|
Đồng làng Hưng Nhơn. Ảnh Nguyễn Như Khoa |
Bị
bắt lần thứ nhất
Lợi dụng mùa
nước lũ, trong làng các hầm cá nhân ủng nước,
ngoài cồn mã, ruộng cũng lênh láng nước và
nước. Phía VNCH tổ chức những cuộc càn quy mô
nhỏ, bất ngờ nhằm đánh lạc hướng đề phòng
của ta. Tin địch về tôi vội chạy ra đồng, băng qua
mấy cồn mã, nhào xuống ruộng ngoài cồn Mồ
kiềm giữa. Đạn rơi lụp bụp bốn phía. Tôi vơ đám
cỏ lùng tấp lên mặt. Một chiếc nôốc trượt
kéo đám cỏ và chúng xum lại kéo tôi lên. Vừa
đánh vừa cho thuyền rong vào đường bạng xóm
Thượng. Tay bị trói chặt. Một thằng quát:
Lý trưởng mày đâu. Làng tôi không có Hội tề. A!
thằng ni nói giọng Việt cọng. Đứa lấy khăn bịt
miệng, đứa cởi ủng múc nước đổ vào. Bụng
tôi căng lên. Tôi không biết gì hết. Đứa đá bên
này, đứa đá bên kia, người tôi bụng căng cứng,
tay chân mềm nhũn. Dừng! một thằng hét, có tiếng
còi tập trung. Chúng dong tôi đi theo đường trôôn
xóm thượng theo dọc đường cái đi về, khi ngang qua
nhà tôi, tôi cố ngẫng cao đầu và ngoảnh ra bờ
hói, cố tránh sự khóc lóc của người nhà, sợ
chúng phát hiện ra sẽ liên luỵ tức khắc. Đến
cuối làng An thơ chúng đưa sang Vĩnh an rồi đưa
thẳng lên Mĩ chánh, tống vào lô cốt. Nằm lô
cốt, té ra chúng chỉ bắt được một mình tôi.
Tôi nhớ chiều nay rất nhiều thanh niên sao chúng
chẳng bắt ai. Lạ nhỉ! Sáng, chúng lôi lên tra khảo
và hỏi lung tung. Tại sao mày chạy trốn. Tôi nói
gọn: các ông đem súng bắn lung tung tôi sợ phải
chạy. Thằng này lý sự. Đánh, đánh , đánh là
không biết cũng phải biết mà khai. Cứ thế loanh
quanh suốt buổi. Nghỉ, chiều làm tiếp…
Sau ba bốn ngày hành
hạ, tối đó một lính vác súng, một người quần
áo trắng đến lô cốt gọi tôi lên có người gặp.
Từ bộ ghế ngựa hai người đứng dậy ra nhìn
tôi rồi kéo vào chỉ tôi ngồi cùng bức ngựa. Tôi
rut rè ngồi cạnh. Trên bức phản có mấy đĩa kẹo
bánh và ấm nước. Nguyễn Văn Bình người Văn Quĩ
, Nguyễn Văn Bá người Phú kinh, đã cùng tôi làm
trong UBKCHC xã Hải phong. Tôi và Bá có bà con
gần: mụ o tôi là mẹ Bá. Cuộc gặp, hai anh nói đơn
giản là chúng ta biết nhau rồi, có chi mà phải nói
nhiều; sang đây làm với nhau cho vui. Anh hiểu cho, tôi
và Bình mới biết chiều nay, làm anh khổ. Để ghi
cung của người bị bắt là tôi và Bình mà đã
biết rồi thì cần chi phải hỏi nữa. Yên tâm, nó
hạ giọng: “Đừng làm khó cho tôi”. Hơi bất ngờ,
tôi chưa nghỉ ra câu gì để nói, và xin để suy
nghĩ. Trở lại lô cốt. Chắc cả hai đều làm
Phòng Nhì cho Pháp rồi. Ngủ dậy thấy những người
“chăm sóc” tôi mấy hôm rồi có dáng như gần
gủi. Chiều vợ tôi lên, (sao đẹp thế), tôi suýt
bật thành lời. Vợ đưa tôi tấm khăn tắm cỡ
80x140cm trắng toát, mịn màng tương phản với cảnh
lem nhem trong lô cốt. Bọn lính nháy nhau ở tù mà
sang thế. Vợ tôi lí nhí: em không mua, của ai thì anh
biết rồi đó. Tuỳ anh! Tôi định nói cầm về
nhưng kịp ghìm lại, không nên căng thẳng.
