VỀ TÊN GỌI CHÙA LINH MỤ
Lê Quang Thái
Có phải tên gọi Thiên Mụ mới đúng, Linh Mụ là sai? Vì sao
người này gọi là Linh Mụ, người kia lại gọi Thiên Mụ? Vậy sự thật về tên gọi
ngôi chùa này như thế nào?
“Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương”.
Đó là hai câu ca dao mà mẹ tôi thường hò mỗi khi ru cháu ngủ.
Ngày trước, có lần mẹ nói với tôi: “Khi mới về làm dâu, mẹ thường hay hò “Gió
đưa cành trúc la đà, tiếng chuông Linh Mụ canh gà Thọ Cương”*. Một bác hàng xóm
nghe vậy, nói với mẹ: Chị hò như vậy là sai rồi. Thiên Mụ mới đúng và Thọ Xương
chứ không phải Thọ Cương. Từ đó mẹ nghe theo bác ấy nhưng không biết đúng sai
thế nào”. Lúc ấy tôi cũng chẳng để ý gì đến lời nói đó của mẹ tôi.
Gần đây, trên diễn đàn báo chí có luận bàn nhiều về tên gọi
chùa Linh Mụ, khiến tôi nhớ lại lời mẹ ngày trước mà đi tìm lại sách vở tra cứu.
Có phải tên gọi Thiên Mụ mới đúng, Linh Mụ là sai? Vì sao
người này gọi là Linh Mụ, người kia lại gọi Thiên Mụ? Vậy sự thật về tên gọi về
ngôi chùa này như thế nào?
Chùa Thiên Mụ vốn có từ lâu đời, vào buổi hừng đông của xứ
Thuận Hóa. Năm 1555, khi sách Ô Châu cận lục ra mắt bạn đọc thì chùa đã là một
ngôi phạm vũ nổi tiếng ở vùng đất này. Lúc đó Thiên Mụ chưa phải là quốc tự. Thời
bấy giờ cõi Hóa Châu có hai ngôi danh lam nổi tiếng, đó là chùa Sùng Hóa ở làng
Lại Ân (không phải Triêm Ân), và chùa Thiên Mụ ở đồi Hà Khê. Tên gọi chùa
“Thiên Mụ” đã được tiền nhân nghĩ ra và viết thành văn tự.
Hiện chưa tìm ra sử liệu nói rõ cụ thể chùa Thiên Mụ được đặt
tên vào năm nào, vì thời ấy quan hệ Việt – Chăm còn chưa mật thiết. Nhưng điều
chắc chắn là sự kiện này không xảy ra dưới thời chúa Nguyễn Hoàng đến thăm chùa
vào năm Tân Sửu, 1601 mà phải trước thời gian đó ít nhất là trên 250 năm, kể từ
khi Hoá Châu thuộc về người Đại Việt vào năm 1307. Bởi cứ vào một số tài liệu
hiện nay, ta được biết, trước năm 1306, trên đất Hà Khê cũ đã có đàn, miếu của
người Chàm, về sau người viết mới dựng chùa Việt ở trên đó. Như vậy, chùa Thiên
Mụ sau năm 1307 không phải do người Chàm lập và đặt tên như một số người đã nhận
định thiếu căn cứ.
Cũng cần nói thêm rằng, Hà Khê là một ngọn đồi mà người
Chàm, người Trung Hoa, người Việt, và kể cả người Tây phương đều khẳng định đó
là một ngọn núi thiêng. Mãi đến sau này vua Gia Long mới cho đổi tên thành
Thiên Mụ sơn, do vậy chúng ta không nên nhầm lẫn tên núi với tên chùa.
Vì sao chùa có tên là Thiên Mụ?
Tương truyền, ngày xưa có một Bà già ở trên trời thường hiện
xuống ở đồi Hà Khê để nghe chuyện thế sự nhân tình và giúp dân. Có người nói đó
là Bà Tiên, Bà Chúa Ngọc, Bà Giàng, Bà Trời, Bà già Trời, thậm chí là Đức Bà, bậc
mẫu nghi thiên hạ có quyền năng chuyển hóa con người hướng thiện. Bà là một
trong nhiều hiện thân của Đức Quán Thế Âm cũng là một cách nói. Do đồi Hà Khê
có Bà Trời linh thiêng như vậy, nên khi đến trấn nhậm Thuận Hoá, chúa Nguyễn
Hoàng đã “mượn” Bà làm huyền thoại trong việc xây dựng sự nghiệp đế chúa của
ông.
