Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Sunday, April 24, 2016

CHÙM THƠ LÊ THỊ TÂM THU

       




HOÀI NIỆM

Ví dầu
           hạt nắng chia đôi
Con chìa vôi hót
           bồi hồi gió mây
Thoảng đưa
           vạt áo bay bay
Ngỡ hương tóc biếc
           ngất ngây lối về.


BỐN MÙA

Không ngoái lại
chẳng ngập ngừng
Em lẳng lặng về phía mênh mông

Khát khao
Bềnh bồng
Những chú ve say tình gọi bạn

Đất trời rộn rã giao hòa
Sau nhiệt cuồng
Ngỡ ngàng sắc lá

Từ trong nghiệt ngã
giá buốt nhú mầm xanh

Nồng nàn mắt lá
             bâng khuâng
Phập phồng thiếu nữ
           thanh tân xuân tràn. 

Lê thị Tâm Thu

...........................

Địa chỉ: Lê thị Tâm Thu
15B. Đội Cung, Phan Thiết
ĐT: 062.3602789.

READ MORE - CHÙM THƠ LÊ THỊ TÂM THU

TIẾP TỤC CHUYỆN “THUYỀN VÀ BIỂN” & LAN MAN VỀ VIỆC SỬA THƠ - Phạm Đức Nhì




         Tác giả Phạm Đức Nhì




 TIẾP TỤC CHUYỆN “THUYỀN VÀ BIỂN”
                                          & LAN MAN VỀ VIỆC SỬA THƠ

Vài Lời Nói Đầu
Bài viết Thuyền Và Biển: Ngọt Bùi Cay Đắng Của Tình Yêu lên đường được vài ngày thì tôi nhận được mấy thư góp ý trong đó đặc biệt có một người bỏ công sửa lại 2 đoạn thơ mà tôi cho là mắc phải “lỗi kỹ thuật”. Tôi nảy ra ý định viết bài này để độc giả cùng chia sẻ và nếu cần thiết, sẽ cùng trao đổi và tranh luận. (Phạm Đức Nhì)
Bắt đầu bằng vài chuyện sửa thơ.
“Hoán Chuyển Giới Tính” Trong Ngậm Ngùi
Ngậm Ngùi do Phạm Duy phổ nhạc từ bài thơ cùng tên của Huy Cận rất được dân miền nam và sau này, ở hải ngoại, ưa thích. Cả nhạc sĩ lẫn người thưởng ngoạn đều tưởng rằng đó là bài thơ tình; hai kẻ yêu nhau, khi bóng đã xế tà, đang tình tự trong một khu vườn hoang vắng. Khi hát, nam ca sĩ thì hát đúng lời của bài thơ, bản nhạc, còn nữ ca sĩ thì tự động hoán chuyển “anh” thành “em” và ngược lại.
Đến năm 2006 “trong chương trình âm nhạc cuối tuần của Đài RFA cũng như chương trình văn học nghệ thuật của Đài RFI, anh Hà Vũ (Cù Huy) khẳng định lại, bài thơNgậm Ngùi được viết cho người em gái ruột của nhà thơ mất khi còn nhỏ, độ tuổi trăng rằm, khi nhà thơ đến thăm mộ.” (1)
Và tôi đã viết lời bình cho đoạn cuối bài thơ:
                    Cây dài bóng xế ngẩn ngơ
                   Hồn anh đã chin mấy mùa thương đau
Thế rồi bóng cây đã dài, trời đã sắp tối, nỗi đau thương trong hồn đã chín, trái sầu đã trĩu nặng, thi sĩ vẫn nán lại để cùng cô em gái “sống” một giấc mơ, một kỷ niệm sau cùng trước khi từ giã. Cảnh và tình kết hợp, quyện lẫn với nhau thành một bức tranh thơ rất buồn, rất đẹp.
                 Tay anh em hãy tựa đầu
                 Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi
Và chàng mơ thấy em tựa đầu lên tay mình như ngày xưa còn bé, mắt nhắm, giấc ngủ bình yên. Ôi! Đúng lúc ấy trái sầu trĩu nặng trong hồn chàng bấy lâu bỗng đứt cuống rụng rơi, biến mất. Người chàng nhẹ nhàng bay bổng; hạnh phúc ập đến choáng ngợp tâm hồn. (2)
Em ở đây không phải người yêu mà là “hồn ma bóng quế” của đứa em gái trong tâm tưởng của nhà thơ. Cho nên khi nữ ca sĩ hát mà tự động hoán chuyển giới tính, thay “anh” bằng “em” thì … trật lất. Thế mà thỉnh thoảng xem TV các chị ca sĩ vẫn cứ ung dung “Tay em anh hãy tựa đầu”, chẳng cần biết “trời trăng mây nước” gì hết thì quả là đáng … sợ thật.