Có một sáng sau những
ngày căng thẳng, mệt mỏi và nhàn rỗi, môt người
(mặc áo sơ mi trắng) rủ tôi đi cùng anh ta ra
chợ Mĩ chánh dáng vui vẽ như bạn bè. Đi để làm
gì, tôi cũng không hỏi.Tôi đi theo, chưa đến chợ
tôi dừng lại và nói không thích đi chợ, tôi
chẳng cần gì.Tôi quay lại, người ấy nói như nài
nĩ: thì đi chơi cho thoải mái, ngồi trong lô cốt
không mệt à. Không tôi không đi. Tôi quay về người
ấy cũng miễn cưởng trở lại.Tôi vào lô cốt tự
hỏi, sao anh ta cho đi ra chỗ đông người không có lính
kèm, không trói tay, họ không sợ mình trốn à.Tôi
chưa tìm được lời giải. Hình như mấy hôm nay tôi
không được tắm, chiếc khăn trắng đã lem bẩn
xấu xí, nhàu nát.
Chưa mờ
sáng đã nghe tiếng gọi ra sắp hàng. Nhìn thấy
toàn là người làng Hưng nhơn, dễ chừng hơn
hai chục người. Tôi à lên ngạc nhiên : lần này nó
tóm gon tất cả thanh niên làng mình không sót một
ai, không thấy ai bị trói và bị đánh đập như
tuần trước bắt tôi. Chưa kịp hỏi nhau câu gì
chúng đã lùa lên xe chở ra Quảng tri rồi chở vào
Huế. Chúng bắt ta đi lính cho chúng. Một ngày ở
Văn thánh Võ thánh. Mưa như trút nước. Sông Hương
nước đỏ ngầu. Hôm sau chúng chuyển về đồn Địa
linh (trong số bị bắt, hiện nay còn sống ở làng
là Nguyễn Đức Hối, Nguyễn hữu Tân) .
Chỉ mấy hôm, chúng
gọi tôi lên bảo là kiểm tra văn hoá để đi học
sĩ quan. Đề ra bài văn là: Có bạn thân đang bên
Cọng sản. Hãy vì tình bạn mà khuyên bạn về với
quốc gia, quốc trưởng Bảo đại.
Không nhớ tôi viết
thế nào mà hai hôm sau, tên Đồn trưởng gọi tôi
lênVăn phòng ông ta (chỉ mình ông với tôi). Ông ta
cười nhẹ báo tin tôi được đi học, rồi gằm mặt
xuống kể hai tội của tôi. Một là nội dung
bài văn sặc mùi cọng sản và hai là, ông dừng lại
hơn vài ba phút như cân nhắc điều sắp nói. –Sao
không báo với tôi mà viết truyền đơn dán lên
khắp tường. Tù, tù rục xương, giọng trấn áp.
Tôi thực sự hơi hoảng, nhưng kịp trấn tĩnh. – Tôi
biết gì đâu mà dám lên với quan, họ dán giấy
lên tường à. Đừng ỡm ờ ! Dù có viết toàn
chữ kiểu say rượu tôi vẫn khớp được chữ
anh (chữ bài thi và chữ dán trên tường), anh giúp
tôi đừng làm tôi thất vọng. Giọng nó sao mềm
thế, tôi đang là cái gì mà đồn trưởng lại bảo
giúp nó. Tôi nghĩ. Tôi nhỏ nhẹ thăm dò: Họ viết
nói gì? Anh quên rồi hả ? Ăn uống khổ, mất vệ
sinh, lính mà đánh bạc suốt đêm v.v…Đúng như thế
thật, nhưng không được nói ra. Tôi không biết
gì đâu, tôi xin về trại.
