Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Wednesday, December 11, 2019

ĐÃNG TRÍ - Thơ Trần Mai Ngân



             Nhà thơ Trần Mai Ngân


ĐÃNG TRÍ

Tháng Mười Hai em gọi là chiêm bao
Tháng Mười Hai em ôm hết ngọt ngào
Của anh, của em và cả Sài Gòn
Của trời cao, của gió lộng mây mưa...

Tháng Mười Hai ôm hết... lòng sao vừa
Để mộng lành say buổi trưa hôm ấy
Trời Sài Gòn bỗng sao mà cao vậy
Cứ xanh lơ cứ vời vợi trên cùng...

Tháng Mười Hai nắng nhạt... trời lạnh lùng
Ai sẽ khóc sẽ cười khi chia cách
Nghe lá và hoa ngồi lê đôi mách
Rằng chúng mình tại sao phải chia tay...

Tháng Mười Hai nhàn nhạt những men cay
Cứ rót mãi vào đời còn đắm đuối
Chuyện sau trước buồn vui xin cất giữ
Đem theo mình về chín suối ngàn sau...

Tháng Mười Hai ơi xin hãy qua mau
Không quên nhớ một tình yêu đãng trí!

                                   Trần Mai Ngân
                                      2-12-2019

READ MORE - ĐÃNG TRÍ - Thơ Trần Mai Ngân

TẢN MẠN TÂM SỰ QUA THEO DÕI MỘT CUỘC TRANH LUẬN - Lê Nghị

Tác giả Lê Nghị


   
                  


TẢN MẠN TÂM SỰ QUA THEO DÕI 
MỘT CUỘC TRANH LUẬN

Lê Nghị

Cuối tuần được đọc các ý kiến thân hữu tranh luận xung quanh hai cụm từ “miên trường” và “bóng tà huy bay” thấy vui, mở rộng thêm kiến thức, nghe được thông tin nhiều chiều. Thật ra những bài này cũng tương tự nhiều bài khác, mình đã đọc vài lần, nhưng không bình luận. Lý do không phải sợ mất lòng một phía mà sợ bị ném đá từ cả hai phía. Hi,hi. Nhưng đã trình bày thì thật lòng, hiểu sao nói vậy, quý ACE thông cảm.

1. Những hiện tượng bất quy tắc trong tiếng Việt:

-Tiếng Việt cũng có bất quy tắc chứ không riêng một ngôn ngữ nào. Ví dụ tiền tố “bất” đặt trước một tính từ hay động từ hàm nghĩa phủ định, trái nghĩa với từ theo sau: bất nhã, bất động, bất lịch sự….

Vậy mà: Thình lình hắn hiện ra = bất thình lình hắn hiện ra. Thình lình = bất thình lình.

-Ta đánh thắng quân Mông = Ta đánh bại quân Mông. Thắng =  bại!

Có ai thắc mắc đúng sai đâu?

- Thêm vào đó tôi hát nghêu ngao: “đi lang thang khuya lắc khuya lơ, đèn nhà ai tắt sớm.” cả thiên hạ ai cũng hát vậy. Một ngày tôi tự dưng hỏi mình: Kỳ quá ta, chơi khuya thì nhà người ta tắt đèn là đương nhiên sao gọi là sớm. Bạn tôi bảo: hơi đâu mà để ý các ca từ Bolero, ý nói ca từ của người bình dân! Tôi cười vặn lại:
- Thế còn ca từ này, bài hát đẳng cấp đấy: “Khung cửa sổ hai nhà cuối phố, không hiểu vì sao chẳng khép bao giờ”.
- Có vấn đề gì? Chuẩn!
-Trời ạ, xưa nay cánh cửa mới khép mở, chứ khung cửa thì cố định chứ có khép mở bao giờ?
Có lần đang nhậu, anh bạn tôi hát một bài của Phạm Duy, phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên:

Người từ trăm năm về khơi tình động
Ta chạy vòng vòng, ta chạy mòn chân
Ngã xuống bên đường đời
Sợi tóc vương chân người.

Đột ngột anh dừng lại và bình: “Tuyệt! tìm lại cuộc tình, chỉ sợi tóc xưa yêu mà vấp ngã”. Tôi thấy cũng hay, ý khác tôi. Vì tôi lại hiểu rằng người chạy ngã xuống bên đường, thiên hạ hững hờ đi qua, sợi tóc vướng chân, chẳng ai quan tâm. Sự khác nhau giữa hai người là chỗ hiểu sợi tóc đó của ai, của người chạy kiệt sức ngã xuống, hay của ai đó người chạy vấp phải. Cãi nhau làm gì, có gọi bác Nguyễn Tất Nhiên hỏi được không?

Tôi tự nghiệm ra rằng ngôn ngữ là sản phẩm của cộng đồng, bao gồm cả ngữ pháp lẫn từ ngữ. Thoạt tiên ai đó nói ra một từ, trong một cách dùng, cộng đồng nghe và chấp nhận và sử dụng. Ngôn ngữ có sinh mệnh: phát sinh, phát triển, biến đổi. Từ trực quan đặt tên một bộ phận bên ngoài: bụng. Đi sâu vào cái nằm bên trong: ruột. Trừu tượng hóa thành lòng. Cứ mỗi âm vị là hình vị để tạo ra từ mới đi kèm: tốt bụng, xấu bụng, ruột rà, thẳng ruột ngựa, lòng lành, lòng tốt. Từ ruột nhảy một cấp thành tim, từ tim biến thành tâm khi giao lưu ngôn ngữ. Một loạt từ ngữ sinh ra từ hình vị tâm: tâm sự, tâm tình… Giả định từ xa xưa sắc tộc Việt trên đường thiên di đến Hoa Nam bị đột biến gien thành người Hoa Nam. Do thiên nhiên cũng có thể do sở thích, phát khó khăn âm tim, hay để phân biệt tiếng mỗi vùng họ trại thành âm/ tâm/ Người Việt phát âm được tim và tâm, thôi thì dùng âm /tâm/ cho cả hai bên cùng hiểu. Còn tim thì nói riêng với sắc tộc mình mà thôi. Cũng giống như người Quảng Nam khi nói chung với người cả nước họ phát âm/ đi làm/ nhưng trong tỉnh thì nói/ đi lồm/. Thế rồi tâm lại nhảy lên tới đầu: tâm trí. Khi tiếp xúc với đạo Bụt (buddar), thấy có khái niệm hình như là bản thể mọi hiện tượng, thôi thì gọi là Tâm cho xong. Hết chỗ nhảy lên rồi, đòi nhảy nữa thì nó vọt ra khỏi cơ thể, khỏi cõi người.

Một từ được dùng có thể sống lâu có thể chết yểu, nó tùy thuộc vào cảm thụ của cộng đồng sử dụng ngôn ngữ đó. Lê Thánh Tông có câu:

Nhè nhẹ thuyền ai bến liễu dời
Lam am nghìn dặm nhuộm da trời

Câu thơ hay nhưng ngày nay không thấy ai dùng từ: lam am nữa. Có thể thay bằng xanh xanh, trong xanh, biếc xanh…

Lúc trước, khi có một thông tin chưa chính thức người ta nói nghe “phong thanh”. Nhưng bây giờ rất nhiều người dùng “phong phanh”. Không kể đến trường phái vọng Hán của An Chi, có nhà giáo kết luận để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt phải quay lại từ gốc phong thanh? Đó không phải là sự cưỡng bức, áp chế ngôn ngữ phát triển sao? Không hiểu ai đó viện lý do gì khi dùng phong phanh, riêng tôi khi nghe cái âm phong phanh, thì lập tức trong đầu hình dung tiếng gió đập phành phạch, lúc to lúc nhỏ, không lần nào giống lần nào, tạo cảm giác thông tin chưa rõ ràng. Mặc dù biết nghĩa gốc tôi vẫn chọn phong phanh là âm mới thay cho một âm cũ cùng một khái niệm. Nếu cần tôi vẫn viết: phong phanh, ai có chê dốt đành chịu.

