Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Friday, April 29, 2022

HÀNH TRÌNH THƠ TRẦN THƯƠNG BÁ, CHẶNG 3: “TẬP VÔ NGÔN KINH” – Đỗ Tư Nhơn

Như một lời cám ơn gởi về miền thiên thu vĩnh hằng – nơi yên nghỉ của nhà thơ Trần Thương Bá, người đã để lại cho cuộc đời những tập thơ có sức ngân vọng, gõ cửa trái tim những người đồng điệu tri âm. Ba tập thơ của anh hãy còn đây trên “Hành Trình Thơ Trần Thương Bá”, nén tâm hương tưởng nhớ Anh muộn màng, sau 20 năm anh xa lìa trần gian.

Nhà giáo - nhà thơ Trần Thương Bá
(1940- 2002)
 
Từ tập Tình Huế đến tập Thơ Ngây Ngô, hai chặng trên con đường thơ Trần Thương Bá trải qua 2 thi pháp: thi pháp của chủ nghĩa Lãng mạn đến thi pháp của chủ nghĩa Tượng trưng đều mang sắc thái phương Tây.
 
Giờ đây tập thơ Vô Ngôn Kinh (VNK) đang mở ra trước chúng ta một chặng mới, từ hình thức đến nội dung.
 
Góc nhìn về thể loại và nhịp thơ Vô Ngôn Kinh
 
Sau khi dùng nhiều thể loại thơ, đến Vô Ngôn Kinh anh hướng về thơ Lục bát (sáu-tám), một thể thơ bắt đầu từ Ca dao, Truyện Kiều, Nguyễn Bính …
 
Thi tập Vô Ngôn Kinh gồm 55 đoản khúc tứ tuyệt bằng thể Lục bát. Đi tìm nguồn gốc của loại tứ tuyệt, chúng ta thường gặp các hình thức: thất ngôn tứ tuyệt (7 chữ, 4 câu), lục ngôn, ngũ ngôn (6 chữ, 4 câu; 5 chữ, 4 câu). Riêng loại Lục bát tứ tuyệt đã được dung từ Nguyễn Du, Trần Tế Xương, Trần Tuấn Khải... Chế Lan Viên cho đến các nhà thơ hiện đại. Tuy nhiên hình thành một tập thơ hoàn chỉnh bằng loại Lục bát tứ tuyệt, thì chúng tôi nhận thấy có Động Hoa Vàng của thi sĩ Phạm Thiên Thư gồm 100 đoản khúc, được ấn hành năm 1971 tại Sài Gòn. Giờ đây tập Vô Ngôn Kinh nối tiếp thể loại trên ra mắt năm 1996 cũng tại Sài Gòn.
 
Một điều dễ nhận ra từ tập thơ Vô Ngôn Kinh là cách ngắt nhịp, xuống dòng (hay vắt dòng) của Trần Thương Bá thật uyển chuyển, đa dạng tạo những ấn tượng mỹ cảm mới lạ. Có thể ví anh như một nhà họa sĩ của trường phái Sắp đặt, một nhạc trưởng chỉ huy dàn nhạc, một nhà thư pháp tài hoa, sáng tạo.
 
Nếu nhịp thơ của Lục bát truyền thống đa số chọn nhịp dài, nhịp chẵn như trong câu Kiều sau:
 
“Cỏ non xanh dợn chân trời, 
Cành hoa lê trắng điểm một vài bông hoa”
                                                 (Nhịp 6/8).
 
Trái lại câu thơ Vô Ngôn Kinh thiên về nhịp ngắn, nhịp lẻ.
Câu lục (6 chữ) có nhịp lẻ, với nhiều chuyển biến phong phú, có đến 6 cách nắt nhịp khác nhau:

+ Nhịp 1 - 3 - 2: Trưa / ra đón bạn/ đầu làng.
+ Nhịp 1 - 5: Gởi / người ngàn dặm sơn khê.
+ Nhịp 3 - 3: Môi em thắm / tưởng em cười.
 
Kết hợp nhịp chẵn – lẻ như trong câu: nhịp 2-1-3:
Anh đi / còn / vết thương lòng
 
Cũng trong câu lục nhịp chẵn đặc biệt có 2 cách: 2-4 và 4-2:
 
Nhịp 2-4:
Sông sâu / bờ thẳm im lìm.

Nhịp 4-2:
Lần này thôi nhé/ về thôi.
 
Xuống câu bát (8 chữ), ngoài nhịp chẵn, Trần Thương Bá cũng tạo them nhiều câu thơ vắt dòng nhịp lẻ, có 13 cách.
 
Sau đây xin dẫn ra vài cách đặc biệt:
 
- Nhịp 1-3-1-3:
Em / qua suối nhỏ / hoa / tràn gót chân.
 
- Nhịp 3-1-4:
Con chim lạ / đến / ngủ trong tóc này.
 
Cũng có lúc nhịp chẵn kết hợp nhịp lẻ nhằm tạo nên sự đột ngột trong cảm xúc

- Nhịp 2-1-3-2:
Mơ hồ / rớt / tiếng vạc bay / ngoài thành.
 
- Nhịp 4-1-2:
Một câu lục bát / đủ / nàng ngẩn ngơ.
 
Việc đổi mới nhịp điệu câu thơ không phải là trò chơi hình thức, mà thuộc về ý thức cách tân câu thơ để tạo thêm những hiệu ứng thẩm mỹ, những xúc động, hay mở rộng liên tưởng cho người đọc, sau này trường phái Tân hình thức đã phát triển như trong bài Rượu cúc võ thìn của nhà thơ Phạm Nguyên Tường:
 
“rượu lúc cúc vàng hơi võ
thìn một thành cổ kiêu bạc
vần vũ tóc không dài hết
tiếng cười khan rũ một chiều.”
 