Đêm,
trằn trọc, mấy tiếng đi học, giúp nó, giọng mềm
và trấn áp của tên đồn trưởng cứ chờn
vờn không sao ngủ được. Sực nhớ câu quốc tưởng
Bảo Đại, cái không thiện chí với Bảo Đại trổi
dậy. Lần đi đón tức chết đi được, miệng nói
làm công dân hơn vua, làm cố vấn cho cụ Hồ rồi
trốn và trở mặt làm Quốc Trưởng…Ai bầu…?
Phải trốn, trốn bằng cách gì, tôi cũng không biết
chỉ biết là phải trốn.
Tình cờ
nghe chuyện mưu mẹo của một người hoản bắt lính
bằng cho tỏi vào nách rồi van la nóng rét. Kẹp
nhiệt độ sẽ lên cao. Tôi liều bắt chước và Y
tá đồn đang đêm cho tôi vào viện điều trị bởi
sốt đột ngột. Người tôi nhẹ băng, thoải mái
nhưng phải đắp chăn trùm kín mít và không ăn. Tự
khổ sai khoảng dăm hôm, rồi “đỡ dần ra”.
Sau đó họ cho ra viện. Cầm tờ giấy ra viện mới
biết nơi đây là đồn Mang Cá. Giấy ghi nghỉ 5
ngày. Nhanh như chớp, đây là cơ hội cho ta trốn. Tôi
ghi thêm sau chữ nghỉ 5 ngày: ở nhà tại làng Ưu
điềm. Đã liều là liều. Tôi đi chuyến xe chiều
Huế- Ưu điềm. Đến căn cứ Mỷ chánh, dừng xe
kiểm soát. Tay tôi chìa giấy nhưng vẫn cầm chặt
và đọc luôn nghỉ 5 ngày tại Ưu điềm bằng tiếng
Pháp. Tên lính vội đẩy tay tôi và cả giấy, miệng
nói được rồi, được rồi. Nhẹ hắn người
nhưng không dám thở. Đến giờ này tôi như đang
ngồi trên đống lửa: không thể xuống chợ Ưu
Điềm được vì đó là đồn lính vả lại nhiều
người biết tôi. Có thể do mừng mà sinh chuyện,
lòng tự nhủ. Qua khỏi đồn Câu Nhi Hoà, phải xuống!
Vào bất cứ nhà nào phía bở sông, đêm lội sông
sang Câu nhi, hoặc băng đồng sang thôn Chùa, thôn Niêm,
làng Ưu điềm. Xuống xe, trời chạng vạng, rẽ đường
cái bước vào ngõ như vào nhà mình, trong nhà có
người hốt hoảng chạy ra. Tôi trốn lính. Tôi là
con ông Cửu Liên, thợ mộc làng Hưng nhơn. Ở gần
đồn, vào nhà, tiếng nói âm ấm trong nhà vọng ra.
Tốt rồi. Bác chủ nhà lại tiếp: Tôi về làm
ruộng với gia đình mình nhiều, tôi cũng biết chú
nhưng chú làm việc mô trên tỉnh trên huyện chi đó
nên không gặp mấy. Quay sang sai con gái nấu cơm nóng
cho chú ăn ấm bụng. Bây giờ tôi mới thấy bụng
mình đói quặn. Thay bộ áo quần nông dân, 3 người
đưa tôi lên thôn Chùa làng Ưu điềm quê vợ tôi.