Lần đầu nghe con tôi nói “dân đi phượt” tôi hỏi: phượt là cái gì? Tự điển làm gì có từ phượt? Sao không chọn một âm nào nghe thuận tai lại chọn một âm nghe nặng nề xa lạ? Vậy mà hơn 15 năm có thấy ai thay từ theo ý tôi đâu? Cộng đồng chấp nhận, ngôn ngữ là sản phẩm của chung chứ đâu phải theo cảm giác của tôi!?

Nhiều khi ta tự mâu thuẫn. Một mặt ta ca ngợi sự sáng tạo cách dùng một từ ngữ, một mặt ta lại đem nghĩa gốc, từ gốc xửa xưa để thẩm định đúng sai của cách dùng hôm nay !? Có thể nào sửa câu: “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” thành “chữ ruột/ lòng kia mới bằng ba chữ tài” được không? Được tất, không khác nghĩa. Nhưng lựa chọn của cộng đồng lại là chữ tâm.

Có lần tôi trình bày cách hiểu của mình về bài Diễm XưaKhúc Thụy Du. Trước hết về bài Khúc Thụy Du. Cặp vợ chồng là nhạc công và ca sĩ nghiệp dư. Người vợ không hiểu Thụy du là gì? Hỏi chồng giải thích cũng giống như mộng du. Cô vợ cãi lại mộng du là một chứng rối loạn tính cách, đem nó dùng cho một bài hát nghe cũng kỳ lắm, anh giải chưa thông. Anh chồng bực mình mắng: dốt, không biết thì dựa cột mà nghe. Cô vợ ấm ức điện thoại hỏi tôi. Tôi bảo đưa điện thoại tôi hỏi lại chồng em. Thế là anh ta nói: thụy là ngủ sâu, là chết. Đoạn mở đầu:

Hãy nói về cuộc đời
Khi tôi không còn nữa

Vậy mà tôi giải thích bã không chịu nghe! Anh giải cho bã nghe đi.!

Tôi trả lời: thui, cho tui xin. Ông bà thấy bản nhạc hay thì ông đàn cho hay, bà hát cho hay là khán giả vỗ tay, chứ khán giả có hỏi ông bà tiêu đề có nghĩa gì đâu mà cãi. Muốn hỏi chính xác thì hỏi nhạc sĩ Anh Bằng í. Chính xác hơn nữa thì hỏi nhà thơ Du Tử Lê.

Câu truyện chấm dứt ở đó. Nhưng riêng tôi thì thấy Thụy là tên gọi người yêu trong cuộc tình không thành, có lẽ hợp với một bản tình ca. Đoạn cuối có viết: “cắt đứt cuộc tình đầu, Thụy bây giờ về đâu?”. Câu đó xác định rõ Thụy là tên tượng trưng người yêu đầu. Thế còn du? Là tên tác giả bài thơ mà! Khúc Thụy Du là khúc nhạc dành cho chuyện tình của Thụy và Du. Tác giả bài thơ là Du Tử Lê. Hiểu như tôi cho khỏi nhức đầu. Nhưng âm hưởng thụy du khiến người nghe liên tưởng đến giấc mộng và cõi hư vô, cũng không có gì tôi phải cãi.

Diễm Xưa, khi còn ở trung học, tôi nghe các anh chị lớp trên giảng là nét đẹp mùa thu ngày xưa. Một kiểu hoài cổ giống như: dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo, nền cũ lâu đài bóng tịch dương của bà huyện Thanh Quan. Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ là cảnh mưa rớt trên một đền đài tạo nên một cảnh đẹp mà buồn…

Nhưng khi lớn lên tôi liên hệ các câu tiếp : dài tay em mấy thuở mắt xanh xao , nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ, đường dài hun hút cho mắt thêm sâu… Tôi quyết định đi theo cách cảm thụ của mình. Bài hát nhắc tới cô Diễm ngày xưa, có thể là người yêu mình. Cũng có thể tả khách quan một cuộc tình khác. Bây giờ cô ây vẫn mong ngóng người mình yêu vì lý do gì đó ra đi chưa trở lại. Diễm là tên tượng trưng, gọi Kiều xưa cũng chẳng sao. Lời ca mở đầu nhắc, mắt, tay, gót. Cái đẹp của quá khứ khó mà có những bộ phận đó. Vậy tầng tháp cổ là gì? Là cái cổ ngóng mãi người về nên cao như một tầng tháp. Mưa chính là nước mắt, mắt ở trên cổ nên nước mắt rơi ướt cổ. Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ tạm hiểu là chắc em khóc nhiều như lá rụng trên con đường mòn thuở nhỏ. Mong giang tay đón người yêu về đến nỗi tay cũng dài theo năm tháng, dõi theo con đường mất hút bóng người yêu làm cho cặp mắt sâu thêm.

Đối với tôi, cho rằng đoạn ca từ mở đầu gợi lên nét đẹp xưa là vô nghĩa. Nhưng ai đó liên tưởng theo hướng trên hoặc hướng khác, họ có cảm thụ riêng của họ, có lý giải riêng của họ, mình không thể tranh cãi. Ở đây chỉ muốn nói thêm vào thập niên 1960, người ta quen nói Đào, Mận ngày xưa…nhưng nay ta lại nghe quen Nga xưa, tôi xưa, em xưa …bỏ bớt chữ ngày rất tự nhiên. Ngôn ngữ được sáng tạo, biến đổi là vậy. Khác với Bùi Giáng, Trịnh Công Sơn sáng tạo ở cách dùng từ cũ để tạo ra một khái niệm mới chứ chưa thấy làm ra một từ lạ lẫm như cụ Bùi. Nhạc tình của họ Trịnh khơi dậy những tâm sự đã lắng đọng trong tiềm thức, tuổi quá trẻ thì ít trải nghiệm có thể cảm nhạc ông nhưng không nhiều, cũng không sâu sắc. Từ trung niên trở lên mới thấy nhiều đồng cảm. Còn cụ Bùi, là phù thủy ngôn từ, thực và bóng, ảo và hư chẳng biết đâu lần. Đặc biệt ông tạo ra từ mới chắc chỉ mình ông hiểu rõ, như tôi thì hiểu mang máng, thích thì bắt chước ông vậy thôi.

Do đó tôi có thói quen khi đọc một bài thơ, lắng nghe âm hưởng của nó, nếu tự nhiên nó làm tim tôi rung động thì tôi yêu thích. Tiếp đến tôi cố gắng hiểu tác giả muốn nói gì khi sử dụng từ ngữ chứ không đánh giá tác giả dùng đúng hay sai, chuẩn hay lệch một từ ngữ. Bởi vì tôi không là tác giả, không thật sự hiểu lý do tác giả chọn từ. Nếu bài đó không làm tôi rung cảm thì tôi không quan tâm, nếu khiến tim tôi rung động thì tôi có thể nhẩm lại câu mình đắc ý. Tôi nhớ hình như Lão tử có nói: dùng lời là để diễn ý, đạt ý hãy quên lời. Tôi cũng vài lần góp ý cho ông anh rất yêu mến tôi và tôi cũng rất trân quý anh ấy: thơ mình vợ người hơi đâu mà bàn!

2. Miên trường và bóng tà huy bay.

Thơ tôi nếu ai đọc thì thấy giống vè, hihi, lạm bàn thơ bạn quả không nên. Thật ra trên trăm bài tôi có dùng một lần “cõi miên trường” với nghĩa là cõi chết, cõi vĩnh hằng cho nó hợp vần. Tôi mượn từ ngữ của cụ Bùi, yên tâm cụ không thể chửi tôi. Nó nằm ở câu nào bài nào tôi cũng không nhớ. Thơ mình vần vè, bắt chước, nhớ làm gì cho mệt óc, hihi. Bài thơ Nguyên Xuân của Bùi Giáng tôi cảm giác đậm chất thiền:

Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau

Tôi hiểu miên trường trong bài thơ Bùi Giáng là độ dài vô tận của thời gian, tôi còn liên tưởng đến chiều rộng và cao vô tận của không gian. Nhưng bài thơ không hề tạo cho tôi liên tưởng đến giấc ngủ dài. Cõi miên trường mà tôi đã mượn là cõi sau khi chết. Cách dùng của tôi chắc cũng có người đọc, chả ai dùng theo, tôi còn quên nữa là người khác, hihi.