Để tỏ niềm tôn kính, người Huế ngày xưa đã gọi Bà Trời ấy bằng
“Mụ”. Thiên Mụ có nghĩa là Bà Tiên hay Bà nhà Trời. Người Tây phương đã có chút
gặp gỡ với người Phương Đông khi gọi bà mụ là Sage femme, có nghĩa là mụ đỡ, vừa
là người đàn bà minh triết, thường chỉ dạy đạo lý và giúp đỡ con người.
Mụ là chữ Nôm, có nghĩa thông thường là “bà”, “bà già”. Người
đàn bà lớn tuổi có chồng, không chồng hay chưa chồng, người Huế đều gọi là Mụ.
Em gái của cha, dù còn ở độ tuổi trăng tròn, vẫn được người miền Trung gọi bằng
“cô”. Lên thêm một đời, ngang hàng ông nội thì người đàn bà ấy dù trẻ tuổi vẫn
được gọi bằng “Mụ Cô Bà”. Từ “Mụ” còn biến nghĩa tùy theo văn cảnh. Người Huế
đôi khi dùng từ “Mụ Đầm” để gọi các “Bà Tây”, có pha đôi chút hài hước.
Thiên Mụ cũng có khi được đọc là Thiên Mỗ hay Thiên Mộ. Một
chữ Mụ mà có ba cách đọc khác nhau: Mụ, Mỗ và Mộ, đọc âm nào cũng được, không
sai. Dựa vào bản gốc chữ Hán sách Ô Châu cận lục do Tiến sĩ Dương Văn An hiệu
đính (không phải biên soạn), các học giả xưa nay đã phiên âm theo cách riêng của
mình. Năm 1960, Cử nhân Hán học cũ Bùi Lương phiên âm tên chùa Thiên Mụ là
Thiên Mỗ; năm 1997, viện Hán Nôm phiên âm là Thiên Mụ, còn trong dân gian vẫn
có người gọi là Thiên Mộ. Năm 1965, tôi từng nghe các cụ ở Tổng hội Cổ học Việt
Nam nói “tên chùa Thiên Mụ đọc là Thiên Mộ cũng được, không sai”.
Các nhà nghiên cứu văn hóa Huế của Hội Đô Thành Hiếu Cổ giai
đoạn 1913-1944 lại thích gọi tên chua Linh Mụ là Thiên Mẫu, điển hình là công sứ
Pháp A. Bonhomme và nhà nghiên cứu Léopold Cadière. Tiếc rằng vào thời gian 40
năm đầu thế kỷ 20 về trước, không thấy tác giả nào lên tiếng về việc tên mới được
đặt cho ngôi quốc tự cổ kính và lớn nhất ở chốn thiền kinh này.
Không những thế, dưới triều vua Thành Thái, các nhà nghiên cứu
Pháp lại đặt tên cho chùa Linh Mụ là chùa Khổng Tử (pagode de Confucius) và
cũng đã gọi tháp Phước Duyên là tháp Khổng Tử. Sở dĩ có sự nhầm lẫn đáng tiếc
này là vì cách chùa Linh Mụ khoảng hơn 100 mét (theo số liệu phỏng chừng thời bấy
giờ) có Văn Miếu thờ đức Khổng Phu Tử và Võ Miếu ghi công trạng các danh tướng
triều Nguyễn mà có vị đã đỗ Tiến sĩ Võ dưới triều vua Tự Đức. Rất may là sau đó
tự họ đã đính chính lại sai lầm này.
Còn trong dân gian, có nhiều người gọi tên chùa Linh Mụ là
chùa “Thiêng Mụ”. Họ cho rằng vì chùa này rất linh thiêng nên gọi tên chùa là
Thiêng Mụ. Dân gian có cách nói nôm na của họ, có lẽ ở đây chúng ta không cần
phải bàn chuyện đúng sai.
Theo chúng tôi, do “uống nước sông Hương” mà người Tràng An
có giọng nói không giống với các nơi khác, nên đã nói chữ “Thiên” thành
“Thiêng” (nhưng lại viết Thiên). Từ “Thiên” được phát âm biến trại thành
“Thiêng” (có “g” ở đằng sau), chứ không phải vì linh thiêng mà gọi là Thiêng Mụ.
Do không có con, vì mục đích cầu tự, vua Tự Đức đã hạ lệnh
“kiêng” dùng chữ “Thiên” . Chùa Thiên Mụ được chính thức đổi tên thành Linh Mụ
vào năm 1862. Bảng hiệu đề tên chùa còn ghi rõ 3 chữ hán Thiên Mụ Tự treo cao ở
Nghi Môn sau tháp Phước Duyên:
“Tiếng chuông Linh Mụ gió ngân nga
Thọ Xương văng vẳng lắng canh gà”.