Nhà thơ Maiakovsky, nhà lý luân văn học Hartman đã từng khẳng định nhịp điệu là sức mạnh, là năng lượng cơ bản của thơ. Ở Việt Nam, thơ vắt dòng được dùng từ Văn Cao, Trần Dần, Phùng Quán cho đến các nhà thơ đương đại, cho nên Trần Thương Bá cũng thể nghiệm và tạo nên ấn tượng lạ. Chúng ta sẽ thưởng thức nhịp thơ Vô Ngôn Kinh hòa cùng hình tượng nghệ thuật để gởi đến độc giả thưởng ngoạn những hứng thú và nghĩ suy qua 55 đoản khúc Tứ tuyệt Lục bát.
 
Đi vào cảm nhận thơ Vô Ngôn Kinh.
 
Mỗi đoản khúc như một ký họa, trong đó có thiên nhiên hoa lá cỏ cây, có các mùa xuân, hạ, thu đông, sông nước mây trời, chim chóc. Nhân vật trữ tình hòa vào cảnh vật, với nỗi hoài hương không nguôi. Hình ảnh người nữ xuất hiện nhiều lần, mang đến hạnh phúc, lẫn xót xa. Và giữa cuộc đời đa đoan, nhiều mặt đó nhà thơ tìm cho mình một con đường.
 
+ Trước tiên, chúng ta bước vào thế giới của thiên nhiên và Em trong tập Vô Ngôn Kinh.
 
Trong Vô Ngôn Kinh, cứ mỗi bức tranh thiên nhiên từng mùa đều có hình ảnh của người nữ - Em ẩn hiện. Như thể thiên nhiên và Em là hình bóng của nhau, nằm trong nhau, cùng mang một bản thể. Hay cỏ cây, chim hoa là cái nôi ru em êm đềm. Cũng có thể là bối cảnh của tình yêu, là nhân chứng của cuộc tình khi gắn bó, lúc phôi pha…
 
Hãy cùng thưởng thúc từng bức tranh với hai nhân vật ấy:
 
“Tóc em phơi gió
bồng bềnh
nắng xuân lại đậu
trên từng sợi tơ”
(Đoản khúc 9)
 
- Em nghiêng tóc rối
trong cây
chim tha làm tổ
rắn vây
khoanh tròn.
Mùa đông ngủ
một giấc ngon
tỉnh ra
chợt ngứa chồi non
quanh mình”
(Đoản khúc 6)
 
Những bức chân dung Em giữa thiên nhiên trong trong trẻo, mang nét phiêu bồng, liêu trai khiến chúng ta liên tưởng đến tranh sơn dầu của họa sĩ Đinh Cường một thời ở Huế
 
“Em ngồi bên suối
có hay
đã bao nhiêu lá
rụng bay
theo dòng”
(Đoản khúc 34)
 
“Lưng trời
một chút sương rơi
cho em ướt áo
đem phơi gió vàng”
(Đoản khúc 24)
 
Hình bóng quê nhà trong tập thơ Vô Ngôn Kinh.
 
Phần viết về quê hương không nhiều nhưng cũng tạo nên những xúc động, ám gợi nơi tâm hồn chúng ta, thức tỉnh tìm về nguồn cội. Hình ảnh một chốn để trở về dường như xa xôi mờ ảo, chỉ thoáng qua giấc mơ của người con xa xứ vì miếng cơm manh áo:
 
- “tha hương
chẳng kịp thấy buồn
đảo điên cơm áo
cúi luồn mềm lưng”
(Đoản khúc 3)
 
Hay xa tít cuối chân trời, chỉ còn mượng tượng, từ đó trong tâm hồn xót xa, khắc khoải, như phạm tội lớn lao, như đã vong thân:
 
“Hay là ta đã quên ta
để quê hương
mãi mù xa
chân trời.”
(Đoản khúc 41)
 
Nhà thơ xứ Lebanon Kahlil Gibran (1883- 1931) đã viết trong tập PROSE POEMS: “Trên trần gian này tôi là người ly hương. Người ly hương là tôi...”. Ông giải thích ông là người cô đơn vì xa cách người thân, đồng bào. Ông cảm thấy ly hương với cả chính ông, thân xác ông. Ông là người ly hương vì không ai hiểu ngôn ngữ của tâm hồn ông. Qua so sánh, chúng ta cảm nhận rằng Trần Thương Bá đã gặp gỡ người xưa ở một chừng mực nào đó. Vì anh tin rằng đọc thơ anh chắc cũng có người đồng cảm.
 
 Khuôn mặt tình yêu trong tác phẩm Vô Ngôn Kinh.
 
Qua hình ảnh Em trong phần trên ta đã chiêm ngưỡng được vẻ đẹp của người tình- nàng thơ từng ám ảnh Trần Thương Bá. Đó là men của cuộc sống, là hương của tình yêu nhưng không phải bao giờ cũng mang đến hạnh phúc. Có khi trong thơ anh chúng ta bắt gặp “Ái ân tùng giọt / êm đềm” nhưng rồi “tủi hờn cơ cực / từng đêm ngậm ngùi” (Đoản khúc 28) hay “Ru em / ta chẳng một lời/ tay ta/ em gối / rã rời giấc trưa” (ĐK Đoản khúc 28). Có lúc quyến luyến “quen hơi / thuộc nết / tình chưa nỡ rời”  (Đoản khúc 30). Lúc khác thì chấp nhận nghịch lý “Lời thề nào / chẳng phôi pha nhớ / chẳng thưa thớt lòng” (Đoản khúc 21) và kết thúc cuộc tình trong thế “Tiễn em / héo hắt nụ cười. Em đi ta cám ơn đời từ đây” (Đoản khúc 30). Nhưng đâu đó trong tâm khảm vẫn hoài niệm cuộc tình mãi mãi không thôi:
 
“Ta thèm thở
chút hương xưa
trong tà áo cũ
ngẩn ngơ mỗi chiều”
(Đoản khúc 37).
 