Nhưng khi ai đó dùng với nghĩa là giấc ngủ, hoặc sự mềm mại cũng chẳng sao. Vấn đề là khi dùng như vậy nó có đọng lại trong lòng độc giả không? Biết đâu có người cảm và bắt chước cách dùng của họ. Và biết đâu không ai dám dùng?

Trong một câu thơ: “Miên trường trở giấc hồn cô quạnh”,  một ông anh tôi có nói rằng nếu dùng trường miên thì đúng cấu trúc từ kép tiếng Việt. Cũng phải. Vấn đề cũng là ai có dùng không và khi thay từ có làm câu thơ sẽ thêm rung cảm không?

Nếu là tôi: Hiểu miên trường là giấc ngủ dài thì câu thơ không dùng tiếp từ “trở giấc” mà phải là tỉnh giấc, không ngủ nữa. Tỉnh giấc chợt nhận ra hồn cô quạnh, nhận ra không tươi đẹp như giấc mơ. Trở giấc thường diễn đạt giấc ngủ không ngon, giấc này sang giấc khác. Nhưng trở giấc vẫn thường dùng tỉnh dậy sau ngủ, thế thì cũng là tỉnh giấc vậy thôi. Còn nếu hiểu miên trường là không dứt thì “miên trường trở giấc” có nghĩa là thao thức, trằn trọc không thôi. Thao thức thấy hồn cô quạnh. Hiểu theo cách nào cũng được nhưng nó phải hợp ý với câu trước đó hoặc câu sau. Vì không đọc được đoạn thơ nên không dám bàn gì thêm.

Bóng tà huy bay. Có lẽ ai cũng hiểu tà huy là ánh sáng lúc xế chiều, thế còn bóng? Bóng là hiện tượng sinh ra khi một vật cản ánh sáng. Bóng có thể nằm dưới đất hoặc ở trên tường, tùy cự ly xa gần của vật cản với nền in bóng. Đó là cách hiểu theo vật lý học. Tôi cũng nhớ mình có vần vè mấy câu trong đó có dùng chữ tà huy:

Hoa cũng tàn mà nắng cũng phai
Cánh chim khuất bóng mờ chân trời
Biết đâu mỗi buổi tà huy lạnh
Đổ xuống mặt hồ một bóng tôi!

Ai cũng thấy ở đây tà huy là chỉ chiều sắp tối. Hai lần tôi dùng chữ bóng trong khổ thơ thì ắt là còn chưa phong phú từ. Bóng là hậu quả tôi đứng che nắng gần hồ, bóng tôi in dưới hồ, bóng không bay, bóng có thể lay động do sóng gợn, hoặc do tôi di chuyển. Nhưng có khi nào bản thân tà huy cũng có thể gọi là bóng tà huy không. Tôi nghĩ là có, nếu người ta muốn ví tà huy là buổi chiều. Nói bóng chiều được. Thậm chí còn có bóng tối, bóng đêm thực tế chẳng có cái bóng nào theo nghĩa vật lý, một hình thức khác của cách nói ban tối, ban đêm, mặc dù có mượn khái niệm của bóng vật lý. Vậy dùng bóng tà huy thì đã sao? Có khi ta nói bóng mây, bóng núi là đề cập đám mây xa xa trên trời, dáng núi mờ mờ chứ không có ý nói cái bóng của mây trên mặt đất, hoặc bóng do ngọn núi nào chắn. Tôi viết cánh chim khuất bóng là nói người đó đi xa, chứ ai lại quan tâm đến cái mảng đen thui dưới đất lúc dài, lúc ngắn, lúc méo mó bao giờ? Tôi lại viết “buổi tà huy lạnh”. Lại thêm “buổi tà huy”. Ai đó thắc mắc buổi chiều thì nói buổi chiều chứ nói buổi tà huy nghe chướng tai. Ánh sáng sao mà lạnh? Dùng: “Biết đâu những buổi chiều gió lạnh”, có hay hơn không? Chắc là tôi sẽ tức cười: trời ạ, đúng là tôi chỉ muốn viết ý như bạn nghĩ thế thôi, lúc viết tự dưng từ ngữ nó tới, mình viết cho vui chứ có phải là nhà thơ đâu mà ra được cách dùng từ lúc nào cũng hay! Bởi vì tôi làm thơ là một trò giải trí dễ dãi. Đối với người khác là đứa con tinh thần, họ yêu như con họ, đụng tới là sinh chuyện. Ai chê con bạn xấu bạn có buồn không.

Còn tà huy bay hoặc bóng tà huy có bay được không? Tôi nghĩ là có, nếu như tà huy in trên một tà áo. Hoặc bay được hiểu là biến mất dần. “Trông cho bóng người yêu cũ bay khỏi thơ tôi, vậy mà nó cứ ngồi lì ở mỗi trang thơ”. Viết như vậy cũng hiểu được. Trong câu văn ta chưa thấy dùng bóng tà huy bay, nhưng thơ thì có người đã dùng, vừa gợi hình ảnh vừa tạo âm hưởng lan tỏa. Nói bóng tà huy bay là nó dần biến mất, vậy có thể nói: “bóng tà huy đáp xuống những mái nhà tranh nơi xóm nhỏ”, được không? Tôi dùng bóng tà huy lạnh, tự tôi chấp nhận được, thì có người nào đó viết: “Hình như bóng tà huy nóng nảy thúc giục tôi phải gấp lên…” có được không? Tôi cho là được tất, nếu ta gắn liền với ngữ cảnh.

Tóm tắt lại vì tôi quan niệm ngôn ngữ là sản phẩm của cộng đồng, có thể biến nghĩa, có thể khác cách dùng quen thuộc. Đầu tiên phải có một người dùng, sau cộng đồng chấp nhận. Sự chấp nhận hay không là người ta có bắc chước theo không.

Vì vậy trong thơ văn tôi cố tìm hiểu tác giả muốn nói gì hơn là dùng chữ đúng hay sai. Người đọc thơ không nên xét nét từng câu chữ. Ta xét cả tới nghĩa bóng chứ đem nghĩa vật lý làm chuẩn cho văn thơ thì còn gì là văn thơ.

Hoặc có ý tốt góp ý cũng nên hỏi ý kiến tác giả trước. Người được góp ý cũng nên giải thích nhẹ nhàng. Trường hợp như anh nào đó trả lời một người có ý giúp cho câu thơ hay hơn theo suy nghĩ của người ấy, mà lại phản ứng với lời lẽ chê bai kém hiểu biết, quả là xúc phạm quá đáng. Nó làm cho người ta cảm thấy cái hay trong lời thơ rất nghịch với tâm hồn tác giả hoặc người bình luận.

Tôi cũng rút kinh nghiệm một lần 2 năm trước, khi tôi thấy một nhà thơ nữ trẻ, trên trang cô rất nhiều fan. Cô viết một bài thơ về Noel khá hay, tôi có còm một câu: “Bài thơ hay. Chúa nên viết hoa cho trang trọng. Bài thơ sẽ hay hơn nếu cắt hẳn khổ cuối. Bởi vì khổ thơ đầu đã nói đến rồi, lập lại ý bằng câu chữ khác ở khổ cuối cảm giác hơi thừa”. Thế là tác giả phản ứng dữ dội, nói tôi không hiểu gì về thơ, dòng cảm xúc đang tuôn ra mà bảo ngăn lại… Nhưng lời lẽ của cô cũng không quá đáng. Có vài bạn còm theo, mắng tôi đừng làm thầy. Tôi công khai xin lỗi cả tác giả lẫn người còm chê tôi. Lẽ ra nếu muốn, tôi phải nhắn tin riêng. Tôi thật tình nhưng thiếu tế nhị, nhất là tôi không hề thân quen với tác giả. Lỗi hoàn toàn của mình. Đa sự hi…hi! Sau đó tôi cũng tiếp tục theo dõi, like quả tim với vài bài. Tôi muốn tỏ ý rằng tôi có lỗi và không hề tự ái. Nhưng sau đó tôi không bao giờ dám góp ý.

Đọc đến đây Anh chị em có thể nghĩ rằng tôi là người ba phải. Điều ấy đúng một phần. Ở đời nếu ba phải mà không hại ai, lại đem được niềm vui cho người khác cũng ráng mà ba phải.