Thuyền Và Biển
Xuân Quỳnh trong Thuyền Và Biển (Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc) đã sử dụng phép ẩn dụ toàn bài, biểu lộ tâm trạng của người phụ nữ trong chuyện tình của Thuyền và Biển, thuyền là nam và biển là nữ. Bản nhạc này để nữ hát là đúng nhất, là hợp tình nhất. Nhưng nếu nam thích thì cũng vẫn có thể hát được, miễn là phải hiểu rằng “giọng nam của mình đang được mượn để chuyển tải tâm tình của một phụ nữ”nghĩa là phải hát đúng nguyên văn:
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố
Chứ nếu đổi lại:
Nếu phải cách xa em
Anh chỉ còn bão tố
thì sai bét. Anh là thuyền chứ có phải là biển đâu mà bão với tố! (3)
Các nam ca sĩ sửa thơ kiểu này rất đáng trách, làm sai lệch cả tứ lẫn ý thơ của tác giả. Mà ý thơ thì rõ ràng như 2 + 2 = 4 chứ có gì lắt léo, khó hiểu đâu. Càng đáng trách hơn nữa là Xuân Quỳnh trước khi mất ít lâu, được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đến thăm trên giường bệnh, đã “năn nỉ” các ca sĩ khi hát đừng sửa lời bài thơ của chị. Đã 30 năm trôi qua, lời năn nỉ, ước mong của tác giả Thuyền Và Biển vẫn như gió bay đi, không thể làm rung động những trái tim vô cảm. Thật đáng buồn và tủi hổ.
Tô Đông Pha Sửa Thơ

Vương An Thạch trong lúc du học ở đảo Hải Nam đã làm một bài thơ trong đó có hai câu rất lạ:
Minh 
Nguyệt sơn đầu khiếu
Hoàng 
Khuyển ngọa hoa tâm

Dịch nghĩa:
Trăng sáng hót đầu núi
Chó vàng nằm (trong) lòng hoa

Thi hào Tô Ðông Pha
 tình cờ đọc được, thấy “sai” (trăng sáng làm sao hót trên đầu núi và chó vàng làm sao nằm trong lòng hoa được) nên đã sửa lại hai chữ cuối cho đúng nghĩa hơn.