Chặng
đường quen mà lạ, lạ mà thân thương: Ưu điềm -
Thượng nguyên - Trầm - Khe mương - Hải đạo - Hưng nhơn - Hải
phong cho đến ngày tập kết ra Bắc. Đoàn của xã
Hải phong do Nguyễn Ngôn (người Hà lỗ) làm Trưởng
đoàn. Hưng nhơn chỉ một mình tôi đi. Ngày 28-7-1954,
hai ngón tay giơ lên biểu tượng của xa nhà hai
năm thế rồi hai mươi môt năm biền biệt và vẫn
biền biệt cho đến khi tôi ngồi viết những dòng
này
***
Năm 1973,
nhân đọc một bài viết của nhà văn miền Nam
gửi ra nói về một trong những chuyện cán bộ
cốt cán của ta theo về phía Mỹ Nguỵ, có trường
hợp bị trở thành tay sai đắc lực cho nó. Chuyện
rằng cán bộ ta bị bắt, có người chúng cho ăn
uống tử tế, tự do đi lại (tất nhiên có người
theo dõi), mỗi ngày mỗi được ăn uống tốt hơn,
cho đi chơi đến chổ đông người với thái độ
thân thiện. Môt thời gian, nó thấy “cán bộ ta”
đã mê cảnh ăn chơi và đặc biệt bị dư luân bà
con xôn xao rằng đã theo giặc. Chúng hỏi: anh bây giờ
đã muốn về nhà chưa, muốn về thi cho về, như
không muốn về thì ở lại với chúng tôi. Chỉ cần
kí vào giấy nầy: ĐƠN CHIÊU HỒI..
Bất
giác tôi rùng mình nhớ trường hợp mình bị
bắt, có lẽ cũng theo dạng nầy. Ba ngày sau khi tôi
trốn, ở làng đã biết tôi trốn do người Phú
kinh đưa tin từ Huế ra. Những người làng bị bắt
đi lính đang ở đồn Địa linh (Huế) tưởng tôi
còn nằm viện chưa về chứ không biết tôi đã
trốn. Năm 2004 chú Tân (đã nói ở trên) hỏi tôi chơ
trốn khi mô và đi đường mô mà tài rứa.
Nếu
những ngày bị bắt ở Mĩ chánh, chỉ riêng việc
tôi ra chợ với “phòng nhì” thì sự việc sẽ
khác. Chợ Mĩ chánh sáng nay có chuyện gì khác,
tức khắc chợ chiều Ưu điềm biết hêt:
làng tôi, làng Ưu điềm đi chợ mua bán đông lắm
mà tôi lại nhiều người biết.
Tôi sẽ không
dám vào xóm Câu Nhi Hoà cũng không dám đến thôn
Niêm, thôn Chùa nếu tôi đi chợ Mĩ chánh với
chúng. Họ sẽ trói gô tôi và “đem trả lại đồn
Mĩ chánh”. Tôi biết họ là những người trung
thành tuyệt đối với bên ta (Việt minh).
Cũng
may cho tôi và cũng đúng với tâm trạng buổi
đầu bước vào đời.
Bị bắt lần thứ
hai
Một
tháng đi bộ, nơi dừng chân, để chỉnh huấn là
xã Nam Bình, Nam đàn, Nghệ an. Sau chỉnh huấn
chúng tôi được về nghỉ ngơi tại xã Hưng phú Hưng
nguyên có nhà máy đường Sông La. Con đê 42 vỡ, nhân
dân vô cùng cực khổ. Nhiều gia đình đi xin. Chúng
tôi thỉ ngồi chơi. Tôi rủ Nguyễn Ngọc Tân (biệt
động Huế) lên gặp cán bộ hỏi và được trả
lời: các anh thuộc diện đợi cấp trên bố trí
công tác. Ở đây chỉ bố trí việc cho lao động
chân tay. Hai đứa bấm tay nhau, việc ấy chúng tôi
làm có được không, ở rỗi buồn quá. Một anh
bảo: các anh muốn làm phải viết đơn tự nguyện.
Tự nguyện thì có chi mà không viết được. Thế
là chúng tôi về đơn vị có tên là đại đôi 313
công trường nông giang bắc Nghệ an. Nhớ lại mới
thấy mình “oai” là có đơn tự nguyện mới trở
thành công nhân, bởi sau đó khoảng một tháng
đơn vị 313 rồi 314, 315, 316 v.v…những người trước
đã làm ở Ty Thông tin tuyên truyền Quảng tri và
nhiều cán bộ cấp tỉnh huyện, các anh chị em gánh
vũ khí quân lương rồi những anh chị em vượt tuyến
ra sau tập kết, ồ ạt vào làm công nhân mà không
cần đơn tự nguyện.