Bàn về thơ Tình yêu, chúng ta không thể nào quên được thi hào R. Tagore (1861-1941) - Ấn Độ, bài thơ thứ 28 trong tập Người giữ vườn đã minh định rằng: “Tôi đã phơi bày cuộc đời mình, không che đậy, không dấu diếm. Đó là lý do tại sao em chưa hiểu ý nghĩa những lời tôi nói” Ông cho rằng tình yêu là sự đồng điệu, dâng hiến tâm hồn. Nhưng trái tim của con người lại mãi là một cõi bí mật lớn lao. Điều này cho thấy nhà thơ Trần Thương Bá không quá bi quan trong tình yêu, vì nói như HEIDEGGER “Con người là một hữu thể cô đơn”
 
Nẻo về của Tâm trong Vô Ngôn Kinh.
 
Trong thơ VNK, có nhiều bài nhắc đến nhà chùa, kinh kệ, ni cô, Quán thế âm, Ca Diếp... điều đó cho thấy đạo Phật đã ảnh hưởng đến tâm hồn nhà thơ Trần Thương Bá.Bởi thế chúng ta men theo dấu chân của thơ anh để hiểu được con đường trở về Tâm như thế nào ?
 
Chúng ta mang thân tứ đại, sống trong vô minh với nhiều tham sân si nên thường suy nghĩ, nói, hành động tạo nghiệp, ngụp lặn trong hạnh phúc lẫn khổ đau:
 
“Tâm này một niệm từ bi
Thân này
một cõi sân si
chưa rời”  
(Đoản khúc  46).
 
Rồi có những ngày “về chùa quét lá nghe kinh” một hôm chiêm bao nhớ lại tiền kiếp trong cảnh giới Tây phương Tịnh Độ, còn gọi là cõi của đức Phật A Di Đà:
 
“Tượng vàng khói tỏa
trên cao
bỗng dưng lại nhớ
kiếp nào
Tây phương”
 (Đoản khúc 52).
 
Nhà thơ của Vô Ngôn Kinh đã hiểu về luân hồi, vô thường nên trong thơ anh diễn đạt lời dạy của đức Phật một cách giản dị:
 
“Đi tìm
lửa ấm cho đời
gặp hoa chợt thấy lẽ đời
trong hoa”
(Đoản khúc Nhập).
 
Anh đã kể chuyện ngày xưa đức Phật thuyết pháp trên núi Linh Thứu bằng thơ, thật cô đọng mà chứa đựng nội dung sâu sắc vô cùng:
 
“Nói điều chẳng thể nói ra
nửa là tâm đạo
nửa là tâm kinh
Vô ngôn
ngậm miệng
làm thinh
quỳ
bên Ca Diếp
một mình cười khan”
(Đoản khúc 2)
 
Câu thơ giản dị, lối xuống dòng, ngắt nhịp, theo kiểu dàn trải trong câu lục để rồi đột ngột chuyển sang nhịp ngắn trong các câu sau nhằm thể hiện sự bất chợt trong tâm thức khi nhớ lại phút giây “tâm truyền, kiến tánh” giữa Đức Phật và Bồ Tát Ca Diếp, sơ đồ nhịp thơ: 6/4/4 và 2/2/2/1/3/4
 
Đó là pháp thiền, gợi lại chuyện xưa khi Đức Thế Tôn giảng đạo trên núi, ngài cầm một hoa sen đưa lên trước tăng chúng. Mọi người đều im lặng không hiểu ý nghĩa, chỉ có đệ tử Ca Diếp mỉm cười. Đức Phật liền trao tâm ấn. Trong sách Vô Môn Quan (cửa không cửa) của thiền sư Huệ Khai ghi lại bài kệ:
 
“Một cành hoa đưa lên
Và bí mật đã mở
Ca Diếp mỉm cười
Toàn bộ tín đồ đều hoang mang”
(Nguồn Thiền).
 
Trong lời tựa cho tập Vô Ngôn Kinh, GS Bửu Cầm (Viện ĐH SG) đã viết:
 
Chuyện có thế. Nhưng nhắc đến câu chuyện với cả tấm lòng chân thành ngưỡng mộ, muốn lấy đó làm gương cho việc tu dưỡng bản thân, Trần Thương Bá thật sự đã tiến vào Cõi Thiền là thế giới không thể dùng ngôn từ để diễn tả. Đó là lý do tác giả đã chọn ba chữ VÔ NGÔN KINH làm nhan đề tập thơ này”
 
VÔ NGÔN trong đạo học Đông phương là một đặc điểm tư tưởng đã chi phối hình thức lẫn nội dung văn học Đông Á, trong đó Nhật Bản với thơ Haiku, Trung Hoa có Thơ Đường, Việt Nam có thơ Thiền Lý - Trần. Đó tính hàm súc, cô đọng, ý nghĩa ẩn sau ngôn từ, ý tại ngôn ngoại, có sức gợi lớn, âm hưởng và dư ba…
 
Trần Thương Bá đã kế thừa chất Vô Ngôn đó trong Hành Trình Thơ chặng cuối của mình.
 
Trở lại chữ Tâm và làm cho tâm an định, không còn chạy lăng xăng như “tâm viên ý mã” (tâm như vượn, ý như ngựa), điều phục tâm qua nhiều bước để đi đến giải thoát, giác ngộ mà 10 bức tranh Chăn trâu là biểu tượng cho hành trình tu chứng. Trần Thương Bá vẫn luôn mong ước điều đó, cho tâm được an lạc:
 
“Bao giờ
an lạc tâm này
lên non
nằm ngủ
giữa bầy chim muông”
(Đoản khúc 53).
 