Minh nguyệt sơn đầu chiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa âm

Dịch nghĩa:
Trăng sáng rọi đầu núi
Chó vàng nằm (dưới) bóng hoa
 

Chuyện sửa thơ đến tai Vương An Thạch 
(lúc ấy đang là Tể Tướng) nên họ Vương đã bổ nhiệm Tô thi hào một chức quan ở Hải Nam. Sau đó Tô Ðông Pha mới khám phá ra ở địa phương này có loại chim tên là Minh Nguyệt, hay hót trên đầu núi, và có một loại sâu tên là Hoàng Khuyển, chỉ thích nằm trong lòng hoa! Và người kể chuyện kết luận “Lúc ấy Tô Ðông Pha mới biết là mình xớn xác, bồng bột và thấy được cái thâm trầm của Vương An Thạch.
Theo tôi, việc Tô Đông Pha sửa thơ không có gì là “xớn xác, bồng bột” hết. Người đọc thơ, bình thơ – trong thế giới thơ rộng lớn - không thể biết và không có bổn phận phải biết những chi tiết, sự việc chỉ có, chỉ xảy ra ở một địa phương nhỏ bé. Chính thi sĩ - để hoàn thành chức năng truyền thông của bài thơ - phải chú thích để người đọc biết, hiểu những chi tiết, sự việc có tính chất địa phương ấy. Lỗi và trách nhiệm ở đây nằm trên hai vai Vương An Thạch chứ không phải Tô Đông Pha.
Anh Bằng sửa Thơ Yên Thao
    Tôi đứng bên này sông 
    Bên kia vùng giặc đóng
Đây là 2 câu đầu trong bài thơ Nhà Tôi củaYên Thao
Khi phổ nhạc bài thơ nhạc sĩ Anh Bằng sửa lại:
         Tôi đứng bên này sông
         Bên kia vùng lửa khói
Nhà Tôi là tâm trạng hồi hộp, lo âu của một người lính trước giờ nổ súng mà mục tiêu của trận đánh lại chính là ngôi làng bên kia sông, có căn nhà nơi những người thân yêu nhất của mình, bà mẹ già và cô vợ trẻ, đang cư trú. Trước hết, đưa cụm từ “vùng lửa khói” vào không ăn khớp với thực tế trận địa; chưa nổ súng thì làm gì có “lửa khói!” Hơn nữa, chi tiết làng tôi là “vùng giặc đóng” khiến việc đánh bật trại giặc để chiếm lĩnh mục tiêu trong một trận đánh có cả pháo binh sẽ rất nguy hiểm cho căn nhà và những người sống trong đó. Điều này làm nỗi lo của người lính thật hơn, khơi dậy nơi người đọc cảm xúc mạnh hơn. Tôi chợt nghĩ đến bài thơ cũng nói đến bi kịch của con người trong chiến tranh: Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan.
Tội ác lớn nhất mà Hữu Loan đã đưa ra “phiên tòa” Màu Tím Hoa Sim để truy tố bị cáo “Chiến Tranh” là sự Chia Xa. Sau đám cưới là thời gian trăng mật, là những ngày tháng đẹp nhất, cần ở sát bên nhau nhất của vợ chồng. Thế mà – vì “Ông Thần Chiến Tranh” khốn kiếp - anh vệ quốc quân phải đành đoạn bỏ cô vợ trẻ ở nhà để ra đi. Rồi cuộc chia tay sau ngày cưới trở thành cuộc chia ly vĩnh viễn, kẻ dưới suối vàng, người trên dương thế. Bằng tài thơ của mình Hữu Loan đã tạo được xúc động mạnh mẽ trong lòng người đọc. Có điều người vợ trẻ không chết vì bom đạn chiến tranh mà chết bình thường như bao người dân khác ở hậu phương. Nhiều người cho rằng - không biết vô tình hay cố ý  - Hữu Loan đã “tránh” cho “Ông Thần Chiến Tranh” cái tội rất nặng mà ông ta thường phạm phải: đó là tội sát nhân. Vì vậy bài thơ, đồng ý là có tính nhân bản nhưng độ sâu sắc cũng chỉ dừng lại ở chỗ khuấy động nỗi đau buồn vì chia xa của con người.
Cảnh tượng trong Nhà Tôi của Yên Thao bi đát hơn, thê thảm hơn nhiều.
Hai câu thơ:
          Anh rót cho khéo nhé
          Kẻo nhầm nhà tôi
chính là lời kêu van tha thiết của người lính trong lúc tâm trạng rối bời. Anh thì thầm với “người bạn pháo binh” nhưng thật ra là anh đang cầu nguyện; anh bị “Thần Chiến Tranh” đặt trước một hoàn cảnh vô cùng éo le, nghiệt ngã, phải xông lên, xả súng bắn vào chính tổ ấm của mình, bắn vào những người thân yêu nhất của đời mình. Bài thơ kết thúc bằng 2 câu thơ thật đẹp, đầy ắp yêu thương:
          Nhà tôi ở cuối thôn Đồi
          Có giàn thiên lý có người tôi thương
Nhưng chỉ vài phút sau đó chuyện gì sẽ xảy ra? Súng sẽ nổ, pháo sẽ “rót”, ngôi làng sẽ thành bình địa, nhà tan, cửa nát, người chết, kẻ bị thương, cảnh tượng đầy máu và nước mắt. Lòng tôi thầm cầu mong cho ngôi nhà của người lính không bị cháy đổ, thiệt hại vì đạn pháo, cho mẹ và vợ anh được bình yên. Nhưng đối với chiến tranh những lời cầu mong ấy thường không được đáp ứng. Giả sử người lính vượt sông tiến lên chiếm lĩnh mục tiêu, khi tiếng đạn pháo, tiếng súng tạm yên, đứng trước căn nhà mình cháy rụi, xác mẹ già và người vợ đầu gối tay ấp nằm bên giàn thiên lý đổ nát. Mà xác xuất để cảnh ấy xảy ra trong thực tế là rất cao. Thử hỏi lúc ấy có bút mực nào diễn tả được nỗi đau của anh, mức độ thê thảm của bi kịch đời anh. Bản cáo trạng của Yên Thao trong Nhà Tôi đối với “Thần Chiến Tranh” nặng nề, sâu sắc hơn Hữu Loan trong Màu Tím Hoa Sim rất nhiều.    
Qua việc sửa thơ, Anh Bằng đã làm nhẹ đi sự tàn bạo bất nhân của chiến tranh mà Yên Thao đã rất tài tình, bằng thủ pháp Show, Not Tell, kín đáo bày tỏ. Dĩ nhiên, nhạc sĩ khi phổ nhạc một bài thơ có quyền cắt xén, thêm thắt, sửa đổi. Tiếc rằng chỉ sửa 2 chữ, tưởng chẳng có gì to tát lắm, Anh Bằng đã làm mờ nhạt hẳn phần hay nhất của bài thơ: tính nhân văn, nhân bản của tứ thơ.

