Nguồn
gốc hình tượng rồng Việt
trong kiến trúc mỹ thuật
chùa tháp
Lê
Quang Thái
Tháng Tư năm 2010, nhà thơ
Mặc Giang sáng tác bài thơ “Ngàn năm Thăng Long”, có
đoạn viết thể hiện tâm tư của mình đối với Tổ
quốc lấy dòng sử Việt cũng là dòng chữ Phật trong quá
khứ vàng son: Ôi Thăng Long, ngàn năm dấu xưa còn đây Ôi
Thăng Long, Rồng hiện khắp bay trời mây. Tim trong tim, tay
nắm bàn tay Truyền nối nhau, không hề đổi thay (1).
Tâm
đắc với tứ thơ “Rồng Tiên khắp bay trời
mây” và “Truyền nối nhau, không hề đổi
thay” mà Trường Giang Mặc Tử ở phương trời xa
nhớ về quê hương Việt Nam thân thương, trong đó có quê
nhà Phú Yên, nơi chào đời của Tổ sư Liễu Quán. Ngài
đã chọn thiền kinh Phú Xuân tu học và đắc pháp trở
thành người Việt đầu tiên khai sinh ra dòng Thiền Lâm
Tế đời thứ 35.
Mặc
Giang đã sáng tác khoảng hơn 1500 bài thơ với đủ mọi
đề tài và thể loại mà tình yêu quê hương, làng quê
yêu dấu Việt Nam là hai chủ đề nổi bật, gây nguồn
cảm xúc đối với mọi người.
Để
tỏ lòng tôn kính, bản thân chúng tôi liên tưởng đến
vật tổ linh thiêng của dân tộc Lạc Việt trong quá
trình dựng nước và giữ nước, chúng tôi đánh dạn
viết bài “NGUỒN GỐC HÌNH TƯỢNG RỒNG VIỆT TRONG
KIẾN TRÚC MỸ THUẬT CHÙA THÁP”. Từ con Rồng trong
hiện thực, trong tâm tưởng mới khắc họa thành hình
tượng Rồng, qua trí tuệ và bàn tay vàng của nghệ nhân
Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á trong quá khứ.
Vẽ
rắn thì dễ, vẽ Rồng lại rất khó. Huế là xứ chùa
tháp. Rồng được trang trí ở nhà chùa rất phong phú và
đa dạng. Và trong những năm gần đây, Rồng mây xuất
hiện nhiều lần ở trên nền trời TƯỢNG ĐÀI QUÁN THẾ
ÂM thuộc địa phận xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy,
tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi đây là vùng bán sơn địa,
nằm phía Tây Nam cố đô Huế, cách trung tâm đô thị
khoảng non 10 km, và đã trở thành khu du lịch văn hóa tâm
linh.
Thông
lệ, ngày 19 tháng 6 âm lịch là ngày lễ hội trọng đại
của Phật giáo và đất nước. Cơ ngơi đầy triển vọng
của khu du lịch tâm linh này ngày mỗi lớn lao hơn để
đáp ứng nhu cầu của du khách bản địa và phương xa.
Rồng
hiện – chuyện có thật. Không phải một lần mà nhiều
lần khác nào Rồng vàng xuất hiện ở thành Đại La vào
năm 1010 dưới triều vua Lý Thái Tổ, năm 1029 dưới triều
vua Lý Thái Tông trong khi nhà vua và triều thần xây dựng
tôn tạo điện Càn Nguyên ở kinh thành Thăng Long để cho
các quan văn võ vào chầu.
Vua
cha xây dựng, vua con tôn tạo là thuận lẽ trời, đương
kim Hoàng đế thấy vậy liền chỉ dạy cho các đại thần
chầu hầu hai bên tả, hữu rằng: “Trẫm phá điện ấy
mà Rồng còn hiện, có lẽ là đất tốt, đức lớn hưng
thịnh, ở chỗ chính đất trời chăng?”