Nhưng tôi vẫn là người lắm chuyện, tôi không ngại đấu tranh với quan điểm tôi không đồng thuận. Cho dù kiến thức của họ có hàng bậc thầy của tôi, hoặc là có học hàm, học vị hẳn hoi. Tôi cũng dùng nhiều lời mỉa mai, châm biếm. Nhưng trước hết là vấn đề có liên quan tới dân tộc, tiếp đến tôi nhằm vào quan điểm chứ không nhằm vào con người. Ai có hằn học, thù ghét thì tôi cũng đành chịu.
Vì vậy những ý kiến tôi sắp trình bày dưới đây mới dễ bị ném đá nè!

3. Làm thế nào để nhận ra một từ Hán Việt:

Quý anh chị tuy tranh cãi nhau khá lớn tiếng, nhưng thống nhất: miên trường và tà huy là tiếng Hán Việt theo nghĩa Việt vay mượn từ tiếng Hán. Do đó lật từ điển Hán Việt ra tra xem tiếng Hán có nghĩa gì, dùng có đúng nghĩa gốc không? Gần đây có anh bạn thân cũng chia sẻ bài viết của một người trong ngành giáo về cách sử dụng đúng từ Hán Việt, nêu lên 16 lỗi là do theo hướng đó.

Tôi lại kịch liệt phản đối điều này. Nếu nói Hán Việt là những từ ngữ người Hoa và người Việt cùng dùng thì tôi không cãi. Nhưng nói Hán Việt là tiếng Việt từ gốc Hán, thì tôi gân cổ cãi ngay. Đối với tôi gốc và ngọn của tập hợp Hán Việt hiện nay rất mơ hồ, nghĩa là tiêu chuẩn để phân biệt từ Hán Việt hay là Việt Hán là gì, đa số không hề nêu hoặc không nêu được, thì hỏi sao biết dùng đúng hay sai? Các từ ngữ mà phần đông anh chị cho là gốc Hán tôi chỉ xếp vào cổ văn người Việt, khác với kim văn hiện nay thôi. Nghĩa là tôi cho rằng trong tập hợp đó có phần lớn gốc tiếng Việt, hoặc ta chưa biết được biết đâu là gốc - ngọn.

Đồng thời tôi chống lại việc lấy tiếng Hán trong từ điển làm hệ quy chiếu tiếng Việt. Tôi nghĩ rằng chỉ dùng từ điển tiếng Hán để hiểu các văn bản tiếng Hán, hoặc khi dịch sang tiếng Việt cho đúng ý thôi. Lấy nghĩa tiếng Hán rồi yêu cầu dùng tiếng Việt phải theo đúng như tiếng Hán là hiện tượng vô tình tiếp tay cho phá hoại văn hóa dân tộc.

Trước hết, khi tranh luận đa số lấy từ điển Việt Hán ra dẫn chứng nghĩa tiếng Hán. Tôi chưa thấy ai mở từ điển tiếng quốc ngữ - Nôm ra dẫn trước hay so cả hai từ điển rồi hãy kết luận. Tôi thấy nhiều người không phân biệt từ điển Hán Việt là cuốn từ điển in hình chữ Hán, hướng dẫn cách viết, cách đọc, ngữ nghĩa theo tiếng Việt và cách dùng trong câu chữ Hán. Từ điển Hán Việt là dành cho người Việt học chữ Hán. Ví dụ từ điển của Thiều Chửu.

Tôi lại thấy đa số vào từ điển Hán Nôm online để tra. Gõ tiếng quốc ngữ để tìm một chữ Hán.. Nó sẽ xuất hiện chữ Hán, giải thích, dẫn chứng nghĩa theo người Hoa thì kết luận đó là từ Hán Việt. Điều này không sai, nhưng lại dựa vào đó nghĩ là từ Việt đó gốc Hán và phải dùng như từ điển giải thích và dẫn chứng rồi đem ra tranh cãi là sai lầm. Tương tự như tra từ điển Việt Anh, có bao giờ ta lại xem tiếng Anh đó là gốc tiếng Việt không?

Thiết kế từ điển online Hán-Nôm mà ta thấy trên mạng được thiết kế tổng hợp vừa tra chữ vừa tra âm, nhưng chính và trước hết là tra âm vị tiếng việt. Nếu ai muốn biết chữ “phụ” của tiếng Việt thì tiếng Hán viết thế nào, cách dùng ‘trong câu thế nào, gõ chữ quốc ngữ “phụ” vào, ấn nút Hán Việt sẽ thấy chữ Hán tượng hình. Sau đó vì một âm phụ có 35 kiểu viết, diễn đạt khái niệm khác nhau, muốn rõ nghĩa một chữ ta phải dò xem chữ nào trùng ngữ nghĩa với tiếng Việt thì ta chọn chữ đó. Ta nhìn một chữ cụ thể người ta dành một trang ngắn dài tùy chữ. Nó hướng dẫn bộ thủ, phát âm, cách viết nét chữ, có giải nghĩa bằng tiếng quốc ngữ, nhưng ví dụ cách dùng trong câu tiếng Hán. Lúc này nó thực hiện chức năng từ điển Hán-Hán- Việt.

Tóm lại bộ từ điển này là Việt – Hán và Hán – Hán - Việt dành cho người Việt học tiếng Hán. Chứ bản thân nó không nói lên tiếng nào sinh ra tiếng nào.

Nếu các bạn gõ một chữ quốc ngữ, nhấn nút Hán - Nôm sẽ ra chữ tượng hình Nôm. Lẽ ra từ điển nay là từ điển tra chữ quốc ngữ - Nôm, họ lại để Hán Nôm, một sự ngụy trang tinh vi, cũng giống như phần nói trên phải để Việt Hán họ lại để Hán Việt.

Từ điển chữ Nôm rất quan trọng, vì nó chứa mọi âm vị người Việt từ xưa tới nay. Ta gõ bất cứ âm vị nào trong chữ quốc ngữ thì có chữ Nôm tương ứng. Các từ kép không có là do không cài đặt nên ta phải tự ghép hai âm vị lại với nhau. Vô số âm vị Việt chữ Hán không có, nhưng chữ Nôm lại có. Ví dụ âm vị/ con/ … Như vậy người Việt có viết giống chữ Hán một số âm vị mà ta gọi là mượn, ngoài ra tự tạo chữ viết cho mình theo chữ vuông, cùng hệ thống bộ thủ như người Hoa từ thời nào không rõ. Nhưng nếu so âm vị thì Việt nhiều hơn Hoa hàng chục lần. Ngược lại chữ Hoa nhiều hơn chữ Nôm, vì một âm vị họ rất nhiều nghĩa, mỗi nghĩa dùng một chữ, đôi lúc một âm, một chữ lại rất nhiều nghĩa khác xa nhau.
Hai ngôn ngữ sử dụng chung từ ngữ chưa bảo đảm ngôn ngữ nào đã vay mượn từ ngôn ngữ nào. Còn phải truy nguồn gốc chủng huyết tự nhiên ai là hậu duệ của ai. Thuyết thiên di nhân chủng và di dân nhân tạo dẫn tới biến thiên ngôn ngữ. Tiếng Hán đơn âm như tiếng Việt. Tiếng Việt xếp vào hệ Nam Á. Tiếng Nam Á vốn là bán đơn âm: Krong > sông; nghĩa là theo dòng thiên di thì tới Việt rụng bớt phụ âm đầu. Xếp tiếng Việt vào Nam Á là hợp lý. Tiếng Hán gần gũi với tiếng Việt mà xếp vào hệ Tạng - Hán là gượng ép, vì tiếng Tạng đa âm. Lẽ ra phải ghép một hệ Việt- Hán mới phù hợp với nhân chủng học và ngôn ngữ học hiện đại. (có những bài phân tích ngôn ngữ riêng).

Tóm tắt là hiện nay chưa có công trình thật sự khoa học nghiên cứu phân loại về nguồn gốc Hán Việt hay Việt Hán. Cho nên tạm thời phân ra cổ văn và kim văn. Nhóm từ ngữ mà hiện nay gọi là Hán Việt đa số là cổ văn, hai dân tộc cùng sử dụng. Riêng cá nhân tôi thì dựa vào so sánh âm vị để tạm định ra từ nào Hán Việt và từ nào Việt Hán. (có một loạt bài riêng)

Ở đây tôi lấy ví dụ cụ thể đang bàn đặt lại vấn đề ngược ngạo với đa số: Miên trường và tà huy có thực sự là từ tiếng Hán hay không mà ta lại đem ra đối chiếu với cách dùng trong tiếng Việt?