Hình ảnh trong bài thơ trên khiến ta liên tưởng đến thơ Phạm Thiên Thư trong tập Động Hoa Vàng:
 
“Ta về rũ áo mây trời,
gối trăng đánh thức bên đồi dạ lan.
rằng xưa có gã từ quan,
lên non tìm động hoa vàng ngủ say”
 
Gặp gỡ của hai nhà thơ khi cùng được tắm mát trong dòng suối đạo học phương Đông, trong thể thơ lục bát tứ tuyệt du dương, lại biến đổi nhịp điệu uyển chuyển đã góp vào thi ca dân tộc những bài thơ cô đọng nhưng có sức gợi lan xa, tạo cho người đọc sự rung cảm nhẹ nhàng nhưng sâu lắng. Đọc thơ của Phạm Thiên Thư và Trần Thương Bá ướp hương xưa là một liệu pháp điều trị chứng tâm bệnh thời đại nhiều thù hận, tham lam, tàn bạo này.
 
                                          ĐỖ TƯ NHƠN  
                               Thị Xã Quảng Trị, 14-4-2022 
*

Tài liệu tham khảo:
 
1. Thơ tình tứ tuyệt. NXB Đồng Nai.
2.Động Hoa Vàng (Phạm Thiên Thư). NXB VN 2006
3.Thơ văn xuôi (Kahlil Gibran). NXB.Đà Nẵng 1998
4.Tâm tình hiến dâng (R. Tagore). NXB. ĐN 1996.
5.Nguồn Thiền. NXB Tự điển bách khoa 2009
6. Thương nhớ Võ Thìn. NXB. HN 2016
7.Từ điển Danh từ Phật học thực dụng (Tâm Tuệ Hỷ)
NXB Tôn giáo. 2005

READ MORE - HÀNH TRÌNH THƠ TRẦN THƯƠNG BÁ, CHẶNG 3: “TẬP VÔ NGÔN KINH” – Đỗ Tư Nhơn

Wednesday, April 27, 2022

HÀNH TRÌNH THƠ TRẦN THƯƠNG BÁ 2 “LA POESIE CANDIDE, THƠ NGÂY NGÔ” – Đỗ Tư Nhơn


Nhà giáo - nhà thơ Trần Thương Bá
(1940- 2002)

Có thể nhận định rằng hành trình thơ Trần Thương Bá được thể hiện qua ba tập thơ, đánh dấu mốc thời gian chín muồi cho cảm hứng sáng tạo, từ đó câu chữ bắt đầu.
 
Tập thơ TÌNH HUẾ là chặng đầu của dàn hợp xướng, nhà thơ chọn thủ pháp, giọng điệu của chủ nghĩa lãng mạn. Qua đó nhằm biểu hiện “cái tôi trữ tình” rất đỗi yêu thương cảnh vật,  con người xứ Huế nên thơ, kiều diễm. Đồng thời trong phần cuối, tác giả đã tạc nên một tượng đài bằng ngôn ngữ thơ đầy xót xa thương tiếc ban đầu, sau đó đã hóa giải bằng cái nhìn đầy thăng hoa khiến cho hình tượng người vợ quá cố trở nên lung linh mầu nhiệm như thiên thần giữa thiên nhiên đất trời “Áo em mờ ảo màu hoa, Tóc em bay giữa bao la cõi trời”, và anh tin vào thuyết luân hồi của Phật Giáo “Anh biết rồi em sẽ trở về”.

Bước sang chặng thứ 2, được mở ra với tập thơ LA POE SIE CANDIDE - THƠ NGÂY NGÔ. Bằng những kiến thức văn học và triết học từ giảng đường Đại Học Văn Khoa Huế, thêm vào đó là khả năng tiếng Pháp nhuần nhuyễn, lần nầy anh chọn Pháp ngữ để diễn đạt những cảm xúc và suy tưởng về cuộc đời, hạnh phúc lẫn khổ đau, hư vô, cái chết, người nghệ sỹ chân chính… Anh rất may mắn có nhiều bằng hữu tri âm tri kỷ, nghe được tiếng rung ngân của tâm hồn anh, đọc thơ anh và thay nhau chuyển ngữ cho mọi người thưởng thức. Đó là các nhà thơ Cao Quảng Văn, Tô Kiều Ngân, Nguyên Hạo, Hồ Đắc Thiếu Anh, Song Nguyên, Tôn Nữ Cẩm Bàn, Tôn Nữ Thu Thủy, Trần Mỹ Hạnh, Trần Quang Châu, Phan Văn Lai, Mịch La Phong.
 
Có thể nói trong một chừng mực nào đó, THƠ NGÂY NGÔ là khúc xạ của ánh sang triết học phương Tây một thời đang lan tỏa sang phương Đông và toàn thế giới.
 
Trong lời tựa cho tập thơ anh đã bộc bạch:
“Ta có thể nhận thấy những bài thơ này gợi lên những tư tưởng của SHOPENHAUER. Nhưng thật ra ý định của nó là cống hiến một loại thơ gợi tưởng, ngây ngô, hay nói đúng hơn là một cách ‘sản ý’ theo cách của triết học SOCRATE”.
 
Bước chân vào thế giới THƠ NGÂY NGÔ của Trần Thương Bá, ấn tượng đầu tiên đến với người đọc, là khó nhận ra sự thống nhất của chủ thể trữ tình - nhà thơ. Tâm hồn anh như đã chứa đựng nhiều sắc thái tâm lí khác biệt, có khi tưởng chừng mâu thuẫn, đối lập nhau, theo cách nói của Xuân Diệu về sự chuyển biến nội tâm “Từ tôi phút trước sang tôi phút này”. Trong thơ anh luôn có sự hiện diện của hai sắc thái, hai tính cách. Mặt này là bi quan, chán chường, hư vô chủ nghĩa - mặt kia là niềm vui, lạc quan, yêu thương đồng loại. Cuộc đời vẫn như thế, có nhiều mảng sáng tối, trắng đen, thiên đàng, địa ngục tùy thuộc cảm nhận và suy nghĩ của mỗi người.
 