(Vân Bình
Tôn Thất Lương)
Nghiên cứu sự đổi tên ngôi quốc tự nổi tiếng nhất thần kinh
này lẽ ra là công việc của người nước ta. Nhưng không ngờ người thực hiện lại
là Léopold Cadière, một linh mục người nước ngoài. Ông đã tìm hiểu sự kiện này
rất kỹ. Theo ông, vào tháng giêng niên hiệu Tự Đức thứ 15 tức vào tháng 2 năm
1862, tự thân nhà vua trực nhận rằng “Chữ Thiên và Địa là cao quý, ban lệnh
không được dùng những chữ ấy nữa để tỏ lòng tôn kính trời đất”, ngoại lệ tên gọi
“Khâm Thiên Giám”, “Thiên Văn Đài” và “Thừa Thiên Phủ” thì khi viết chữ “Thiên”
phải chừa một khoảng “trống”.
Bộ lễ tâu xin đổi tên gọi Thiên Mụ bằng “Tiên Mụ” Vua Tự Đức
cho cải đổi chữ “Thiên” hoặc “Tiên” bằng chữ “Linh” cho hợp lý, hợp nghĩa, hợp
vận. Học thuật xưa đòi hỏi người nghiên cứu phải cẩn trọng vì “Cơm áo không đùa
với khách thơ”. Vì thế mà bến đò Thiên Lộc và làng cùng tên đã được đổi thanh
tên mới Thọ Lộc, làng Thiên Tùy ở huyện Phú Vang được đổi thành Xuân Tùy, chùa
Thiên Ấn (cách chùa Thiên Mụ khoảng 500m) được lấy tên mới Từ Ân, thậm chí tên
xóm Thiên Hóa (ở phía sau chùa Tường Vân hiện nay) được đổi thành Xuân Hóa.
Sau 7 năm thi hành quyết định, cuối cùng nhà vua vẫn không
thể có con. Từ đó vua đã cho “tảng lờ” việc thay đổi tên chùa Thiên Mụ thành
Linh Mụ. Biểu hiện của chùa vẫn được duy trì ở gian giữa Nghi Môn, với ngầm ý
cho phép chùa có hai tên gọi Thiên Mụ hoặc Linh Mụ. Từ đó về sau các sử thần
nhà Nguyễn được tùy nghi dùng hai từ “Thiên Mụ” và “Linh Mụ” trong sử sách và
các văn bản khác của nhà nước. Văn bia ở chùa Linh Mụ do vua Khải Định dựng lập
vào niên hiệu thứ 4, 1920 đã chứng minh điều đó: cả hai chữ Linh Mụ và Thiên Mụ
được dùng lẫn lộn tùy theo nghĩa lý từng câu, từng đoạn.
Chẳng hạn: Phần trên của bài Minh là văn xuôi, ghi: Sắc kiến
tự phụng Phật mệnh danh Thiên Mụ sơn Linh Mụ tự. Nghĩa là: Ban sắc dựng chùa
Linh Mụ ở núi Thiên Mụ. Nhưng phần cuối của bài minh lại để lời ngự chế của vua
Khải Định, trong đó có hai câu:
Thiên Mụ danh lam giá vãng lai,
Đăng lâm hà dị đáo Thiên Thai.
Nghĩa là:
Xe giá tìm thăm Thiên Mụ chơi,
Trèo lên nào khác tới Thiên Thai.
Tóm lại, chùa Linh Mụ có nhiều tên gọi: Thiên Mụ, Thiên Mỗ,
Thiên Mộ, Linh Mụ, Thiên Mẫu... trong đó Thiên Mụ và Linh Mụ là hai tên gọi phổ
biến. Và mặc dù gọi tên chùa là Thiên Mụ và Linh Mụ đều đúng, nhưng tên “chùa
Linh Mụ” hầu như đã thấm sâu vào tâm khảm của người dân Huế từ 145 năm nay. Cố
Trưởng lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, người từng giữ chức Tăng Cang chùa lâu
năm, được Phật tử và quần chúng Huế quen gọi là Ôn Linh Mụ, không ai gọi là Ôn
Thiên Mụ. Trong việc biên khảo, thiết nghĩ chúng ta nên theo dòng chảy của lịch
sử mà gọi tên chùa qua từng thời điểm cho chuẩn mực là tốt nhất. Thiên Mụ, Linh
Mụ là hai tên gọi vừa chính thống, vừa thân thương đã song hành đi vào thơ ca,
thấm sâu vào lòng dân chúng chỉ vì Thiên Mụ là tiền thân của Linh Mụ mà thôi.
L.Q.T
Nguồn: lieuquanhue.vn, 08/07/2009.