Tra từ điển Hán cũng có chữ miên và chữ trường. Tra từ điển Nôm cũng có miên và trường. Ghép hai từ lại cũng đều có nghĩa: dài dằng dặc, chữ miên cả hai ngôn ngữ cùng liên quan đến sợi tơ, cho hình ảnh dài dằng dặc như cuộn chỉ. Từ điển tiếng Nôm thể hiện âm vị / miên/ và / trường/. Về mặt chữ cũng y như chữ Hán vậy, tức là ta viết kiểu chữ Hán. Khi ta tra từ điển Hán Việt ta thấy có các từ kép: miên trường, miên man, lan man… mà tra chữ Nôm không có, ta vội kết luận rằng tiếng Việt không có. Ta quên rằng từ điển chữ Hán soạn từ lâu nên các từ kép ấy có. Từ điển tiếng Nôm mới soạn nên không đầy đủ từ kép. Chứ từ điển tiếng Việt vẫn có triền miên, miên man, lan man…. Từ miên trường người Hoa cũng ít dùng. Cổ văn người Việt cũng ít dùng. Ngày nay ta dùng lại biểu cảm. Cho nên khi tra một cổ ngữ ta cần tra từ điển quốc ngữ - Nôm trước, để xem rằng ngày xưa người Việt có dùng “âm” này không và nghĩa xưa và cách dùng của nó.

- Chỉ khi nào tiếng Hán có âm vị mà tiếng Việt cùng âm tiết nhưng không có âm vị mới gọi là tiếng thuần Hán. Ví dụ: âm tiết /cổn/ người Hoa có âm vị cổn, nghĩa của nó là: từng cái, còn một nghĩa khác là cái nhà xép. Người Việt phát được âm tiết /cổn/ nhưng không có nghĩa gì trong tiếng Việt, nên gọi tiếng Việt không có âm vị cổn, nó chỉ là từ tượng thanh khi nghe 2 vật cứng rỗng chạm vào nhau, kết hợp với lổn cũng là không có nghĩa tạo ra hai âm tiết lổn cổn, ta dùng tượng thanh, chứ tự hai âm tiết đó chưa có nghĩa. Nhưng tiếng Hoa âm cổn là một âm vị. Đó là từ thuần Hán, không hề Hán Việt, Việt hán gì cả. (âm vị là âm tiết có nghĩa, đơn vị nhỏ nhất của âm thanh có diễn đạt khái niệm). Ngược lại : trăm và năm tiếng Hán không có nghĩa. Người Hoa vẫn phát âm được 2 âm tiết này, nhưng không có nghĩa nên gọi là từ thuần Việt.

- Hoặc là cùng âm tiết hoặc cận âm tiết mà khác nghĩa thì sẽ phân ra được thuần Hán và thuần Việt.

Ví dụ: Kiền khôn hay càn khôn chỉ quả đất và không gian phía trên quả đất ta gọi là trời, đất. Tiếng Việt không có âm vị Kiền, khi biến âm càn cũng là khái niệm trời khi dùng càn khôn như kiền khôn vậy.

Đồng thời tiếng Việt có âm càn liên quan đến bậy bạ, ngang tàng: làm càn, nói càn, hoặc liên quan đến càn quét; những khái niệm tiêu cực, phàm tục. Không thể cùng một âm tiết đó mà cùng lúc diễn đạt khái niệm thiêng liêng: trời. Do đó chữ càn trong càn khôn là gốc Hán. Tiếng Việt không bao giờ dùng khôn để chỉ đất, mặc dù tiếng Việt có âm vị khôn chỉ mức độ cao của trí tuệ. Để chỉ đất tiếng Việt dùng đất, địa: thần đất, ông địa. Như vậy cho dù trùng âm tiết như: khôn hoặc cận âm như càn, nhưng nghĩa khác nhau nên kết luận càn khôn là gốc tiếng Hán. Trong khi đó càn quét và càn bậy thì càn là âm vị Việt.

- Nhưng nếu trùng âm vị (mặc dù có biến âm) và trùng ngữ nghĩa là hai ngôn ngữ dùng chung. (cái mà ta hiểu lầm là Hán Việt toàn bộ): miên trường và tà huy.

Miên trường đã nói, không thể phân biệt gốc ngọn Hán Việt, trước mắt là tiếng Việt cổ và tiếng Hoa đã dùng chung. Đối với người Việt dùng miên trường là cách xưa, trường miên nếu có dùng và sau đó nhiều người dùng theo là cách mới, không có gì đúng sai cả, tương tự học đường và trường học, nếu nó hợp cú pháp cổ kim thì quen nghe, dễ chấp nhận. Do đó không võ đoán khi nói: không thể ghép từ đơn tiếng Việt vào từ đơn tiếng Hán. Học + đường = học đường. Vậy học là tiếng Hán hay tiếng Việt? Không lẽ trước khi người Việt gặp người Hán thì không có khái niệm học hỏi? Trường đâu phải tiếng Hán không có âm vị để diễn đạt một nơi chốn? Trường học = học trường nghe lạ tai, nhưng môi trường thì sao? Thật sự nếu dùng âm vị học ta sẽ loại ra một lượng cực lớn các âm vị mà các nhà từ nguyên học thiếu kiến thức về nhân chủng học áp đặt có nguồn gốc tiếng Hoa.

Tà huy: cổ văn Việt có 13 chữ Nôm để biểu thị âm vị huy, nhưng về nghĩa thì nhiều chữ trùng nghĩa. Hán ngữ có 29 âm vị/ huy/. Cổ văn Việt có âm vị huy liên quan đến sắc thái vận động, dấy lên, lộ ra từ đó tạo ra những từ ngữ khác: huy động, chỉ huy, huy hoàng…. 

Ngoài ra còn có huy chỉ ánh sáng mặt trời. Xuân huy là chỉ ánh sáng tỏ của mặt trời, ví như cách dùng xuân sắc, xuân thời, hàm nghĩa tích cực. (Xuân cũng là một âm vị Việt, nội hàm hẹp hơn âm vị Xuân của người Hoa)

Âm vị cổ /huy/ tiếng Việt ít nghĩa hơn tiếng Hoa, còn lại là giống nghĩa. Nhưng không thể nói huy là âm vị từ Hoa ngữ, không có bằng chứng nào cả.
Tà: âm vị hán có nghĩa là lệch, nghiêng, trái với ngay, chính. Trong khi đó tiếng Việt tà ngoài nghĩa giống người Hoa như trên còn có nghĩa:

 1. trái với nhọn, bén, cùng nghĩa với cùn, mòn: mũi dao tà , gươm tà.

 2. Vạt áo phía dưới: tà áo.

 3. Chậm: tà tà, láy thanh nghĩa là không chậm lắm, hơi chậm. Tổng hợp lại tà trong tiếng Việt diễn đạt những khái niệm liên quan đến hiện tượng mòn dần, thấp dần.

Vì vậy người Việt khi nghe cái âm /xuân huy/ phát ra thì liên tưởng ánh sáng trẻ, mạnh, đang lên. Khi nghe /tà huy/ là ánh sáng yếu dần, ngay tức khắc liên tưởng tuổi già, điều tăm tối, tàn tạ… Cho nên đem nghĩa Hán, chỉ ánh sáng xiên buổi chiều để giải thích nghĩa Việt là khập khiểng. Tương tự vậy, đem nghĩa cổ mà so với nghĩa kim là cản đường phát triển ngôn ngữ.