Những
ngày hàn gắn đê 42 và xây Cống Vũng Bùn (cách ba
ra Đô lương) 13km chủ yếu là gánh đất, đập đá
dăm để đúc ống cống. Tôi và Nguyễn Khánh Xuân
(Văn quĩ) xuất sắc nhất. Đập đá dăm cỡ 2x2
cm, năng suất trên dưới 2 mét khối/ ngày.
Định mức 0,8 khối, có người chi đat 0,4; 0,6 mét
khối..
Chúng
tôi ở nhà dân, phong trào Cải cách ruộng đất đang
rầm rộ, tối đi dự đấu tố địa chủ, tuy
không biết gì cũng đi, nghe nông dân hô thì hô theo.
Ở
đơn vị 313 , tôi được mờì dự cuộc họp (với
chức danh là cán bộ dạy bổ túc văn hoá).
Bí thư đảng : Phấn, Đại đội trướng:Thiệp báo
cáo về chị thị chấn chỉnh tổ chức trong cơ quan
nhà nước song song với CCRĐ ở nông thôn của Liên
khu uỷ Liên khu IV.
Trong
những ngày ấy, không khí bàn tán chuyện thành
phần ở nông thôn, thành phần tiểu tư sản, tư sản
trong cơ quan inh ỏi cả lên.
Tôi
nói nhà ông Hợp nơi tôi ở, ông ấy nghèo thế mà
địa chủ gì, qui thế là sai, bởi họ ăn cơm độn
cà pháo đắng nghét, áo không có chiếc lành. Trong
đơn vị xôn xao tổ X đưa quang gánh xuống bến ngâm
để cho trôi ra giữa ao làm mất thì giờ “vàng
ngọc”.Tôi cho rằng dân xuống bến giặt giũ, chao
chọng rồi trôi, trôi ra thì vớt có gì mà quan
trọng sinh ra to tiếng tranh cãi.
Đêm
20-5-1955, có một cuộc họp toàn Đại đội đột
xuất. Trời tối đen như mực, đến nơi thấy trên
tấm băng nền đỏ: Chỉnh đốn Tổ chức. Kiên
quyết đấu tranh chống những phần tử phản động
. Ghủ toạ, thư ký vào vị trí. Vài lời ngắn gọn,
Tiếng chủ toạ: Nguyễn Thanh Xuân lên bục, Nguyễn
Thanh Xuân lên bục, nghe rỏ không. Tôi bàng hoàng,
chuyện gì vậy. Cả hội trường im phăng phắc.
Tiếng chủ toạ lại vang lên; NTX lâu nay đội lốt
một thầy dạy Bổ túc văn hoá đơn vị ta, dạy
giỏi để gây cảm tình trong chúng ta nhưng bên trong
hết sức phản động. Xin mời ai có oan thì lên
đấu.
Một
chị to béo nặng nề bước lên. Chị ni thì sợ
mình một phép và luôn có cảm tình (tôi nghỉ). Tôi
lắng nghe chị nói gì? - Ai đời dạy tui, ra bài hỏi:
Vì sao không thở là chết. Câu ni dễ ợt, tui trả
lời là do đế quốc phong kiến đè bẹp nên chết.
Điểm 10 là cái chắc, rứa mà khi trả bài tui được
điểm 1. Rứa là bao che cho đế quốc phong kiến,
đúng là phản động. Cánh tay khác giơ lên: O Hiền:
anh a trang hoàng đám cưới của tui mà không tích
cực, chủ toạ hét lên chỉnh đốn: không được goi
người bị đấu là anh, cô ta ờ ờ khi đã về
chổ của mình và nói thêm còn nói tiếng Tây
nữa. Nhiều bạn thân với tôi, sợ liên luỵ và
không có gì để nói, buộc lòng chạy loanh quanh bên
ni hội trường qua bên tê hội trường và lẫm bẩm:
có chi thì nói lên cho rồi, nói lên cho rồi. Hội
trường lặng đi chốc lát, thằng R cúi mặt lấm
lét đi lên không nhìn ai: Tui được giao gác cổng để
trong nhà kết nạp đảng. Đảng quốc quốc gì đó.