Thiết
nghĩ, ấy là căn cơ, đầu dây mối dợ do Đào Duy Từ
(1572 – 1634) viết những câu từ 177 đến 180 của tác
phẩm Tư Dung vãn dài 336 câu lục bát. Ấy là chưa kể
những bài thơ, khúc ngâm ngắn hơi và bài ca đệm chèn
làm nâng cao giá trị nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm bất hủ của văn học Nam Hà tán thán và ngợi ca
cảnh đẹp của Quốc tự Trấn Hải ở đỉnh Quy Sơn xưa
và nay là núi Linh Thái. Ngôi phạm vũ này ngày đêm soi
bóng bên bờ biển cửa Tư Hiền thuộc xã Tư Hiền, huyện
Phú Lộc (cách Huế gần 60 km về phía Nam) ngày nay:
Phật
đình nào khác Vương đình,
Ngũ
vân tán lớn, cảnh tinh thoại tường,
Tiên
nga nâng chén quỳnh tương
Tiêu
thiều nhạc múa, thái dương khí hòa.
Hình
tượng Rồng còn được Đào Duy Từ khắc họa bằng ngôn
từ qua tác phẩm NGỌA LONG CƯƠNG, tiêu biểu như hai câu
21 và 22:
Nước
non khéo vẽ nên đồ
Thấp
cao phượng nhiễu, quanh co rồng nằm.
Hoặc
hai câu khác (133 – 134) trước khi kết thúc tác phẩm gồm
136 câu lục bát của danh phẩm này:
Chốn
này thiên hạ đời dùng
Ắt
là cũng có Ngọa Long ra đời.
Rồng
hiện ở đâu thì nơi ấy là thiện địa, phước địa,
không sớm thì muộn trở thành cung vua hoặc là nơi chùa
tháp tọa lạc. Rồng cũng có quốc độ, quốc tịch hẳn
hoi. Rồng hiện ở kinh thành Thăng Long, ở núi Tứ Tượng,
xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế
– nơi tọa lạc của Phật đài Quán Thế Âm là Rồng
Huế. Có Rồng Chiêm, Rồng Ấn và Rồng Trung Hoa…
Theo
cổ thư, Rồng được miêu tả như sau:
Đầu
Rồng giống lạc đà, sừng giống sừng nai, mắt giống
mắt thỏ, tai giống tai trâu, cổ giống rắn, bụng giống
con thẩn (một loài sò biển), vẩy giống vẩy cá
gáy, móng giống chim ưng, chân giống hổ, lưng có 81 vẩy
bằng 9 x 9 số dương. Tiếng giống mâm đồng, hàm có
râu, dưới tai có hạt minh châu, dưới cổ có vẩy ngược,
trên đầu có bác sơn (xích mộc). Rồng không có xích mộc
không thể bay lên trời, hà hơi làm tan mây, biến ra mưa,
phun ra lửa…(3).
Đó
là hình tượng Rồng Trung Hoa. Mô típ Rồng được hình
dung theo dòng tư tưởng phát triển của vương triều
Trung Hoa thể hiện bằng quyền lực của bậc Thiên tử
chí tôn.
Kinh
Dịch cho biết: “Rồng là con vật khoanh tròn để
giữ mình con rắn”. Rắn là linh thể của bộ tộc người
Hạ của Trung Hoa. Từ hình tượng con rắn được nhân
lên theo lối tổng hòa thành hình tượng Rồng. Ăn theo
rắn là những loài vật tương cận sống ở đất liền
và dưới nước.
Còn
Rồng Việt Nam thì sao? Tổ tiên ta lẽ nào có chịu khắc
ghi theo nguyên bản của Trung Quốc không? Người Lạc Việt
có đủ bản lĩnh, tinh thần sáng tạo. Nhất thiết xưa
nay không lấy “của người” làm “của
ta”.