Chúng ta sẽ cãi vã vô tận nếu so đo ngữ nghĩa Hán với Việt, cổ với Kim. Dịch một bài thơ chữ Hán của người Hán thì phải tìm hiểu chữ Hán nhưng cũng chưa đủ, ta cần phải tìm hiểu tâm lý người Hán theo bối cảnh xuất thân của tác giả, thời thế. Nhưng rốt cuộc không có gì chắc chắn rằng ta hiểu đúng ý thơ tác giả. Chỉ là đại khái. Dịch tức diệt là vì vậy. Đồng thời đưa bản dịch cho học giả Hán có thông thạo tiếng Việt, nếu họ không sống lâu năm trên đất Việt, giao tiếp nhiều với người Việt, nhận ra tâm lý Việt khác Hoa, họ cũng chẳng biết câu thơ hay chỗ nào? Việc tranh cãi trong dịch thơ Hán của người Hoa là việc làm tốn thời giờ. Nếu có tranh luận thì tranh luận cách hiểu và lựa từ ngữ khi dịch thơ chữ Hán của người Việt, chúng ta còn có một phần dữ liệu nắm chắc về lịch sử và vì cùng một cội nguồn tâm lý, văn hóa.

Tương tự vậy, tranh luận gốc Hán Việt hay Việt Hán là chuyện các nhà từ nguyên học, nhưng nó lại không ích lợi gì khi ta đọc thơ và làm thơ ngày nay. Đừng vin vào nghĩa gốc tiếng Hán mà đánh giá câu văn, bài thơ tiếng Việt. Hãy nhìn vào ngữ cảnh để định đoán tác giả muốn nói gì trước một cách dùng không quen tai mình. Từ ngữ và cú pháp được cộng đồng thừa nhận hay không lệ thuộc vào tiêu chuẩn: bị lãng quên hoặc được bắt chước. Trong cái học đa phần từ nền tảng bắt chước, sáng tạo là việc rất ít, sáng tạo hoàn toàn hầu như không có. Không việc gì xấu hổ khi bắt chước cách dùng từ ngữ của người đi trước. Đồng thời người đi trước dùng không phải là tiêu chuẩn duy nhất.

Trường học dạy môn tiếng Việt cho học sinh là dạy những chuẩn mực đầu tiên của ngữ nghĩa và ngữ pháp. Trường học là tổng kết những gì chung nhất của thực tiễn, nó sẽ bổ sung những gì thực tiễn phát sinh. Cho nên ngữ nghĩa và ngữ pháp của nhà trường là chuẩn mực của ngôn ngữ, nhưng không phải là phạm vi giới hạn của ngôn ngữ đời sống và nhất là trong thơ. Thơ là ngôn ngữ đời thường được nâng lên tầm nghệ thuật bằng các biện pháp mỹ từ, nó có nhịp và các thanh tạo ra tính nhạc... Đôi khi nó tuôn ra theo dòng cảm xúc không mang tính cân nhắc của trí tuệ. Bản nhạc được người này yêu thích mà người khác không cảm thấy hay, thậm chí không ưa, lệ thuộc vào tâm lý mỗi người.

Tuy nhiên không có nghĩa là người làm thơ buông thả tùy nghi. Sau khi làm xong cần đọc lại, cân nhắc lời thơ sao cho người đọc hiểu ít nhất là theo một liên tưởng nào đó. Còn ta làm theo cảm nhận thú vị của riêng ta bất chấp ai thì tốt nhất đừng phổ biến. Tôi từng công kích cách làm thơ của trường phái mạo danh Tân Hình Thức: bất chấp cú pháp trong câu nói, trong hình thức tương đối của ngắt câu. Một cách tập nói cà lăm, mà lại huênh hoang cho là khuynh hướng hiện đại.

3. Trình bày một cách hiểu 2 bài của Bùi Giáng không dựa vào ngữ nghĩa tiếng Hán.

Khi đọc bài Chào Nguyên Xuân, thoạt tiên tôi cảm thấy hay như một bản nhạc không lời. Cảm thôi chứ không hiểu gì cả. Nghe tác giả là một người uyên bác lẫn uyên thâm. Thâm ở đây hiểu thêm theo tiếng Việt là hóm hĩnh, trêu chọc, là sẽ bầm dập với ông già này. Tôi thắc mắc rất nhiều về cách dùng từ ngữ tiếng Việt của ông trong bài này.

Trước hết nguyên xuân là gì ? Tra từ điển tiếng Việt không thấy, thử tiếp từ điển Hán, Nôm đều không thấy? Tất cả đều có từ đơn mà không có từ kép. Hiểu làm sao đây? Chào là mới gặp chào đón, hay chào ly biệt? Trong bài thơ đều có hai từ chào đón và ly biệt. Chào nhau có lẽ là chào nguyên xuân, vì không thấy đối tượng nào khác, mà nguyên xuân là gì không nghe ai nói. Chữ này ông nổi hứng tạo ra không chừng. Hỏi trăm người ắt có trăm giải thích. Gọi ông là nhà thơ điên, hoặc vì thơ ông làm điên đầu người đọc ắt đều đúng.

Không hiểu nhưng nhặt ra thấy nhiều câu mình thích rồi thắc mắc tiếp:

Xin chào nhau giữa con đường
Mùa Xuân phía trước miên trường phía sau

Sao kỳ vậy ta? Mùa xuân là danh từ lại đối với miên trường là tính từ sao nghe vẫn thấy hay?

Có trời mây xuống lân la
Bên bờ nước có bóng ta bên người

Bóng ta bên người là bóng của mình bên mình, hay bóng của mình bên một người khác?

Xin chào nhau giữa bàn tay
Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con

Bàn tay có năm ngón rồi, ngón con nào lại nằm giữa bàn tay? Có khi ông già cắc cớ nói ngón con là con… gì đó của ông không?

- Có hồng tàn lệ? hay Có hòng tàn lệ? khóc đời chửa cam: cam là ngọt hay là cam go ? chửa cam có phải là “cảm chưa” ?

Xin chào nhau giữa bụi đầy
Nhìn xa có bóng áng mây ngang đầu

Đã bóng mà còn áng là muốn nói gì đây? Muốn nói đến mái tóc chăng?

Thưa rằng ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa sắc màu nguyên xuân

Trùng ngộ nghe quen quen lạ lạ, tra từ điển không thấy. Có phải là gặp lại nhau không? Mà ai gặp ai nhỉ?

Thôi thì đọc kỹ mấy cũng không hiểu tác giả muốn nói gì. Chỉ cảm thấy hình như ông tự nói với mình, ông tự chào ông. Nguyên xuân có thể nguyên là y như cũ, xuân là tuổi đời. Ghép lại là con người ông. Ông đang độc thoại, đang suy ngẫm về triết lý khi nhìn về mình như một thực thể không có ranh giới cái sống và cái chết. Đời người chẳng qua là ngộ nhận giữa mảng chiêm bao, nó vốn là một thực thể trong cuộc hành trình từ vô tận của quá khứ đến vô tận tương lai.

Tôi cũng cảm đây là những vần thơ đẹp, có hai từ rất mới: nguyên xuân và trùng ngộ và một từ cổ miên trường. Dòng thơ tạo nên những nhịp vui thanh thản, an ủi động viên con người. Thế thôi, chứ ngồi mà thắc mắc thì không còn là thưởng thức thơ nữa. Tóm lại tôi yêu một bài thơ mà không chắc hiểu đúng một phần!

Còn bài thơ dịch của Andre Gide thì sao? Tôi cũng chẳng hiểu ông nói gì, nhưng có những câu ấn tượng:

Ta về giũ áo đười ươi
Trút tờ phong nhã cho người phụ nhau
……
Em về giũ áo mù sa
Trút quần phong nhụy cho tà huy bay.

Lại ra một đống thắc mắc: giũ, trút là đem lại cho người khác hay vứt bỏ, áo đười ươi là sao? Cho người phụ nhau là trợ giúp nhau hay bội bạc nhau? Diệu Hoa lầu các có phải là bộ Diệu Pháp Liên Hoa kinh không? Bất bình là nổi giận hay không bình giảng được? Đầu xuân rất mực Biên đình nở hoa, là nghĩa gì? Có giống như câu thơ của Hoàng Cầm? :

Tối nay gác lạnh nghênh xuân sớm
Hai đóa quỳnh em nở hết mình.

Hay là đang ở ranh giới giữa u mê trong đầu từng này tuổi chợt ngộ ra bên kia là lý lẽ Diệu pháp liên hoa kinh? Ui, không lẽ phải tìm tập kinh này đọc mà so sánh?