Trần Đăng Khoa Sửa Thơ Tố Hữu
Lời đồn này tôi được nghe từ rất nhiều người, ở rất nhiều nơi. Nếu người ta chưa kịp kể ra mà bạn gợi chuyện sửa thơ là họ biểu đồng tình và góp chuyện ngay. Chuyện đồn rằng “Ngày xưa,  Trần Đăng Khoa giỏi lắm; sửa cả thơ Tố Hữu mà nhà thơ lớn cũng ngậm tăm vì nó sửa đúng quá, hay quá.” Đây là câu thơ của Tố Hữu:
           Đường ta rộng thênh thang tám thước
Trần Đăng Khoa sửa thành:
           Đường ta rộng thênh thang ta bước.
Người kể lại chuyện sửa thơ giải thích rằng:
Ở thời đại này đường mới rộng tám thước mà đã nhắm tít mắt vỗ ngực tự hào thì thường quá, kém quá. TĐK đã tránh được con số “tám thước” tầm thường đó để người đọc có thể tự do phóng tầm mắt của mình đến con đường rộng hơn, ngang tầm thời đại hơn.
Những lúc ấy trước mắt không có bài thơ Ta Đi Tới của Tố Hữu để có thể đặt câu chữ vào khung cảnh của bài thơ nên tôi chỉ biết ngồi nghe mà lòng bán tín bán nghi. Nhưng sau này khi thấy TĐK la toáng lên cải chính:
          “Ta đi giữa ban ngày
          Trên đường cái ung dung ta bước
          Đường ta rộng thênh thang tám thước
nếu đổi thành
          Ta đi giữa ban ngày
          Trên đường cái ung dung ta bước
          Đường ta rộng thênh thang ta bước
Bên trên ta bước, bên dưới ta bước, đọc rất là lẩn thẩn, không nhà thơ nào chữa như vậy cả.”(4)
thì tôi tìm đọc cả bài thơ Ta Đi Tới và nhận ra rằng việc TĐK sửa thơ TH chỉ là lời đồn vô căn cứ, không đúng sự thật.
Thật ra, cứ để nguyên “Đường ta rộng thênh thang tám thước” thì câu đó cũng chẳng dở đi tý nào. Bởi vì, nói như TĐK, “lúc ấy chúng ta chưa có đường, toàn rừng núi mà có con đường tám thước thì đã tuyệt vời rồi”.