Từ
buổi lập quốc người Việt rất tự hào là “Con
Rồng cháu Tiên”. Trên thế giới, chỉ có dân tộc
Việt Nam có đến hai Vật tổ gắn kết hài hòa, thăng
hoa từ hình tượng của “Rồng với Tiên”. Dân tộc
ta đã thấm thía về cái ách thống trị và đồng hóa
của Trung Hoa trải qua 1000 năm.
Ý
thức bất khuất và tinh thần tự chủ là những điểm
son trong quá trình dựng nước và giữ nước. Giữ nước
với tinh thần tự chủ để bảo vệ giống nòi và lãnh
thổ trên bộ cùng thềm lục địa biển Đông với nhiều
quần đảo, hải đảo lớn nhỏ như đã truyền chuyển
tứ thơ bất hủ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” mà
nhà thơ Mặc Giang đã viết:
Tim
trong tim, tay nắm bàn tay
Truyền
nối nhau, không hề đổi thay.
Kiến
trúc mỹ thuật thời Lý đặt việc xây dựng chùa quán,
Phật viện. Không hề có ý thức phân biệt chùa Bắc,
chùa Nam; chùa làng, chùa nước vì bản chất của chùa là
thờ Phật, giáo hóa quốc dân. Tam giáo đồng nguyên là
học thuyết chủ đạo, trong đó Phật giáo được tôn
vinh là quốc giáo, nhưng việc triều chính vẫn giữ được
thế điều hòa, cân bằng trong thuật trị nước an dân.
Bên
cạnh chùa tháp thì đền Đồng Cổ (Trống Đồng) được
dựng lập năm 1028, đàn Xã Tắc năm 1048, đàn Vu phía Nam
kinh thành vào các năm 1137, 1138… Có Bụt, có Tiên đi
liền với đạo Phật, đạo Tiên, đạo Thánh Hiền. Lòng
từ mở rộng để bảo vệ chánh pháp, loại dần tà
giáo, dâm từ trong dân gian. Việc lập đền thờ Y A Na
với biển hiệu Hậu Thổ Thăng Long sau năm 1069. Tạ Chí
Đại Trường trong sách Thần và Đất Việt đã viết: “Đưa
thần của đất chiến bại về thờ là người ta đã làm
một công việc vỗ về kẻ chiến bại từ cõi linh
thiêng(4)”
Xin
đừng ngạc nhiên mà xem thường tinh thần khai phóng có
định hướng của các vua khởi nghiệp nhà Lý và nhà
Trần. Bằng nội lực quán chiếu thâm hậu, vua Trần Thái
Tông mới tư duy được lời nhận định phảng phất tinh
thần tự phê của nhà Phật: “Đạo cũng nhà Tiên
Thánh mà phát huy bền vững” ở trong sách Khóa Hư
Lục.
Từ
đó về sau mới rộng đường cảm hóa và thu phục tâm
công theo lối “Thần dựa cây đa và cây đa dựa thần”.
Có mình, có ta; có cái này thì cũng có cái kia, tương tác
tương phù.
Hình
tượng Rồng thời Lý thể hiện tính cách cởi thoáng,
bao dung theo lối đồng quy hướng về nhất thể một cách
có căn cơ xuất phát từ nội tại và ngoại tại. Vậy
thì hình tượng Rồng đời Lý, đời Trần như thế nào?
Tác
giả sách LƯỢC SỬ MỸ THUẬT VIỆT NAM, nhà nghiên cứu
chuyên sâu về kiến trúc chùa tháp Việt Nam, Trịnh Quang
Vũ đã tổng hòa rồi rút ra được nhận định:
Điêu
khắc Lý trong các chùa tháp đã phản ánh trung thực, sinh
động sự tiếp biến văn hóa Ấn, Chàm, Việt có tính
giải “hoa” để tìm cho Đại Việt một phong
cách và Việt hóa nghệ thuật du nhập, phát huy bản sắc,
cá tính dân tộc một cách mạnh mẽ.
