, tám tiết trời trong năm cỏ cây đều tươi
tốt
Phúc tổ lớn, bốn mùa tụ hội lắm người tài"
Trên bàn thờ của thổ thần có hai lư hương
2. Bàn thờ thứ 2 (giáp bàn thờ thổ thần): Thờ bốn vị tiền
khai khẩn của bốn họ: Lê, Nguyễn, Võ và một vị tiền khai khẩn của họ Đinh nhưng
vì họ Đinh ở Nại Cửu về sau vô tự nên hình thức thờ chỉ còn là "Đinh gia
phụ hưởng". Trên tường sau bàn thờ có hai chử Hán "Khởi thủy".
Trang trí hai bên chữ "Khởi thủy" (mở đầu) là hai con chim phượng
ngậm đóa sen đứng trên lưng rùa.
3. Bàn thờ thứ ba (tức bàn thờ chánh giữa): Thờ 11 vị thần
gồm 7 lư hương, trên tường có ba chữ hán "Kỉnh như tại" (nghĩa là
cung kính mời ngồi) lúc hành lễ ông thần nào to thì mời ngồi lên bàn thờ này.
Mười một vị thần của bàn thờ này được nhà Vua sắc phong cho làng Nại Cửu thờ tự
(Theo “Quảng Trị tỉnh thành hoàng chí” của Triều Tự Đức hiện có lưu ở thư viện
Khoa học trung ương số 26 Lý Thường Kiệt - Hà Nội), 11 vị thần đó là:
1. Cao các quảng độ gia tặng dực bảo trung hưng thượng đẳng
thần
2. Bổn thổ thần hoàng gia tặng tịnh hậu trung hưng thượng
đẳng thần
3. Ngủ hành sắc phong tán hóa mặc vân thuận thành tự điều,
tư nguyên trung huy dực bảo trung hưng thượng đẳng thần
4. Chúa ngọc sắc phong nhân uyển gia tặng trung huy dực bảo
trung hưng thượng đẳng thần (Huyền Trân Công Chúa)
5. Hồng nương tiên phi gia tặng trung huy dực bảo trung hưng
thượng đẳng thần ( thờ bà vú nuôi của Huyền Trân Công Chúa)
6. Cai trị nam dương hầu Hoàng tôn thần.
Năm vị ngũ hành thờ vào một lư hương, sáu vị kia thờ vào một
lư hương. Trang trí hai bên chữ "Kỉnh như tại" giống như ở bức bàn
thờ thứ hai.
4. Bàn thờ thứ tư: Thờ ba vị tiền khai khẩn ba họ: Hoàng,
Phan, Trần và Lê nhị vị quý công (vị hậu khai canh - khai canh thêm một phường
Nại Cửu ở vùng trung du thuộc xã Triệu Ái, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị).
Trên tường sau bàn thờ có hai chữ "khai nguyên" (nghĩa là mở một kỷ
nguyên mới). Trang trí ở hai bên chữ này giống như ở bàn thờ thứ hai và thứ ba.
5. Bàn thờ thứ năm (bàn thờ cuối cùng ở phía đông): Trên
tường phía sau bàn thờ có hai chữ " Khoa hoạn" (nghĩa là đổ đạt làm
quan). Ngày trước là: Lịch triều khoa hoạn quan viên trùng tự (có thờ mà không
lạy). Thờ những vị đỗ đạt trên con đường khoa cử, làm quan qua các triều đại
phong kiến và cả thời hiện đại, biểu hiện của một niềm tôn vinh, tự hào về
truyền thống hiếu học. Đó cũng là cách giáo hóa cho các thế hệ hậu sinh noi
theo. Hai câu đối bên chữ "Khoa hoạn" là:
"Quang tiên dư hậu võ, văn, toán
Tích tụ kim ba khoa hoạn đạt"
Tạm dịch:
"Rạng rỡ tổ tiên mãi về sau vì võ, văn, toán
Tích tụ truyền đi ánh vàng của khoa bảng làm quan"
Về mặt tổng thể kiến trúc đình Nại Cửu là kiến trúc đối xứng
nhau tạo nên sự hòa điệu theo đúng kiến trúc văn hóa phương Đông.