Sửa Thơ Nguyên Sa

Thời gian gần đây ít việc làm, tương đối rảnh rỗi, tôi thường được mời tham dự những buổi họp mặt có tính văn nghệ vui chơi. Có ban nhạc một người, có ca sĩ chuyên nghiệp lẫn tài tử và có cả những màn ngâm thơ, đọc thơ rất vui nhộn. Tôi nhớ có vài lần được nghe bài thơ Mời của Nguyên Sa trong đó đoạn thơ “Tôi mời em vứt bỏ lại đằng sau những kinh thành buồn bã, với phong tục, thói lề bạc vàng giả dối: muốn làm người yêu thì phải đỗ Tú Tài” ở phần cuối được sửa lại “muốn làm người yêu thì phải học Medical (âm: mé-đi-cồ, nghĩa: ngành y)”. Một lần được ngồi chung bàn với người đọc thơ tôi cười cười nói với anh:
“Chà! Anh gan quá ha! Dám sửa cả thơ Nguyên Sa ha”.
Anh rất vui vẻ trả lời:
“Thì mình cũng sửa mấy chữ để nó hợp với hoàn cảnh xã hội mới.”
 Anh chàng sửa thơ Nguyên Sa có lẽ chỉ nghĩ đến việc mua vui cho khán thính giả; những người “đồn” chuyện sửa thơ Tố Hữu có lẽ chỉ nghĩ đến việc “nâng bài thơ lên ngang tầm thời đại”. Họ không biết rằng mỗi câu thơ đều ít nhiều mang dấu tích lịch sử, phản ảnh thực trạng xã hội trong đó tác giả đã sống, thai nghén và viết ra nó. Vì thế, sửa thơ với mục đích che dấu cái yếu kém, bất cập của xã hội là không minh bạch; có thể nói đó là hành động gian lận văn chương, gian lận lịch sử.

Tài Sửa Thơ Của Một Độc Giả
Sau khi bài viết Thuyền Và Biển: Ngọt Bùi Cay Đắng Của Tình Yêu lên đường được mấy ngày tôi nhận được vài thư góp ý trong đó thư của anh Phan Hồng Ngọc từ Sài Gòn đã gây cho tôi sự chú tâm đặc biệt. Nội dung thư như sau:
Thưa ông Phạm Đức Nhì,
Trong bài Thuyền Và Biển: Ngọt Bùi Cay Đắng Của Tình Yêu ông viết:
 Phép ẩn dụ của bài thơ, nếu tinh ý, người đọc có thể nhận ra sau khi đọc 2 đoạn đầu. Còn nếu “chậm tiêu” một tý thì từ từ rồi cũng thấy, cũng hiểu. Thuyền là chàng, biển là nàng, bài thơ là chuyện tình yêu của chàng với nàng, nàng là tác giả, là nhân vật chính trong bài thơ. Trong đoạn thơ:
Những đêm trăng hiền từ
Biển như cô gái nhỏ
Thầm thì gởi tâm tư
Bên mạn thuyền sóng vỗ
thì biển là cô gái (ẩn dụ) cho nên câu “Biển như cô gái nhỏ” không những đã trở nên thừa, gây cảm giác “không thoải mái” cho người đọc mà lại còn làm lộ phép ẩn dụ nữa. Nếu tác giả chọn được cách nói khác, không nhắc gì đến cô gái mà vẫn diễn tả được cái ý ấy thì hay hơn.
Tương tự như vậy, trong đoạn thơ:
Cũng có khi vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền
(Vì tình yêu muôn thuở
Có bao giờ đứng yên!)
Tác giả quên rằng mình đang đóng vai Biển với thân hình và bộ mặt (đã hóa trang) của Biển. Ngôn ngữ rất riêng, rất lạ của Biển và Thuyền đang thu hút sự chú ý của độc giả. Tự nhiên buột miệng nói ra “tiếng người” khiến vai diễn của vở kịch trở thành bất nhất. Hai câu sau nếu tránh được từ “tình yêu” mà vẫn giữ được ý ấy thì quá hay.
Theo gợi ý của ông tôi đã lò mò mấy ngày mới nghĩ ra được cách tránh mấy từ mà ông đã cẩn thận cho in chữ đậm ở 2 đoạn thơ trên. Và đây là 2 đoạn thơ có bàn tay sửa chữa của tôi:

Những đêm trăng hiền từ
Biển thầm thì to nhỏ
Những điều rất riêng tư
Bên mạn thuyền sóng vỗ.