Nếu trước đây, qua tập TÌNH HUẾ, nhà thơ thiên về cảm xúc cho nên mạch trữ tình tuôn chảy khi hoài niệm về cảnh vật hay con người. Đến với tập THƠ NGÂY NGÔ, các hình ảnh mang tính biểu tượng chiếm ưu thế, đây là một thủ pháp nghệ thuật của trường phái TƯỢNG TRƯNG mà thi ca Pháp một thời ưa chuộng, với những tên tuổi chói sáng  cả vòm trời thi ca thế giới như BAUDELAIRE, RIMBAUD, APPOINAIRE, MALLARME, VERLAINE…
 
Hãy cùng nhau đi vào tác phẩm qua những dòng thơ được bạn bè chuyển ngữ sinh động:
 
- “Dòng sông đã bỏ chiếc cầu
Ta ôm ngày tháng về đâu một mình”
- “Chiếc cầu còn đó chơ vơ,
Ta còn lại chút dại khờ tình ta”
(CẦU VÀ DÒNG SÔNG – Mịch La Phong dịch)
 
Hay trong bài thơ DÒNG CHẢY do Cao Quảng Văn dịch:
 
“Buồn tênh con nước dưới cầu,
Loanh quanh nước chở về đâu nỗi niềm ?
Lặng nhìn ta giữa triền miên
Nước trong chôn kỷ niệm buồn tuổi thơ”
 
Hình ảnh “Chiếc cầu - Dòng sông” xuất hiện nhiều lần trong trong tác phẩm THƠ NGÂY NGÔ đã gợi lên cảm thức về sự trôi chảy, vô thường, sự mất mát tàn phai của vũ trụ nhiên giới lẫn nội giới nhân sinh.
 
Đó là những biểu tượng nghệ thuật chúng ta đã gặp trong CUNG OÁN NGÂM KHÚC của Nguyễn Gia Thiều với “Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ, Quán thu phong đứng rũ tà huy” hay Guillaume Apollinaire với CẦU MIRABEAU “Dưới cầu Mirabeau trôi dòng sông Sein, Trôi cả tình yêu của anh và em”. Trong thơ ca Việt Nam hiện đại chúng ta đã gặp ở thi sĩ Hoài Khanh những dòng thơ đầy ấn tượng khó quên: “Ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng, Nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu” (NGỒI LẠI BÊN CẦU)
 
Những kỷ niệm về tuổi thơ, về tình yêu đã qua đi luôn để lại những điệp khúc buồn thương tiếc nuối trong lòng tác giả. Một ngày nào đó Trần Thương Bá tìm đến dòng sông để soi bóng mình, để tìm lại chút gì dấu  yêu để u hoài tự nhủ “Nước trong chôn kỷ niệm buồn tuổi thơ”  hay “Chiếc cầu còn đó chơ vơ, Ta còn lại chút dại khờ tình ta”. Tâm thức anh không thể thoát khỏi ‘Buồn tênh” khi chỉ còn ảo ảnh xa mờ của tàn phai. Trong phút chốc ấy anh được đánh thức bởi một tư tưởng triết học từ lâu đã nằm trong tâm khảm bổng hiện về chiếu sáng và giải thoát hồn anh, vì thế trong đoạn kết của bài thơ DÒNG CHẢY đã dẫn ở trên đã hiện ra hình ảnh mới lạ:
 
“Trôi đi, đến chốn xa mờ
Rồi mai kia lại trở về nguồn xưa”
 
“Về nguồn xưa”, mượn ý tưởng của triết gia người Đức nổi tiếng trong trào lưu triết học Hiện sinh về  “LUÂN HỒI VĨNH HẰNG”  F. NIIETZSCHE đã viết như sau: “Vạn vật mất đi, vạn vật lại trở về, bánh xe tồn tại mãi mãi tuần hoàn”
 
Sự thật quan niệm LUÂN HỒI có từ rất lâu, trước khi đạo Phật vận dụng đưa vào kinh sách và bài giảng, đã giúp mọi người ý thức để sống thiện lành, đi đến giải thoát. Với Trần Thương Bá, niềm tin vào LUÂN HỒI VĨNH HẰNG đã trấn an tâm hồn mình, thoát khỏi ám ảnh của hư vô, cảm giác tan rã, mất mát khiến con người bị khủng hoảng, tê liệt.
 
Nhiều bài thơ trong THƠ NGÂY NGÔ nói đến CÁI CHẾT như một ám ảnh không dứt, có thể do ảnh hưởng của câu nói “ CON NGƯỜI LÀ HỮU THỂ HƯỚNG ĐẾN CÁI CHẾT” của triết gia M. HEIDEGGER  một trong những nhà tư tưởng nổi tiếng của thế giới trong thế kỷ XX. Chính suy niệm về CÁI CHẾT mang màu sắc triết học hiện sinh, cho nên Trần Thương Bá đã viết:
 
“Cái chết đâu có gì huyền bí,
Không ai chỉ chết một lần”
 
Và: “Rằng được trò chuyện với hư vô / Là điều êm ái”
 
Hơn thế nữa anh còn ngợi ca CÁI CHẾT, trong bài thơ do Tô Kiều Ngân dịch:
 
“Anh muốn ngợi ca,
Ngợi ca cái chết.
Như từng ca ngợi tình yêu
Ngợi ca tình nồng nàn bằng nhiệt huyết
Và cái chết bằng lạnh lẽo giá băng”
 
- “ Để thấy rằng cái chết
Là liều thuốc đắng
- “Để chữa lành cuộc đời”
(NGỢI CA)
 
Hiểu được ý nghĩa của CÁI CHẾT, nhà thơ giúp chúng ta trạng thái an nhiên tĩnh lặng khi từ giã trần gian, để tiếp tục vòng LUÂN HỒI trong kiếp sau.
 