b. Lễ hội Kỳ yên:
Lễ hội kỳ yên ở Nại Cửu đình thực chất là sinh hoạt văn hóa
nhằm thỏa mãn khát vọng tinh thần, là cầu mong cuộc sống yên bình, ấm no, hạnh
phúc, là niềm tôn kính hướng về trời đất, hướng về các vị anh hùng có công với
nước, các vị khai khẩn lập làng, các vị khai canh, các vị khoa bảng làm rạng
danh tổ tiên. Đình Nại Cửu ngày xưa không chỉ là nơi tế tự, hành lễ mà còn là
trụ sở để các vị nhân sĩ, trí thức hội họp bàn định kế sách ích nước lợi nhà.
Từ ngôi đình làng này, bao thế hệ người dân Nại Cửu đã hun đúc được hồn thiêng
của ông cha, nguyên khí trời đất, tinh hoa của văn hóa làng được đúc kết qua
các tấm gương hiếu học, tiếp tục đóng góp nhiều công lao cho đất nước.
Như đã nói lễ hội Kỳ Yên ở đình Nại Cửu diễn ra ngày rằm
tháng bảy hàng năm. Ngày xưa ban tế lễ gọi là ban "Đại hào tộc biểu",
thường gồm các lý trưởng, các tộc trưởng, trùm xóm. Ngày nay ban tế lễ gọi là
hội đồng gồm các trưởng họ, đội trưởng sản xuất tiến hành họp để tổ chức các
bước lễ và phân công người phục vụ lễ, gồm:
- Chấp sự: gồm hai người đánh chiêng trống (phải là những
người đứng đầu làng có uy tín cao)
- Một tự chúc: Là người đọc văn tế
- Một tư văn xướng lễ: Là trưởng ban lễ tế
- Bốn tư xướng: (hai đông xướng, hai tây xướng)
- Sáu tư hiến: ở ba bàn, một bàn hai tư hiến
- 29 đồng hầu: đội múa đèn lúc hành lễ - có một đội trưởng
chỉ huy
- 16 cận vệ: (mang các thứ vủ khí giáo mác tượng trưng)
- 4 vị cầm tán để che trên kiệu rước thần
- Một chánh tế được che lọng xanh
- Hai bồi tế được che hai lọng xanh
- Hai chấp sự được che hai lọng xanh
- Một ban nhạc cổ gồm bốn người (một trống, hai kèn, một
sao)
Trước chiến tranh làng Nại Cửu có một kiến trúc văn hóa liên
quan đến lễ Kỳ Yên này có tên gọi là Nghè, nằm ở Bèng (vùng đất đầu làng Nại
Cửu, tiếp giáp với làng Bích Khê, xã Triệu Long), đây là nơi thờ các vị thần đã
nói ở trên (phần mô tả đền thờ, nay đã bị chiến tranh tàn phá). Trước khi đi
vào tế lễ Kỳ Yên có ba lễ: Lễ cáo giang sơn, Lễ giết bò lợn để cáo trời đất,
quỷ thần (cáo tế sanh) ở sân đình. Lễ thứ hai là lễ nghinh thần tiến hành
khoảng giờ mùi (2giờ chiều tại Nghè), thành phần tế lễ như trên.
Sau đó, Ban lễ lên tại Nghè để cáo nghinh đánh chiêng trống
rước thần về đình. Đi trước thần gồm có ba kiệu, có ba tàn vàng che. Trình tự
các kiệu được rước đi như sau:
Kiệu các vị tiền khai khẩn (trong kiệu có bảy bào vị)
Kiệu ngũ hành, Chúa Ngọc hồng nương tiên phi (có năm bài vị)
Kiệu thứ ba gồm hai bài vị (một bài vị sâu và một bài vị
cạn), bài vị sâu là "Cao các quảng độ đại vương và Thành hoàng", bài
vị cạn là "Thổ thần"
Ba kiệu này được rước đi từ Nghè trong tiếng chiêng, trống,
sao, kèn rộn rã trên những nẻo đường của thôn làng Nại Cửu.