Quần, chẳng lẽ nghĩa đen là cái quần, phải chăng là muốn nói tới tập hợp nhiều phần tử, quần thể? phong nhụy là gì, có phải là nhụy hoa còn nằm trong cánh hoa chưa nở? Có gì liên quan giữa “tờ phong nhã” với “quần phong nhụy”, giữa áo và tà? Tà huy bay là ánh sáng chiều bay lượn, hay muốn ví nỗi buồn biến mất. Thắc mắc và thắc mắc. Chẳng hiểu gì ráo, bản Pháp văn lại chẳng có. Nếu có, cũng có biết tiếng Pháp đâu mà đọc! Các vị cứ phân tích để được học hỏi, còn tôi nghĩ nữa thì bể cái đầu.

Thôi thì tôi cứ tạm hiểu rằng con người nên trút bỏ cái lớp áo bề ngoài dị hợm: là danh vọng, tiền tài, thú vui phàm tục… múa may như loài khỉ. Hãy trở về bản chất nguyên sơ tốt đẹp như những (quần) đóa hoa còn khép nhụy chứa ngát hương thơm, và để những ám ảnh như tà huy biến đi. Tay ngang này hiểu đúng hay sai hơi đâu mà chấp. Nhà thơ đã giũ, trút, buông xã rồi, mình cứ mãi câu chấp là sao?

Viết tới đây tôi chợt nghĩ đến chức năng của thi ca. Nó vừa giải trí vừa nuôi dưỡng tâm hồn nhân bản thông qua ngôn từ. Chúng ta có nên thưởng thức thơ bằng cách cho thơ mình hay lắm, chê bai người khác. Hoặc nghe người khác góp ý lại buông lời xúc phạm? Tôi tự hỏi tiếng Việt tôi thật sự hiểu hết nghĩa và biết đủ cách dùng chưa mà dám trình bày cái uyên bác của mình rằng hiểu chữ Hán! Đấy, hai bài thơ của Bùi Giáng nếu tôi làm chủ được ngôn ngữ Việt ắt tôi phán đúng- sai, hay - dỡ liền!

Tôi biết rằng khi viết những dòng tâm sự tản mạn này, có vài thân hữu sẽ bực mình. Ui, chuyện nhỏ. Ai giận thì ăn ngủ mất ngon ráng chịu. Hơn thua nhau vài từ ngữ để làm gì, trong khi cả dân tộc không khéo thì thua đậm. Vì tôi liên tưởng đến gần đây, nhiều người sùng Hán kêu gọi khôi phục Hán Nôm, chắc có phần hiểu được thơ xưa hơn. Chứ nhân nghĩa lễ trí tín thì dân tộc nào cũng có cứ gì phải từ Nho học! Còn những nọc độc, cái lỗi thời khác của Nho học thì quá nhiều người phân tích, chia sẻ rồi.

Thậm chí nhân ý định đặt tên đường ghi nhớ công đóng góp làm nên chữ quốc ngữ của A.de Rohdes. Họ kết tội ông và chữ quốc ngữ dẫn đường cho Pháp xâm lược. Họ bảo rằng bỏ học chữ Hán- Nôm là mất gốc. Họ chứng minh rằng Tàu - Nhật - Hàn không bỏ chữ tượng hình sao lại tiến bộ hơn ta. Họ không đưa số liệu 30% người Hoa, tức là gần 500 triệu người còn mù chữ. Họ cũng không nêu câu hỏi nếu các nước đó cải cách được chữ viết thì họ còn tiến bộ hơn nữa không? Những câu hỏi trên cũng thuộc phạm trù chữ nghĩa đáng quan tâm tranh luận.

Ngày trước cũng có những nhóm nhà nho khả kính như Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng công kích nhóm Phạm Quỳnh truyền bá chữ quốc ngữ và kết ông tội theo thực dân, bán nước. Ông trả lời nhẹ nhàng, làm các vị cứng họng: “Khi tôi sinh ra thì nước đã mất làm sao tôi bán được?” Có phải ông đã mắng khéo rằng chính cái hủ nho đã khiến cho ngu dân dẫn tới đất nước lạc hậu rồi mất nước không?

Dẫn lại hai bài thơ của Bùi Giáng.

CHÀO NGUYÊN XUÂN

Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng

Xin chào nhau giữa lúc này
Có ngàn năm đứng ngó cây cối và
Có trời mây xuống lân la
Bên bờ nước có bóng ta bên người

Xin chào nhau giữa bàn tay
Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con
Thưa rằng những ngón thon thon
Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau

Xin chào nhau giữa làn môi
Có hồng tàn lệ khóc đời chửa cam
Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây

Xin chào nhau giữa bụi đầy
Nhìn xa có bóng áng mây nghiêng đầu

Hỏi rằng: người ở quê đâu
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà
Hỏi rằng: từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài
Thưa rằng: nói nữa là sai
Mùa xuân đương đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng: ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân

                                                      Bùi Giáng

CẢM ĐỀ LA PORTE ÉTROITE
GIDE TẶNG SOPHOCLE

Ta về giũ áo đười ươi
Trút tờ phong nhã cho người phụ nhau
Em về thảng hoặc mai sau
Diệu Hoa lầu các đêm nào hóa sinh
Còn nghe cơn cớ bất bình
Đầu xuân rất mực biên đình ra hoa
Em về giũ áo mù sa
Trút quần phong nhụy cho tà huy bay.

                                           Bùi Giáng

Trong chùm thơ “Cảm đề La porte étroite” in trong phần Phụ lục của truyện dài “Khung cửa hẹp” (La porte étroite, tác giả André Gide) do Bùi Giáng dịch

                                                                      LÊ NGHỊ

READ MORE - TẢN MẠN TÂM SỰ QUA THEO DÕI MỘT CUỘC TRANH LUẬN - Lê Nghị

MỘT BÀI THƠ VỊNH ẢNH KHÔNG ĐỀ TUYỆT HAY - Châu Thạch


      


KHÔNG ĐỀ 
        
Đi hết núi anh tìm mà chưa gặp
Hoàng hôn tím tiếp tiếp bình minh hồng
Rét mướt mùa đông nắng nung mùa hạ
Anh vẫn chưa tìm được lá diêu bông !

Tới cảnh danh lam anh cầu khẩn Phật
Lại đụng đầu với những sắc không
Mang từ bi anh đi tìm gặp Chúa
Chúa bảo tình con Chúa cũng đau lòng

Anh cứ đi, đi mãi tới đầu sông
Đến tận man thiên nước chảy xuôi dòng
Anh chợt nhận ra một điều rất thật
Tay Em sau lưng dấu lá diêu bông.              

                                        ZuLu DC


             Tác giả bài thơ ZuLu Dc

MỘT BÀI THƠ VỊNH ẢNH KHÔNG ĐỀ TUYỆT HAY
                                                                 Châu Thạch 

 Vừa thức giấc ngủ trưa, còn nằm trên giường, tôi đọc được bài thơ vịnh ảnh không có tựa đề của nhà thơ ZuLu DC. Bài thơ đã cho tôi ngập tràn những cảm xúc.
Lên cơn viết như lên cơn yêu. Lên cơn yêu thì phải tỏ tình. Tôi đang lên cơn viết như lên cơn yêu, nên phải tỏ tình bằng cách viết, không cần nghĩ đến hậu quả sau nầy nó sẽ ra sao.
Từ bài thơ không có tựa đề của  ZuLu DC tôi tìm trên google có đến trên 100 bài thơ khác nói về lá Diếu Bông. Thật tình, trừ bài thơ chính “Lá Diêu Bông” của nhà thơ Hoàng Cầm, không có bài nào khác làm cho tôi cảm thấy thú vị bằng bài thơ trên đây.

Ta hãy đi vào khổ thơ đầu:

Đi hết núi anh tìm mà chưa gặp
Hoàng hôn tím tiếp tiếp bình minh hồng
Rét mướt mùa đông nắng nung mùa hạ
Anh vẫn chưa tìm được lá diêu bông !

Cũng như trăm bài thơ “Lá Diêu Bông” khác, ZuLu DC nói về cuộc hành trình của mình đi tìm lá Diêu Bông cho em.