Ở trên lời tựa, tác giả đã nói đến tư tưởng của SHOPENHAUER, cho nên nên khi đọc những câu thơ nói về HẠNH PHÚC của Trần Thương Bá chúng ta không còn ngạc nhiên: tâm trạng bi quan, hoài nghi:
 
Không có gì thực bằng nỗi khổ đau
Và phù du hơn hạnh phúc”
(MẤT MÁT do Trần Mỹ Hạnh dịch)
 
Trong bài thơ CÁI BÓNG HẠNH PHÚC do Tô Kiều Ngân dịch đã nói rõ cái nhìn của nhà thơ:
 
“Đợi chờ dù có thế nào,
Hiếm hoi hạnh phúc thấy đâu bây giờ ?
Thì ra hạnh phúc dối lừa,
Không bao giờ đến, đợi chờ uổng công”
 
Đúng như nhan đề bài thơ, hạnh phúc như chiếc bóng, ảo ảnh, không có thực giữa cuộc đời nầy, đó là sự lừa dối, phỉnh phờ
 
Nhưng khi nghĩ về TÌNH YÊU, nghĩ về EM bao giờ anh Trần Thương Bá cũng chân thành, khẩn thiết như một cái gì quý hiếm không thể thiếu vắng trên hành trình đi tìm hạnh phúc, có bài thơ anh bộc lộ nỗi lòng thầm kín:
 
“Em có bao giờ biết được,
Ta cần em nào có khác chi
Cỏ hoa kia cần đến mặt trời”
(CẦN EM – Tô Kiều Ngân dịch)
 
Và kết thúc bằng sự lo ngại xa cách, tàn phai: “Hẳn nhiên rồi, những điều ta sợ nhất/ Là có ngày em cũng sẽ mất đi. Khi hạnh phúc bắt đầu nẩy nở”
 
Không biết trải nghiệm của nhà thơ bao lâu trong TÌNH YÊU, từ  mật ngọt cho đến mật đắng trên đời như ca từ của Trịnh Công Sơn, cho đến khi anh tìm được lời giải đáp không mong muốn:
 
“Tình rao bán phố đông vui,
Hoa kia giữa chợ cho đời trao tay”
(TÌNH YÊU VÀ HOA - Trần Mỹ Hạnh dịch)
 
Bên cạnh những bài thơ mang sắc thái hoài nghi, bi quan chúng ta cũng gặp những dòng thơ ấm áp, lạc quan thể hiện tấm lòng rộng mở, yêu thương cuộc sống.
 
Bài thơ TIM NÀY DÂNG HIẾN được viết lên như một tuyên ngôn đầy nhân ái vị tha của một người đã trải qua nhiều xót đau trong kiếp nhân sinh:
 
“Khi còn sống trên đời,
Ta có một trái tim
Để sẵn sàng dâng hiến”
 (Tô Kiều Ngân dịch)
 
Hinh ảnh em bé nhặt rác liêu xiêu trong chiều, bông hoa sắp tàn, cánh chim giữa trời đều tạo nên mối xúc cảm nơi trái tim nhà thơ, khiến người đọc đồng cảm:
 
“Ta thấy lòng đau những buổi chiều,
Lặng nhìn em bé bóng xiêu xiêu
Còng lưng bao rác trên vai nhỏ”
(ĐỨA BÉ QUEN THÂN – Trần Mỹ Hạnh dịch )
 
Và: 
“Ta nào muốn bỏ đi,
Mà không nói một điều chi
Với hoa sắp tàn buồn bã”
(CÁNH HOA MUỘN do Tôn Nữ Thu Thủy dịch)
 
- “Cánh chim nào bay đi…
-  Chạm vào ta rất khẽ
-  Ta tỉnh giấc muộn phiền”
(CÁNH CHIM do Cao Quảng Văn dịch)
 
- Vẫn trong từ trường của tư tưởng “THẾ GIỚI LÀ CỦA Ý CHÍ VÀ CỦA BIỂU TƯỢNG “ của Schopenauer, nhà thơ Trần Thương Bá đã xây dựng hình tượng ‘NGƯỜI TÙ KHỔ SAI’ để khái quát thân phận và tâm hồn của NGƯỜI NGHỆ SỸ CHÂN CHÍNH:
 
- “Người là tên tù khổ sai/Suốt một đời cực nhọc / Đôi khin hắn ca hát / Trong nhà tù giam hảm/ Có tên là cuộc đời / Nhưng bên trong lòng hắn / Luôn sống dậy tình yêu, Tình yêu thế giới nầy”
( KẺ KHỔ SAI do Tô Kiều Ngân dịch)
 
- Tình yêu thế giới này, tình yêu đồng loại là điều nhà thơ Trần Thương Bá hằng trăn trở, nâng niu, cho nên trong phần cuối của LỜI TỰA tác giả đã viết với tất cả sự thành khẩn thiết tha như một trang KINH THÁNH:
 
- “Sở hữu chính đáng duy nhất của nhân loại là TÌNH YÊU - ĐỒNG - LOẠI.
- Mong sao chúng ta có thể giữ gìn trân trọng vật sở hữu này như một gia tài ta
- Được hưởng không bao giờ cạn, THƠ NGÂY NGÔ sẽ giúp chúng ta”.
 