Về tới đình, giờ Thân (bốn giờ chiều) ban tế tiến hành tế
túc yết (cáo sơ bộ). Lễ vật gồm bò hoặc heo (nguyên con) gọi là tế đại hiến, và
chỉ có đình làng Nại Cửu mới được tế đại hiến (Theo ý chỉ của vua Đồng Khánh)
còn các đình làng khác thì chỉ được phép tế tiểu hiến (thịt vai) hoặc trung
hiến (thịt đầu và bốn móng giò). Ngoài bò hoặc heo ra còn có thêm hương hoa,
quả, trầm, trà. Ở am thờ Khổng Tử ngoài sân thì cúng gừng muối.
Lúc "tế túc yết" vị tư chúc đọc bài văn tế có nội
dung như sau: (đây là một ví dụ một bài văn tế đình)
"Duy Bảo đại thập bát niên, tuế thứ Nhâm Ngọ thất
nguyệt thập tứ nhất (năm thứ 18 thời Bảo Đại, năm Nhâm Ngọ, ngày 14 tháng 7 Âm
lịch)
Đại Nam quốc, Quảng Trị tỉnh, Triệu Phong phủ, Bích La tổng,
Nại Cửu thôn.
Kim tế chủ, chánh tế cử nhân cập đệ, ngũ phẩm văn giai, hàn
lâm viện thị học, bản triều hình bộ tả chủ sự, tiên chỉ Lê châm.
Đồng hương xã, nam phụ lão ấu đẳng. Ngôn niệm, vũ thuận,
phong điền, an cư lạc nghiệp nhân kiệt địa linh, bao hàm chi đức. Tư giả bổn
nguyệt, khí nhật, thiết lễ cúng tạ thù ân.
Cẩn dĩ hương đăng hoa quả phù lưu, thanh chước bạch soạn,
phẩm vật thứ phẩm nghi ghi.
Hữu Cẩn Cung Tiến vu!
Cao các quảng độ gia tặng trung huy dực bảo trung hưng
thượng đẳng thần.
Bổn thổ tịnh hậu thành hoàng, gia tăng bảo dực trung hưng
thượng đẳng thần.
Ngũ hành sắc phong tán hóa, mặc vận thuận thành. Điều tư
tương nguyên trung huy dực bảo trung hưng thượng đẳng thần.
Chúa ngọc sắc phong nhàn uyển gia tặng dực bảo trung hưng
thượng đẳng thần.
Cai trì nam dương hầu Hoàng tôn thần
Cai tổng hùng thắng bá Phan tôn thần, bổn thổ chi thần.
Lục tộc tiền khai khẩn Lê, Nguyễn, Võ, Hoàng, Phan, Trần sắc
phong linh phù bảo ứng đại lang tôn thần.
Đinh gia hậu khai canh. Lê nhị vị quý công
Thị tùng nhất thiết, tả hữu chư vị thị vệ quí nhân. Phúc
nguyện hoàng thiên giáng phước, phước lưu vĩnh vĩnh vô cùng, hậu thổ thi ân
giáng miên miên bất tận. Hương dân thanh cát, trưởng ấu hòa bình. Trụ đông,
tây, nam, bắc chi tài; nạp xuân, hạ thu đông chi lợi.
Ngưỡng lại tôn thần phò trừ chi gia huệ giả.
Cẩm cáo!"
Tạm dịch:
"Năm thứ 18, Triều Bảo Đại, năm Nhâm Ngọ, ngày 14 tháng
bảy
Nước Việt Nam, tỉnh Quảng Trị, phủ Triệu Phong, tổng Bích
La, thôn Nại Cửu.