Khi ai đến ngoài người đã dặn thì hú lên để
trong trốn. Chủ toạ Bi thư Phấn nói: Nguyễn Thanh
Xuân có nói gì không? Tôi nói: chuyện ra câu hỏi và
cho điểm làđúng. Trang hoàng đám cưới và có
khi nói tiếng Pháp cho vui cũng đúng, còn cho người
gác để kết nạp là bịa. Chủ toạ cắt ngang, không
được phép nói quần chúng đấu tranh là bịa. Sang
bàn thư kí để ký tên. Tôi không ký. Bốn năm
người bóp tay tôi ngoặc vào biên bản.
Sáu
bảy người, trước một ngọn đuốc, sau một ngọn
đuốc dẫn tôi về nhà ông Hợp (nơi tôi ở) tịch
thu toàn bộ những gì tôi có trong đó có tấm
hình mẹ tôi.Tấm hình mẹ tôi tách từ tấm căn
cước trao cho tôi khi đi tập kết. Tôi xin mãi họ
vẫn không cho. Còn lại cho tôi hai bộ áo quần và
cái bàn chải đánh răng. Đêm đó tôi nằm, hai tay
bị trói vào thành giường. Tiếp những đêm sau
cũng trói như vậy. Cái may cho tôi là những người
đi kiểm tra, vào chổ tôi nằm nói lớn để tau xem
những múi buộc đã chặt chưa, rồi chuồi cho tôi
mấy củ khoai khi thì vài trái chuối và nới dây
trói có khi tháo hay buộc hờ. Tôi tin là họ thương
tôi vì hầu hết là bạn là học bổ túc tôi dạy.
Sau
thời gian tù tội căng thẳng, họ không tìm ra điều
gì như hôm đấu tố. Họ trả tôi trở lại làm
việc như ban đầu với cơ chế giam lỏng (vẫn đi
làm như công nhân). Thường xuyên có hai người giám
sát. Đi đâu, kể cả đi vệ sinh cũng phải xin, họ
ngúc mới được đi. Một hôm cả BT Phấn, Đại đội
trưởng Thiệp đến gặp tôi vừa an ủi, vừa thăm
dò vừa trấn áp. Phần tôi tôi tự biết không có
gì sai nên rất bình tĩnh tự tin, hơn nữa (tôi và
Nguyễn Khánh Xuân) có danh sách bầu Chiến sĩ thi
đua (năng suât 2 mét khối đá dăm/ngày)
Tôi không
có gì lo lắng sợ sệt, tôi nói: xin các anh về
đi, tôi biết các anh cũng chỉ là người nói theo.
Các anh không nói theo là mất chức. Tôi không có gì
để nói với các anh. Nếu cón sống các anh sẽ
biết sai. Lúc đó ta gặp nhau vui vẻ.
Đơn
vị di chuyển nhiều nơi, đến đâu tôi cũng hỏi tìm
người có sách để mượn đọc. Tôi ham đọc lắm.
Mượn được quyển nào là tôi nghiền ngẫm, có
quyển giúp tôi nhớ đến hôm nay.
Đến
tháng 8-1956, một sự tình cờ (hay là chị có chủ
ý), ngồi nói chuyện với chị có tên là Sáu (chị
người Nam bộ hơn tôi khoảng mươi tuổi) đột ngột
chị nói: tôi thấy cậu ham học, thích
đọc sách, có một lớp của nhà nước bổ túc
văn hoá cho con em miền Nam, nếu học tốt sẽ đi học
trường Trung cấp Nông lâm Trung ương Hà nội. Nhưng
bây giờ phải kiểm tra văn hoá đã. Tôi mừng quá
nhưng nghỉ là chị này không biết làm việc chi ở
Nông trường mà biết rạch ròi chủ trương của nhà
nước nhưng lại không biết mình đang bị quản thúc.