Cũng có khi vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền
Nên thuyền trên mặt biển
Có bao giờ được yên!
 Xin ông - dưới con mắt của một người bình thơ – cho biết ý kiến. Chân thành cảm ơn ông trước.
Ký tên Phan Hồng Ngọc.
Thư qua thư lại vài lần, được sự đồng ý của anh Ngọc, tôi viết bài này trước là trả lời anh Ngọc, sau là bổ khuyết cho bài bình thơ của tôi.
 Việc làm đầu tiên của tôi khi nhận thư là yêu cầu anh thay chữ “được”. Lý do: viết như thế là gieo tiếng “ác” cho phụ nữ, ám chỉ các nàng luôn hành hạ các đấng nam nhi (cả trong nghĩa chăn gối yêu đương lẫn không khí xào xáo trong gia đình), lúc gần nhau, chẳng bao giờ cho phép họ được yên. Anh PHN cũng đề nghị chữ “chịu” nhưng theo tôi thì nếu bảo:
          Nên thuyền trên mặt biển
          Có bao giờ chịu yên
trước hết,  nghịch ý với 2 câu “Cũng có khi vô cớ/ Biển ào ạt xô thuyền; theo Xuân Quỳnh thì Biển là tác nhân đối với tình trạng không yên của thuyền, nghĩa là thuyền ở thế thụ động nên không có quyền quyết định “chịu” hay không “chịu”. Hơn nữa, nói như thế là gieo tiếng “quậy” rất bất công cho phía nam giới.
Cuối cùng chúng tôi đồng ý giữ nguyên từ “đứng yên” của tác giả vì nó trung tính. Thuyền trên mặt biển không đứng yên là do lẽ tự nhiên của trời đất, “không phải tại anh cũng không phải tại em” mà do “gặp thời thế thế thời phải thế”.
Và bây giờ xin bàn đến kết quả sửa thơ của anh PHN
 Đoạn thứ 3 của bài thơ được sửa lại thành:
          Những đêm trăng hiền từ
          Biển thầm thì to nhỏ
          Những điều rất riêng tư
          Bên mạn thuyền sóng vỗ.
Cô gái không được nhắc tới nhưng vẫn hiện diện trong đoạn thơ (dưới cái tên Biển); trong khi đó cả tứ lẫn ý cũng như âm điệu của bài thơ vẫn được giữ nguyên theo đúng ý của tác giả. Ở đoạn thứ 3 này công việc sửa thơ của anh PHN đã đạt được mục đích của mình, đã thành công mỹ mãn.
 Đoạn thứ 4 của bài thơ được sửa lại thành:
           Cũng có khi vô cớ
           biển ào ạt xô thuyền
           nên thuyền trên mặt biển
           có bao giờ đứng yên!
Đúng như anh Phan Hồng Ngọc dự tính, cách nói, suy nghĩ của “con người” đã biến mất. Thay vào đó là một thứ ngôn ngữ rất “Thuyền Và Biển”, rất hay và rất lạ. Âm điệu của bài thơ không thay đổi và ý của tác giả vẫn được giữ nguyên. Hay hơn nữa là 2 câu:
          Nên thuyền trên mặt biển
          Có bao giờ đứng yên.
lại rất khêu gợi, rất “tình”, đã bóng gió diễn tả cái cảnh “yêu nhau” của đôi trai gái. Ở đây việc sửa thơ của anh PHN không những đã chữa được chứng bệnh “lộn xộn trong phép ẩn dụ” mà còn làm cho đoạn thơ càng đáng yêu hơn nữa.
Như vậy, xin được trả lời anh Phan Hồng Ngọc: Dưới con mắt của một người bình thơ, việc sửa thơ của anh rất tuyệt. Cám ơn anh đã gởi thư góp ý.  
Khi Bình Thơ Có Nên Sửa Thơ Của Tác Giả Không?
Riêng về bình thơ, nếu gặp bài thơ có nhiều dị bản, hãy chọn bản có nguồn gốc đáng tin cậy nhất rồi cứ theo đó mà bình, mà tán. Nếu thấy chữ, câu, đoạn, ý nào không hay cứ tự do chỉ ra, vạch ra rồi giải thích, chứng minh vì sao nó không hay; không nên tùy tiện nhúng tay vào việc sửa thơ của tác giả.
Tôi đã gặp một bài bình thơ trong đó nhà phê bình đã ra tài “sửa chữa nâng cao”, viết lại cả bài thơ 24 câu, cộng thêm cái tựa của tác giả (5). Bình thơ kiểu ấy quá thô bạo và lố bịch.
Trong trường hợp vô cùng đặc biệt, người bình thơ có lý do để hoàn toàn tự tin, thấy chữ hoặc câu thơ mình sửa chắc đúng 100%, thì theo tôi, có thể Đề Nghị Sửa Chữa, Thay Thế nhưng phải tuân thủ Tất Cả những điều kiện sau đây:
     1/ không làm sai lệch tứ, ý của tác giả
     2/ không thay đổi âm điệu của đoạn thơ
     3/ không ảnh hưởng đến dòng chảy của tứ thơ.
     4/ Sửa thơ để tăng giá trị nghệ thuật của bài thơ, không vì mục đích đen tối nào khác.
     5/ Công việc sửa chữa phải tối thiểu, lợi ích của việc sửa chữ phải to lớn, dễ nhận ra, có sức thuyết phục cao, không cần tranh cãi.
     6/ Chỉ là “đề nghị”, không được xem đó là kết luận chung cuộc.
     7/ Trường hợp nhạc sĩ đem thơ phổ nhạc thì có nhiều tự do hơn, nhưng nếu không khéo, không cân nhắc kỹ lưỡng, cũng sẽ lãnh đủ “búa rìu dư luận”.
Kết Luận
Sửa thơ, dù tác giả muốn hay không, đồng ý hay không, cũng  là “chuyện thường ngày ở huyện”, xảy ra hầu như ở mọi lúc, mọi nơi. Có người ra vẻ ta đây, phóng bút sửa thơ một cách vô ý thức, vô trách nhiệm trong khi sự hiểu biết thơ ca của mình còn non kém, khả năng thẩm định thơ ca còn “chưa tới”. Có người sửa thơ không phải vì giá trị nghệ thuật của bài thơ mà vì mục đích riêng tư khác. Chính tôi cũng có mấy lần, thấy bài thơ mới trình làng của mình, thoắt một cái, đã xuất hiện trên diễn đàn này, trang web nọ với dung nhan đã qua “viện thẩm mỹ miệt vườn”. Nhưng may mắn thay, cũng có những tài thơ ẩn mình trong đám đông thầm lặng, sửa thơ vì tấm lòng với thơ, vì yêu cái hay, cái đẹp của thơ. Và việc sửa thơ của họ thường nâng giá trị nghệ thuật của bài thơ lên rất cao. Với tôi, anh Phan Hồng Ngọc là một trong những người yêu thơ đáng quý đó.
Texas 04/ 2016
Phạm Đức Nhì
Rất mong nhận được phê bình góp ý của độc giả.