Nay chủ trương tế, ngài chủ tế là Cử nhân hàm ngũ phẩm văn
giai, chức này của Triều đình, làm trưởng phòng của Bộ hình là tiên chỉ Lê
Châm.
Cùng với dân làng già trẻ. Nghĩ rằng mưa thuận, gió hòa, an
cư lạc nghiệp, người giỏi đất thiêng là do cái đức của đất trời. Nghĩ vậy,
tháng này bày lễ cúng tạ báo ân.
Kính dâng hương, đèn, hoa, quả, cau trầu, nước trong, đồ
giấy, các loại phẩm vật không đáng kể để làm nghi lễ.
Kính cẩn cúng lên!
Thần cao các tên Quảng Độ (thời Lê Huy Tông) ban sắc phong
là thượng đẳng thần.
Ngài thần hoàng tên là Tịnh Hậu được phong là thượng đẳng
thần.
Năm vị tên ngũ hành cũng được phong là thượng đẳng thần.
Chúa ngọc (Huyền Trân Công Chúa) cũng được phong là thượng
đẳng thần.
Hồng nương tiên phi (vú nuôi Huyền Trân Công Chúa) được
phong thượng đẳng thần.
Ngài cai trị nam dương được phong thần.
Ngài cai tổng Hùng thắng bá được phong thần.
Sáu ngài khai khẩn sáu họ được phong thần.
Ngài họ Đinh là hậu khai canh.
Hai vị khai canh họ Lê (khai canh phường Nại Cửu thuộc xã
Triệu ái, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị).
Đi theo các vị thần có tả hữu các ngài thị vệ.
Trời ban phước xuống thì phước còn mãi mãi, đất làm ơn thì
ơn đất cũng mãi mãi không hết. Dân làng trong sạch, già trẻ hòa bình, nhận được
tiền tài bốn phương đưa lại và thu hoạch đều được cả bốn mùa.
Cúi mong các vị tôn thần giữ gìn và gia ơn.
Kính cẩn cáo nghênh!
Sau khi đọc văn tế xong, chánh tế và bối tế vái lạy, khấn
nguyện trước ba bàn thờ thứ hai, thứ ba, thứ tư (tức hai bàn thờ lục tộc và một
bàn thờ 11 vị thần) còn bàn thờ phía đông và phía tây không lạy. Tiếp theo
chánh tế và bồi tế, dân làng lần lượt vào ba bàn thờ trên để vái lạy với tất cả
sự tôn nghiêm và thần kính.
Sau tế Túc yết, ban nhạc cổ tấu nhạc các điệu “Lưu Thủy,
Hành Vân, Kim Tiền hoặc cổ bản”, đồng thời đội đồng hầu 29 người dưới sự chỉ
huy của một đội trưởng, mổi người cầm hai đèn hoa sen vừa múa, vừa hát một bài
hát có tên “Giang sơn cẩm tú”: “Nại Cửu giang sơn cho được lâu dài, tối sớm hôm
mai dân cư, dân cư được no ấm, tiền của đầy vơi, bình an vô sự, sinh sự mặc ai,
mặc ai. Nay sĩ tử mở mắt với đời theo kịp với người rõ mặt trai, mặt trai, đèn
văn minh soi khắp mọi nơi. Ơn vua là vua nợ nước, trên nhờ thần thánh phòng dữ
ách tai, ách tai, sinh sự mặc ai, mặc ai”. Nội dung bài hát ca ngợi đức tính
kiên trì, nhẫn nại của người dân làng Nại Cửu.