-  Đến đây HÀNH TRÌNH THƠ Trần Thương Bá đã đi được hai chặng đường với những chuyển biến trong thủ pháp nghệ thuật và nội dung biểu đạt, từ thi pháp của Chủ nghĩa Lãng Mạn sang Tượng Trưng. Tập THƠ NGÂY NGÔ mang tư tưởng triết học phương Tây và chủ thể trữ tình không còn nguyên mẫu, đã nhập vai con người xã hội nhằm trình bày những suy tưởng về tình yêu, hạnh phúc, cái chết, vô thường...
- Dù có những khác biệt về nội dung và nghệ thuật, chúng ta vẫn cảm nhận được hồn thơ đa cảm, nhân ái bên cạnh những nghĩ suy sâu lắng gợi cho người đọc những vấn đề liên quan đến cuộc sống đa dạng và phức tạp.
-  Hành trình thơ TRẦN THƯƠNG BÁ chặng thứ hai với tập THƠ NGÂY NGÔ tạm thời kết thúc ở đây.
- Chặng thứ ba với TẬP VÔ NGÔN KINH sẽ giới thiệu 54 đoản khúc Lục Bát Tứ Tuyệt với nhiều cách tân trong diễn đạt và hướng về tư tưởng triết học phương Đông.
 
ĐỖ TƯ NHƠN
 
*
 
CHÚ THÍCH:
 
1/ SOCRATE triết gia cổ đại HY LẠP (sinh 470 BC, mất 399 BC)
2 / SCHOPENHAUER triết gia ĐỨC (-1788-1890) Tác phẩm “THẾ GIỚI LÀ CỦA Ý CHÍ VÀ BIỂU TƯỢNG”
3/ F. NIETZSCHE  triết gia ĐỨC (1844 -1900 ) Tác phẩm “ZARATHUSTRA ĐÃ NÓI NHƯ THẾ”
4/ M. HIEDEGGER triết gia ĐỨC (1889 - 1976) Tác phẩm “HỮU THỂ VÀ THỜI GIAN”

READ MORE - HÀNH TRÌNH THƠ TRẦN THƯƠNG BÁ 2 “LA POESIE CANDIDE, THƠ NGÂY NGÔ” – Đỗ Tư Nhơn

“CHẠM VỪA THÁNG TƯ” THƠ VÕ MIÊN TRƯỜNG, CHẠM VÀO TIM THƠ - Châu Thạch

 
 
             Nhà thơ Võ Miên Trường


CHẠM VỪA THÁNG TƯ…
             
Với tay chạm nắng lưng trời
Màu buồn đổ sóng xuống đời an nhiên
Mùa đang son những ngọt mềm
Tháng tư vừa chạm đã nghiêng phía chiều…
                  
                                       Võ Miên Trường

 
Nhà bình thơ Châu Thạch 


“CHẠM VỪA THÁNG TƯ” THƠ VÕ MIÊN TRƯỜNG, CHẠM VÀO TIM THƠ
                                                          Châu Thạch
 
Chữ chạm là một động từ có nhiều nghĩa: Khắc đục lên vật cứng, gặp nhau một cách bất ngờ, gây tổn thương tinh thần hay vật chất cho người khác. Trong bài thơ “Chạm Vừa Tháng Tư” của Võ Miên Trường, có lẽ ta phải hiểu theo nghĩa Chạm chỉ là đụng nhẹ vào mà thôi. Tác giả dùng chữ “Chạm” như để bày tỏ sự trân trọng một tháng tư mà mình quý mến. Nhà thơ đã chạm vào tháng tư nhưng chỉ “chạm vừa” là một cử chỉ mang nhiều trân trọng, e dè, nâng niu, yêu thương và ngại ngùng.
 
    
Bài thơ chỉ có 4 câu, câu thơ đầu tiên đã đưa người đọc bay bổng như một cánh diều lên cao dưới bầu trời quang đãng: “Với tay chạm nắng lưng trời”.
    
Đọc câu thơ nầy, ai có một chút đồng cảm với thi nhân sẽ hình dung, tưởng tượng được nơi Võ Miên Trường đang đứng để viết câu thơ. Chắc chắn nếu nhà thơ không đứng trên núi cao thì cũng đứng ven bờ biển, ven con sông, hoặc giữa một cánh đồng rộng mênh mông. Bởi vì Võ Miên Trường không phải là Tề Thiên Đại Thánh biến hóa được mình cao lên đến mây để có thể “Chạm vừa ánh nắng lưng trời”. Lưng trời là lưng chừng trời, “chạm vừa ánh nắng lưng trời” là chạm vào ánh nắng trên cao.
    
Nhìn ảnh đại diện trên trang facebook, ta thấy Võ Miên Trường là một phụ nữa đẹp. Đọc câu thơ nhập đề ta tưởng tượng ngay hình tượng một mỹ nhân đứng giữa trời đất bao la, với tay hứng ánh nắng trên cao rọi xuống. Tất nhiên bàn tay nàng chỉ chứa ánh nắng từ trên cao chiếu xuống, nhưng tâm hồn nàng hóa thân trong tưởng tượng để chạm được thứ ánh nắng ấm áp, tinh khôi, thứ ánh nấng giữa lưng chừng trời, Đây là một câu thơ không chỉ lảng mạn, mà còn thầm lặng miêu tả bức tranh đẹp tuyệt vời cho những ai có sự liên tưởng để cảm nhận rõ nét bức tranh đó, hay cảm nhận mơ hồ hình ảnh tuyệt đẹp ẩn chứa trong câu thơ.
    
Qua câu thơ thứ hai, Võ Miên Trường tặng người đoc một câu thơ mang hơi gió se lạnh, đem hương vị hạnh phúc cho giây phút bình an giữa đất trời: “Màu buồn đổ sóng xuống đời an nhiên”.
   
Đọc câu thơ, ta tưởng ánh nắng như vạn ngàn tia sáng tràn xuống thế gian. Nhà thơ đứng tắm mình trong những con sóng đó, tâm thiền bình tịnh an nhiên. Trước cảnh bao la cô tịnh, nhà thơ tất nhiên không thể có niềm vui như ở chổ đông người, mà ngược lại, nhà thơ chiêm nghiệm một màu buồn nhẹ do thiên nhiên đem đến.
Màu buồn đó chính là màu dịu dàng của nắng, màu vô biên quyến luyến của phong cảnh nơi thi nhân đang đứng, tất cả là không khí trầm lắng trong bầu trời cao rộng dưới ánh nắng thơm. Màu buồn đó chính là màu niềm vui không thái quá lan tỏa trong không gian, trong vạn vật, thấm đượm trong tâm hồn mà chỉ có thi sĩ bằng sự nhạy cảm đã thấy được sắc màu của nó.
    