Ta hãy đọc hành trình đi tìm Lá Diêu Bông của nhà thơ Hoàng Cầm:

 “Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng/Chị thẩn thơ đi tìm/Đồng chiều/Cuống rạ/Chị bảo/Đứa nào tìm được lá Diêu Bông/Từ nay ta gọi là chồng/Hai ngày em tìm lá/Chị chau mày/Đâu phải lá diêu bông/Mùa đông sau em tìm lá/ Chị lắc đầu/Trông nắng vãn bên sông/Ngày cưới chị/ Em tìm lá/Chị cười xe chỉ ấm trôn kim/Chị ba con em tìm lá/Xòe tay phủ mặt chị không nhìn…”

Vậy là, Hoàng Cầm đã tìm ra được lá Diêu Bông mà chị ấy nuốt lời. ZuLu DC thì tìm không ra lá bao giờ.

Vậy là, Hoàng Cầm tìm ra lá Diêu Bông cũng dễ dàng. ZuLu DC phải băng núi, vượt sông qua thời tiết khắc nghiệt mà vẫn tìm chưa ra lá Diêu Bông.

Tất nhiên ZuLu DC dựa “Lá Diêu Bông” của Hoàng Cầm để thổ lộ cuộc tình của mình nên phải viết khác đi. Không thể đem so sánh hai cách tìm lá Diêu Bông ấy, cách nào là hợp lý, là thi vị hơn. Thế nhưng nếu đặt riêng thơ ZuLu DC ra, ta thấy được nhà thơ  đã gói cuộc hành trình đầy thăng trầm trong bốn câu thơ rất gọn. “Bình minh tím tiếp tiếp hoàng hôn hồng” là những tháng ngày còn đẹp, lặn lội thong dong trong cuộc  hành trình. “Rét mướt mùa đông, nắng nung mùa hạ” là những tháng ngày gian khổ đi tìm lá Diêu Bông.
 Hoàng Cầm tìm ra lá Diêu Bông, còn nuôi hy vọng chị ấy sẽ nhận lời. ZuLu DC thì khác, tuyệt vọng vì “Anh vẫn chưa tìm được lá diêu bông”

Qua khổ hai của bài thơ, ta mới thấy người đi tìm lá Diêu Bông bây giờ không phải là đứa trẻ ngây thơ, đi tìm lá trên đường trần như trong thơ của Hoàng Cầm. ZuLu DC đã bước vào thế giới tâm linh, để tiếng thơ của tác giả mang đầy nỗi niềm trăng trở. Phật và Chúa xuất hiện trong thơ để làm gì? Để gánh thay cho nhà thơ sự bất lực trong tình yêu, để thấy lẽ huyền vị của đạo cũng thất bại trước nghịch cảnh của tình, và để thấy tác giả nặng lòng vì lá Diêu Bông biết bao nhiêu!

Tới cảnh danh lam anh cầu khẩn Phật
Lại đụng đầu với những sắc không
Mang từ bi anh đi tìm gặp Chúa
Chúa bảo tình con Chúa cũng đau lòng

Nhà thơ tới cảnh danh lam để cầu khẩn Phật lại đụng đầu với sắc không. Sắc không là gì? Sắc không là sự vô thường trần thế bởi duyên nghiệp mà gây ra. Vậy thì ở đây ZuLu DC đã đề cập đến nghiệp mà hai người đã gây ra từ tiền kiếp, nên cái duyên bây giờ không thể có nhau.

Nhà thơ mang từ bi đến tìm gặp Chúa thì Chúa bảo “tình con Chúa cũng đau lòng”. Vì sao thế? Vì Chúa tể trị vạn vật nhưng không thể tể trị tâm hồn con người. Khi con người ăn trái cấm thì Chúa cũng buông tay, khi con người chưa có tấm lòng hiệp nhau thì Chúa đành chịu.

Khổ thơ đặt tình yêu bên bờ vực thẳm, cho tình yêu tính thiêng liêng riêng của nó mà đấng cai quản trời đất cũng không can thiệp được. Khổ thơ cũng cho ta thấy sự bế tắc cúa người đi tìm lá Diêu Bông. Để làm gì? Để tác giả mở ra một khổ thơ cuối rất bất ngờ, mang đến nụ cười di dỏm cho người thích dí dóm, mang đến nỗi đau cho người ưa bi lụy, và mang đến cho ai đọc thơ, dầu cảm xúc thế nào thì cũng cảm nhận đôi cánh của thơ vút bay trong tâm hồn ta, chao đảo đến tuyệt vời trên bầu trời thơ, đẹp vô cùng!

Anh cứ đi, đi mãi tới đầu sông
Đến tận man thiên nước chảy xuôi dòng
Anh chợt nhận ra một điều rất thật
Tay Em sau lưng dấu lá diêu bông.

Hãy nghe đoạn cuối “Lá Diêu Bông” của Hoàng Cầm:

“Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu bông hời...
  ...ới diêu bông...!”

Hoàng Cầm cầm chiếc lá Diêu Bông đi đầu non cuối bể. Ngược lại ZuLu DC đến đầu non cuối bể, đến tận chốn “man thiên” mới thấy lá Diêu Bông em cầm dấu sau lưng.

“Man Thiên” là đâu? Thật tình tôi không hiểu hai từ nầy nhưng tôi đoán từ chữ “Man di” mà ra. “Man di” được hiểu như là thiếu văn minh, sống như thời nguyên thủy. Vậy “Man thiên” có thể hiểu là “chốn đất thiên ở thời nguyên thủy”. Chốn đất thiên nầy hiểu xa một chút chính là vườn Địa Đàng, nơi khai sinh loài người theo Kinh Thánh. Nếu hiểu như vậy thì nhà thơ đã quay về quá khứ trong hư cấu, trong tưởng tượng hay trong giấc mơ thật sự cúa mình. Và vì thế người đọc thơ cũng có thể cảm nhận được một giấc thụy du dài triền miên trong cuộc đi tìm lá Diêu Bông.

Lá Diêu Bông không có bao giờ và giấc thụy du tìm lá Diêu Bông cũng ngắn thôi, từ khi nhà thơ ZuLu DC nhìn thấy chiếc ảnh đẹp của nữ thi sĩ Trần Mai Ngân dấu bó hoa sau lưng.

Lá thì không có, mộng cũng không lâu, bài thơ thì ngắn nhưng tất cả là một cảm tác tuyệt vời, một con mắt nhìn ảnh thẩm thấu hoàn toàn nghệ thuật, một bài thơ vịnh ảnh chan chứa tình, mơ mộng như hồn bướm và siêu thoát quay về chốn cội nguồn, chốn nguyên thủy, có bóng em tươi cười, ngổ nghịch, với lá hoa Diêu Bông dấu sau lưng làm em trở thành thánh nữ, hiển hiện trong tâm hồn bất kỳ ai đó yêu thơ.

Tôi yêu bài thơ vô cùng nhưng trí tôi hạn hẹp, chữ tôi đơn sơ, khó mà viết hết được những gì hiển biện trong giấc thụy du cúa tôi, cũng  theo bài thơ từ tấm ảnh, băng qua hoàng hôn tím, bình minh hồng, rét mướt mùa đông, nắng nung mùa hạ, để về miền có cây trái cấm, nhìn em của ZuLu DC cầm bó hoa Diêu Bông cười ngộ nghĩnh!!! 

Bài thơ không đề của ZuLu Dc còn cái hay nữa là đã bày tỏ trong thơ tâm hồn lãng mạn và sự tinh tế của thi nhân. Đây là một bài thơ vịnh ảnh, cảm tác mỳ ắn liền, mục địch chính để khen bức ảnh mà thôi. Thế nhưng tác giả không dùng sáo ngữ thường tình mà lại hư cấu nên một câu chuyện tình hư huyễn để gián tiếp tôn vinh bức ảnh đẹp. Qua thơ tác giả gởi vào ảnh một cái gì đó trong sâu kín của lòng mình, cọng thêm một chút trách yêu đầy thi vị, khiến người trong ảnh và người đọc thơ cảm thấy sự cao khiết quyến luyến cúa một thứ tình câm tuyệt vời.

                                                                    Châu Thạch

READ MORE - MỘT BÀI THƠ VỊNH ẢNH KHÔNG ĐỀ TUYỆT HAY - Châu Thạch