Trang phục của đội đồng hầu này là áo dài, quần trắng, thắt
lưng bằng lụa năm sắc còn bắt chéo qua vai, chân quấn xà cạp, đầu đội khăn màu
đỏ. Trong quá trình múa và hát giữu điệu hành vân, lưu thủy như mây trôi nước
chảy, đội đồng hầu múa và sắp thành tầng nhà lầu (nhiều tầng người chồng lên
nhau thành nhiều thang bậc) rồi toả xuống lộn hàng xà (lộn qua lộn lại), tiếp
đến là chạy khu ốc lớn nhỏ (chạy theo hình trôn ốc rồi sắp thành bốn chữ “Thiên
hạ thái bình” bằng chữ Hán. Lúc này ở trước hồ sen của đình làng có đốt pháo
hoa làm cho đêm tế lễ càng lung linh, kỳ ảo và thiêng liêng.
Về khuya dân làng tập trung trước sân đình thi hò giả gạo,
bên xướng bên hò đến là náo nhiệt để chờ đến giờ Tý, ban tế vào điện “tế tạ”
triệt soạn lễ tất.
Trình tự tế gồm các bước như sau:
- Xướng thị lập (tất cả đều đứng dậy)
Chấp sự giã các tư kỳ sự, tế viên dự chấp sự giả, các nghệ
quán tại sở (Các người đến chổ rữa tay)
- Quán tẩy (rữa tay)
- Thuế cân (lau tay)
- Khởi chinh cổ (đánh chiêng, trống).
- Cũ soát tế vật (soát lại lễ vật)
- Ế mao huyết
- Tả hữu hiến các tự vị (các vị hai bên tả hữu vào chổ)
- Bồi tế viên tự (chỉ vị bồi tế)
- Trung hiến tự vị (chỉ lễ trung hiến)
+ Chánh tế viên tự vị (chỉ vị chánh tế)
+ Phần hương, nghệ hương án tiền (đối hương ở tiền án)
+ Quì
+ Phần hương (đốt hương)
+ Thượng hương (đưa hương lên)
+ Phủ phục
+ Hương bái (hai lần cầm hương bái)
+ Hưng (đứng lên hai lần)
+ Bình thân phục vị (về tại chổ cũ)
+ Nghinh thần cúc cung bái (bái nghinh thần một cách cung
kính)
+ Hưng (lạy bốn lạy)
+ Bình thân
- Hành sơ hiến lễ (chuẩn bị lễ sơ hiến)
+ Tế viên các nghệ thần vị tiền
+ Các hiến chước tửu (rót rượu)
+ Cử thủ hoành mi (nâng ly rượu lên ngang mày), (lúc này
trống chiêng đổ hồi).
+ Tấn tước (đi chân chữ bát-các hiến)
+ Giai quì (quì vái một vái rồi đứng dậy)
+ Hiến tước (đặt rượu lên bàn thờ)
+ Các hiến hồi vị (các hiến về chổ)
+ Phủ phục (Hưng bái hai lần)
+ Bình thân
+ Phục vị
Xướng tiếp:
+ Độc chúc, nghệ đọc chúc vị (chỉ ba ông chánh tế)
+ Độc chúc viên nghệ giá chúc vị
+ Chuyển chúc (lấy văn trên bàn thờ xuống)
+ Giai quì
+ Đọc chúc (đọc văn tế)
+ Hoàn chúc (đặt văn lại trên bàn thờ)
+ Đọc chúc viên hồi vị (vị đọc văn về chổ)
+ Phủ phục
+ Hưng bái (hai lần, hai lạy)
+ Bình thân
+ Phục vị
- Hành á hiến lễ, hành chung hiến lễ (hai lễ này cũng gồm
những bước như sơ hiến lễ)
Phần lễ tạ:
+ Ẩm phước nghệ ẩm phước vị (chỉ một mình chánh tế)
+ Quì
+ Ẩm phước (lấy một chén rượu đưa chánh tế uống)
+ Thụ tộ (ăn một lát thịt vai họăc cau trầu)
+ Phủ phục
+ Hưng bái (hai lần)
+ Bình thân
+ Phục vị
+ Tiến trà (dâng trà)
+ Tống thần cung bái (lễ bái tiển các thần)
+ Hưng (bốn lạy)
+ Bình thân
+ Phân bái
Xướng tiếp
+ Hương trưởng