Chú Thích:
1/ + 2/ Ngậm Ngùi: Trái Sầu Trĩu Nặng (PĐN, t-van.net)
3/ Thuyền Và Biển: Ngọt Bùi Cay Đắng Của Tình Yêu (PĐN, t-van.net)
5/ Hai Phong Cách Bình Thơ (PĐN, t-van.net)


READ MORE - TIẾP TỤC CHUYỆN “THUYỀN VÀ BIỂN” & LAN MAN VỀ VIỆC SỬA THƠ - Phạm Đức Nhì

CHÙM THƠ LƯU LÃNG KHÁCH



          Tác giả Lưu Lãng Khách





NHỚ TRỜI VĂN LANG

Nay về qua ngã ba sông
Thấy trời Nghĩa Lĩnh chim Hồng Lạc bay
Bao huyền tích buổi nguyên khai
Rưng rưng nguồn cội lòng ai bồi hồi
Ngã ba sóng lặng in trời
Rót tràn núi Cả một lời thắm xanh
Hành hương muôn mắt long lanh
Muôn chân hồ hởi muôn lành nguyện xin
Cúi đầu trước Tổ anh linh
Nghe hồn phế tích ẩn mình reo ca
Sơn thủy thiên địa giao hòa
Khí thiêng nghi ngút một tòa Phong Châu
Dựng nước giữ nước vươn cao
Cánh hồng xưa chắp ngàn sau tung trời
Giống nòi chim Lạc sinh sôi
Khắp ngàn phương vẫn nhớ trời Văn Lang
Thậm Thình kẻ Đọi như vang
Tiếng em giã gạo tiếng chàng luyện quân
Dị thường xanh quá đầu xuân
Một trời Cổ Tích mấy vừng tâm linh
Đồng bào huyết nhục thâm tình
Cùng dòng máu Lạc trong mình bạn ơi!
Mồng mười từ trong sương mơi
Lạc Hồng bay lượn khắp trời Phong Châu
Hỡi Tổ quốc hỡi đồng bào!
Nhớ nguồn còn lễ hội nào lớn hơn
Ra về khuất đỉnh Hy Sơn
Uống luồng sinh khí hồn còn thăng hoa…