Mình làm sao mà đi học được. Do dự một hồi:
Chị ơi, nghe chị nói em thích quá, nhưng ai cho em đi.
Không hiểu sao tôi xưng em với chị một cách gần
gủi mà trước đây tôi chưa hề làm thế bao giờ.
Chị cười, nét cười của chị làm tôi xúc động.
Chị nói em nghe: chị là Đảng uỷ viên của Đảng bộ
Nông trường, trường hợp của em chị biết và đã
có danh sách sửa sai, nhưng chưa có nghị quyết gửi
về nên chưa được công khai. Chị nói với em thôi em
chưa được cho ai biết. Có đi thi không, trình độ
lớp 5 với cậu thì có gì mà lo. Cậu dạy giỏi
học trò rất mê cậu. Chị gọi tôi bằng cậu như
em ruột chị vậy.Tôi có cảm tưởng thế. (1)
Chị ghi
cho em đi thi, nếu được thi, em sẽ cố gắng. Thế
là thi đạt điểm ở Nông trường, rồi tôi và
Khánh Xuân ra Hà nội thi lần nữa. Cả hai đều đỗ
và được nhận vào học Bổ túc văn hoá, niên
khoá 1956-1957 để có trình độ 7/10. Khi thi đỗ lớp
7 mới được thi vào hệ chính quy học trường Trung
cấp Nông lâm Trung ương.
Niên
khoá 1957-1958, năm sửa sai nên lấy lượng học sinh
rất ít. 2.800 thí sinh dự tuyển mà chỉ tiêu lấy
vào chưa đến 400. Riêng lớp bổ túc cho con em
miền Nam là 150 học sinh chỉ đậu có 10
trong đó có Khánh Xuân và tôi.
Đang học
thì tháng giêng năm 1957 tôi có giấy mời về Khu 4
để dự lễ sửa sai cho những người bị nghi oan.
Tôi đang học không về dự được. UBKCHC liên khu 4
gửi ra cho tôi:quyết nghị sửa sai nhiều thư để
tôi gửi bạn bè nhằm chứng tỏ lâu nay nhà nước
không cho gửi. Quyết nghị ghi ngày 5-1-1957 có câu: Nay
phục hồi danh dự công quyền và các quyền lợi
chính trị kinh tế v.v.. cho ông Nguyễn Thanh Xuân,
một văn bản khác đề ngày 22-2-1957 có câu: các
thiệt thòi về kinh tế đồng chí kê khai và báo
cáo cho cơ quan đang công tác xét và giải quyết.
Thực chất là không được trả gì hết, bởinơi
thu giữ ở khu IV mà đơn
vị tôi đang ở lại là trường đóng tại Hà nội. Ở trường có gì mà trả cho
tôi. Tổ chức nhàtrường thông cảm. Tấm
ảnh mẹ tôi trao cho ngày đi tập kết cũng mất từ
đó (những văn bản trích ghi trên hiện nay tôi còn
giữ)
Thế
là sau 3 năm theo học chính quy, tôi có lưu lại bài
thơ, ghi tháng 10-1960 như sau:
Trường giữa thủ đô
Nông lâm Trung cấp Trung
ương
Sáng rực lòng ta mong
ước
Tay chai chân trần
tiến bước
Sách đời đã đổi
sang trang
Ba năm dùi mài kiến
thức
Vở bài không chút đơn
sai
Dẹp lòng đêm Nam ngày
Bắc
Ngày mai tất cả ngày
mai…
Cầm bằng tốt nghiệp
trong tay
Hai năm! Chưa dễ , còn
dài
Việc gì ta nào quản
ngại
Quê hương nặng gánh
hai vai.
…………………………………..
(1) Tháng 1-57 tôi gửi thư cho chị Sáu ở Nông trường
nhưng được trả lời là chị về công tác ở
Tỉnh, chưa có địa chỉ. Rồi mất liên lạc luôn. Tôi
thật có lỗi. (NTX)
Nguyễn Như Xuân
Hà Nội