+ Quan viên chức sắc
+ Lão hàm
+ Lão dân
+ Ba hạng
(mời các vị thuộc thành phần trên vào lạy)
+ Phục vị
+ Lễ từ cúc cung bái (bốn lạy)
+ Bình thân
Phần bạch soạn ( đốt vàng và văn sớ)
+ Triệt soạn (hạ đưa)
+ Lễ tất (hết lễ)
Lễ hội Kỳ Yên ở đình Nại Cửu cứ ba năm mới tế to một lần còn
các năm khác thì tế thường (tế chay), lễ vật cũng đơn giản chỉ là hương, hoa,
trầm, trà, rượu, hoa quả mà thôi. Ngày xưa sau đêm lễ có rất nhiều trò chơi như
thi thổi cơm, thi đua thuyền, thi chọi trâu, hội thi chọi gà, hội thi kéo co,
thi bơi trãi, thi vật, thi cày, thi cuốc đất khô…
Hội thi thổi cơm dành cho phụ nữ có con nhỏ dưới một năm
tuổi. Người phụ nữ này là đại diện xuất sắc đã qua vòng sơ tuyển của xóm. Trước
lúc đi vào cuộc thi, ban tổ chức vạch sẳn một vòng tròn cho từng người (đường
kính vòng tròn khoảng một mét), chính giữa tâm vòng tròn có cắm một cọc. Người
ta dùng một sợi dây dài hơn một mét buộc một đầu vào cọc, còn đầu kia buộc vào
một con cóc khoẻ. Bước vào cuộc thi, người phụ nữ một tay vừa bồng con dại đang
khóc vì đói sữa, tay kia giữ cho con cóc không nhãy ra khỏi vòng tròn, đồng
thời tiến hành thổi một nồi cơm nếp ở trong niêu đất đun bằng rạ (sau này thì
bằng bã mía). Người nào nấu xong nồi cơm nếp chín trước mà con cóc không nhãy
ra khỏi vòng tròn, người đó thắng cuộc. Hội thi này thể hiện tính đảm đang,
chịu thương, chịu khó của người phụ nữ trong việc nội trợ gia đình.
Hội thi đua thuyền thì gồm một xóm một chiếc ghe trang trí
kiểu thuyền rồng. Mỗi thuyền gồm chín thanh niên mạnh khoẻ, quen sông nước,
trong đó có một thuyền trưởng cầm lái, còn lại tám người cầm bơi chèo. Trang
phục của các đội không giống nhau, tuỳ theo sở thích thiết kế. Khi nghe tiếng
trống, các đội dàn hàng ngang từ điểm xuất phát bước vào cuộc đua. Ai về đích
trước thì thắng cuộc.
Hội thi chọi trâu thì chọn khoảnh đất bằng phẳng có dựng
hàng rào bao quanh kiên cố. Những con trâu được chọn vào cuộc đấu là những con
trâu đực to khoẻ, bộ sừng vuốt hình vòng cung được chuốt nhọn ở đầu sừng. Khi
nghe tiếng lệnh, hai chủ trâu sẽ thả trâu của mình ra đấu trong ba hiệp; trống
thúc liên hồi, tiếng cổ vũ náo nhiệt, để kích thích sự hăng máu của chúng. Con
trâu nào thắng hai hiệp thì thắng cả trận, nếu hoà hai hiệp đầu thì vào chung
kết.
Hội thi chọi gà cũng lắm công phu. Trước ngày vào hội, các
chủ gà thường săn sóc gà chọi rất kỹ lưỡng cho nó ăn, tẩm bổ chế độ cao, dùng
rượu có pha mã tiền nắn bóp đầu, ức và đôi chân, cựa gà được vuốt nhọn và
thường có những cuộc đấu tập dợt để rèn cho nó tính can đảm, khả năng chịu đòn
cao. Thể lệ thi đấu cũng đơn giản, một vòng tròn được vạch ra, hai chú gà đấu ở
vòng tròn đó, con nào ra khỏi vòng coi như thua.