                        Lễ hội đền Hùng 2015


NAY CON KHÔNG VỀ

Nay con không về thăm Đền Hùng
Đốt nén tâm hương tưởng tổ tiên nguồn cội
Ngày trôi chậm qua mắt buồn vời vợi
Làng cổ tích ơi! Tổ tộc của con!
Nay con không về lên núi chon von
Thăm mái đao cong gầy hao vạt nắng
Viếng hồn nước nơi Kính Thiên Lĩnh Điện
Thăm lăng rồng tứ hướng cưỡi mây bay
Nay con không về để mắt cay cay
Khi bao gót hành hương se mòn đá hải lựu
Khi bóng cũ đã cập bờ vĩnh cửu
Để đền Trung ngơ ngẩn khói lam chiều
Nay con không về miền đất Tổ thương yêu
Sen đền Giếng có tươi ngày hội mới
Tiên Dung Ngọc Hoa chắc hồn vui phơi phới
Khi con cháu ngàn phương lũ lượt kéo nhau về…
Con không về thăm mẹ Âu Cơ
Núi châu sông tụ khói hương mờ
Mắt rồng lóng lánh niềm hỉ lạc
Xuân này sơn thủy có nên thơ
Lưỡng long chầu nguyệt buồn không nói
Núi Cả chiều xuân chắc bâng khuâng
Uống nước nhớ nguồn, dù con chưa trở lại
Xin cấy vào lòng người hoa sứ trắng tri ân…

                              Ngày giỗ Tổ 2014
                                

VỀ THĂM KINH ĐÔ VĂN LANG

Về thăm kinh đô Văn Lang
Hồn hoang lạc dấu chân ngàn vạn xưa
Tìm đâu trong nắng trong mưa
Đất trời làng Cả như vừa chịu tang
Ôi Phong Châu! Ôi Văn Lang !
Kinh đô phồn thịnh chỉ còn thế thôi
Nước non buồi ấy đâu rồi
Để lòng trống lạnh một trời Phong Châu
Cung vàng điện ngọc chìm sâu
Lang Liêu ngài ngự nơi đâu chốn này
Nhìn về Nghĩa Lĩnh cay cay
Ba Vì Tam Đảo sương mây tiếc cùng
Quê hương đất Tổ vua Hùng
Chiều xuân sao bỗng lạnh lùng bước chân
Khói mù nước thải phân vân
Cố đô bặc bóng tiền nhân giữa lòng
Thăm thành phố ngã ba sông
Hướng về nguồn cội mấy dòng xốn xang.

                        Việt Trì đầu xuân 2002


NAY EM KHÔNG VỀ

Nay không em về qua cổng đền xưa
Thấy mái đao cong cười đau bóng núi
Nghe cột đá thề nói lời huyền thoại
Làng Cổ Tích ơi! Còn nhớ chăng người
Nay không em về thăm lại đền xưa
Chẳng phải tháng ba mồng mười trẩy hội
Anh xuống đền Trung một mình một lối
Chiều Hy Cương đền Giếng mơ màng
Nay không em về Nghĩa Lĩnh buồn tênh
Nao gió sông Lô than trầm Bạch Hạc
Tam Đảo bâng khuâng Ba Vì ngơ ngác
Sóng nào dâng lạnh buốt tâm hồn
Nay không em về Đền như vắng khói
Đôi khóm mây hoang đưa chiều vào tối
Ngỡ bóng Lang Liêu đang ngồi tư lự
Đền Hùng ơi! Giỗ nước con về.

               Hy Cương cuối giêng 2002. 
                     Lưu Lãng Khách

READ MORE - CHÙM THƠ LƯU LÃNG KHÁCH