Thế rồi câu thơ thứ ba: “Mùa đang son những ngọt mềm”
    
Vì sao tác giả nói mùa đang son? Nên nhớ tựa đề bài thơ là “Chạm Vừa Tháng Tư”. Tháng tư là tháng cuối mùa xuân và đầu mùa hè. Ta nhớ đến khổ đầu bài thơ “Mùa Xuân Chín” của Hàn Mạc Tử như sau:
 
Trong làn nắng ửng: khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang.
  
Hàn Mạc Tử đặt tên cho bài thơ là Mùa Xuân Chín để nói về cảnh sắc thiên nhiên của mùa xuân đang ở thời kỳ tươi đẹp nhất.
Võ Miên Trường đã dùng chữ “Son” để nói thay chữ “Chín” và dũng câu thơ “Mùa đang son những ngọt mềm” để tả trọn vẻ đẹp của Mùa Xuân Chín, diễn tả bằng câu thơ gọn nhẹ nhưng không khác chi những câu thơ của nhà thơ có bút danh chữ đầu là Hàn. Thay vì chữ chín, tác dùng chữ son làm cho tháng tư đầu hè tươi thắm như mùa xuân đầy hoa, chữ “ngọt mềm” làm cho tháng tư vẫn còn đây trái chín thơm ngon. Võ Miên Trường viết một câu thơ, chứa cả mùa bông trái xanh tươi vào đó!
    
Ở câu thơ cuối, khác với Hàn Mạc Tử tả mùa xuân chín ở buổi bình minh mà không biết ở tháng nào, nhà thơ Võ Miên Trường tả mùa xuân chín trong khung cảnh buổi chiều tháng tư tuyệt đẹp: “Tháng tư vừa chạm đã nghiêng phia chiều…”
 
“Vừa chạm” đây có thể để chỉ đầu tháng tư, “Vừa chạm” đây cũng có thể là tác giả vừa cảm nhận tháng tư của vũ trụ, “vừa chạm” đây cũng có thể tác giả nhớ về một tháng tư nào đó của năm xưa. “Nắng chiều” cũng vậy, có thể thiên nhiên chỗ đứng đã về chiều, có thể tác giả cảm nhận thời gian qua mau, cũng có thể tác giả chưa vui hết trước cảnh đẹp thiên nhiên thì lại nhớ một tháng tư đau lòng nào đó của quá khứ xa xưa. “Tháng tư vừa chạm đã nghiêng nắng chiều…” là môt câu thơ than thở, một câu thơ trách móc, một câu thơ se buồn với nhiều ý nghĩa hàm chứa trong thơ cho mỗi tâm hồn con người tùy nghi hiểu về nó.
    
Kết luận:
 
“Chạm Vừa Tháng Tư” là một bài thơ ngắn nhưng mỗi chữ trong thơ đều được chọn lọc tinh vi, mỗi câu thơ cô đọng sâu xa nhiều ý nghĩa. Đọc “Chạm Vừa Tháng Tư” cho ta một hình tượng nghệ thuật người đẹp đứng giữa thiên nhiên, cho ta cảm xúc về một mùa xuân chín trong tháng đầu hè, cho ta se buồn về một sự nghiêng của ngày tươi đẹp như sự nghiêng của cuộc đời hay thế sự.
 
Bởi thế bài thơ “Chạm Vừa Tháng Tư” của Võ Miên Trường đã chạm vào tim thơ của tôi và chắc chắn của nhiều người!
                                      
Châu Thạch
 
READ MORE - “CHẠM VỪA THÁNG TƯ” THƠ VÕ MIÊN TRƯỜNG, CHẠM VÀO TIM THƠ - Châu Thạch

MƯA ĐẦU HẠ, SẮC TÍM BẰNG LĂNG – Thơ Tịnh Bình


 
            Nhà thơ Tịnh Bình


MƯA ĐẦU HẠ
 
Đậu về trên nhánh hạ
Mưa đầu mùa ngây thơ
Ngai ngái hương đất ẩm
Dậy lời ve dại khờ
 
Ban mai tìm gió mới
Đường quê tràn tơ non
Cỏ xanh bừng thức giấc
Giọt sương xoe mắt tròn
 
Mẹ về phiên chợ vãn
Khói bếp quyện cơm sôi
Canh tập tàng nấm mối
Tia nắng reo đầu hồi
 
Ướt tiếng rao ngang ngõ
Bờ giậu hoa giấy phơi
Sắc tím hồng bung nở
Giọt mưa rơi thành lời...
 
 
SẮC TÍM BẰNG LĂNG
 
Tím khoảng trời mùa hạ
Bằng lăng lối em về
Hàng cây và mái phố
Tiếng chim nào mải mê
 
Ngập ngừng mưa ươn ướt
Đọng mắt lá thủy tinh
Chuỗi cười pha lê vỡ
Trong veo một ánh nhìn
 
Từng vòng xe quay chậm
Phút tan trường bâng khuâng
Em về trong sắc nắng
Hoa tím rơi đầy sân
 
Gió chênh chao miền hạ
Đàn bướm trắng vô tư
Nhặt hoa người chẳng nói
Chút man mác hình như...
 
Mưa qua và nắng tới
Hàng cây mái phố rêu
Bằng lăng nhòa sắc tím
Thinh lặng khoảng trời yêu...
 
TỊNH BÌNH
(Tây Ninh)
 
READ MORE - MƯA ĐẦU HẠ, SẮC TÍM BẰNG LĂNG – Thơ Tịnh Bình