Bên cạnh những hội thi trên có một số hội thi khác như thi
kéo co, thi vật, thi cày, thi cuốc đất khô… nhưng ngày nay do hoàn cảnh sống có
những đổi thay nên những trò chơi ấy không được duy trì nữa, và chúng tôi không
thể kể hết ra đây được. Đây quả là điều đáng tiếc vì những cuộc thi này không
chỉ nhằm giải trí, giải toả những mệt nhọc sau những ngày tháng lao động vất vả
của người dân mà còn là sự giao lưu trí tuệ, tình cảm con người, cố kết thêm
mối quan hệ cộng đồng bền vững.
Lễ hội Kỳ Yên trước hết là một tín ngưỡng, thể hiện niềm
khát vọng về một cuộc sống yên bình, ấm no, hạnh phúc. Nó cũng phản ánh một đời
sống tâm linh hết sức phong phú của dân làng Nại Cửu đúc kết thành một chữ đạo với
tất cả ý nghĩa nhân bản nhất của từ này: thành kính, hướng vọng về tổ tiên, về
cội nguồn khởi phát làng, biết ơn những vị anh hùng có công với quê hương, đất
nước, kính trọng và sùng bái những vị khoa bảng mang lại tiếng thơm muôn thưở
làm rạng danh hậu thế. Lễ của làng chắc chắn sẽ thấm sâu vào máu thịt từng con
người biến thành chữ lễ trong bản thân họ, một phẩm chất không thể thiếu được
trong “ngũ thường” (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín) mà đạo đức học phương Đông đã
dạy. Hơn thế nữa, lễ hội Kỳ Yên này còn là một sinh hoạt văn hoá tinh thần lành
mạnh làm phong phú thêm bản sắc con người làng Nại Cửu giúp họ vững tâm hơn
trước sóng gió cuộc đời, chống lại một cách có hiệu quả nguy cơ của những sản
phẩm văn hoá độc hại, tư tưởng lai căng sùng ngoại, lối sống thực dụng từ trong
mặt trái của cơ chế thị trường.
Đất nước ta ở vào giai đoạn đổi mới toàn diện, đang ở trong
quá trình mở cửa, giao lưu, hội nhập với văn hoá thế giới thì vấn đề khôi phục
và giữ gìn một lễ hội dân gian với tất cả những yếu tố tích cực của nó là một
việc làm có ý nghĩa thiết thực, nhân bản và đó chính là một trong những cách để
bảo vệ và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Lễ Kỳ Yên ở đình Nại Cửu hàng năm cứ
được diễn ra, từ đây biết bao con người của thôn làng Nại Cửu đã thành danh
trên nhiều lĩnh vực và hàng năm vào ngày rằm tháng bảy dù ở đâu, bận rộn công
việc gì cũng đều cố gắng tìm về cuội nguồn, thắp nén nhang cầu nguyện trước bàn
thờ tổ tiên. Đó cũng chính là đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam
ta. Vì thế, đứng về phương diện văn hoá học, lễ hội Kỳ Yên ở đình làng Nại Cửu là
nên duy trì và phát triển những yếu tố tích cực của nó, vì đó là niềm tin, niềm
khát vọng hết sức trong sáng của dân Nại Cửu và cũng rất phù hợp với đường lối
văn hoá mới của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên ở đây phần lễ thì nhiều nhưng
phần hội hầu như không còn, nên chăng cần khôi phục các trò chơi như đã nói
trên và có thể thêm phần sinh hoạt văn nghệ quần chúng sau khi hành lễ để góp
phần phong phú và nâng cao đời sống văn hoá tinh thần người dân.
Trần Quang và Lê Văn Hà
Nguyễn Hồng Hiến (người làng Nại Cửu) gởi đăng.
chuyenluan2008@yahoo.com