Phong
cách nghệ thuật Lý về kiến trúc, chạm khắc hình tượng
Rồng đã ảnh hưởng và chỉ đạo xuyên suốt qua các
triều đại tiếp theo quá trình phát triển, sáng tạo.
Chạm khắc đá Rồng chầu lá đề (Bắc Ninh), Rồng và
hoa sen chạm khắc đá(tháp Chương Sơn Nam Hà) được bố
cục trang trí trong phạm vi lá đề, bố cục theo lối đối
xứng, rồng chuyển động dẫn dắt nhỏ dần vút lên
đỉnh.
Đôi
rồng vờn hạt minh châu, hai chân choãi thế vững chãi,
hai chân của đôi rồng cùng một động tác đang buông để
biểu tượng lá đề của nhà Phật ở ba đợt vút nhỏ
dần ở phần trung tâm, những cánh hoa được chuyển
tiếp, biến hình như những đợt sóng to nhỏ làm nền
trang trí làm nổi rõ thân, đầu Rồng uốn lượn mạnh
mẽ chắc khỏe, thân Rồng với những đường chữ khép
chạy liên tục, phần sống lưng từng đợt cánh răng
cưa, phần tả vẩy dưới bụng lân văn đuổi nhau theo
nhịp điệu với cách phân bổ đường nét làm tăng sự
chuyển động được diễn tả gồ nổi mà không bị nặng
nề về hình, biến động về đường nét và họa tiết,
đôi bờm gáy bay thoát ra sau nhiều đợt tạo cảm giác
đang vờn bay trong không trung…(5).
Lý
giải về nguồn gốc hình tượng Rồng Việt chịu ảnh
hưởng của nền văn hóa nghệ thuật Chiêm – Ấn thì
xưa nay các học giả đều dựa vào sách Đại Việt Sử
Ký Toàn Thư. Năm 1044 vua Lý Thái Tông viễn chinh vào tận
kinh đô Chàm tại thành Chà Bàn (Vijaya) từ thế kỷ XI
đến thế kỷ XIV. Việc vua Lý ra xứ người được xem
các điệu múa Tây Thiên bèn nghĩ đến kế sách sử dụng
cung nhân, nhạc công, ca nữ cung đình Chiêm Thành trong
việc phát huy văn hóa nghệ thuật theo tinh thần hội nhập
để giao lưu, tiếp thu cái mới một cách có chọn lọc,
và nhất là việc dùng tù binh người Chàm có sở tài
thiết kế kiến trúc trong việc xây dựng chùa tháp Đại
Việt.
Năm
1046 vua Lý Thái Tông lại sai dựng lập cung Ngân Hán cho
cung nữ và nghệ nhân người Chiêm ở, mở hội Thiên
Phật trong dịp khánh thành chùa Thắng Nghiêm. Vào dịp lễ
sinh nhật của Thánh Thọ nhà vua sai triều thần mời sứ
thần Chiêm đến xem. Tiếp bước thêm năm 1069 Thiền sư
Thảo Đường, là tù binh người Chiêm được trọng dụng
và trở thành Quốc sư của Vương triều Lý. Năm 1153 vua
Lý Anh Tông lấy Công chúa Chiêm Thành, con gái vua Chiêm
Harivarman (6).
Từ
đó kiến trúc nghệ thuật cung đình, chùa tháp bên này
đèo Ngang và bên kia đèo biên cương mở rộng cho đến
bờ Bắc sông Hiếu (thuộc địa phận tỉnh Quảng Bình
và một phần phía Bắc tỉnh Quảng Trị) đều theo phong
cách của văn hóa Chiêm và văn hóa Ấn. Chùa chiền, Phật
viện được thiết kế và xây dựng theo khái niệm vũ
trụ quan Ấn Độ coi trọng yếu tố phong thủy hàng đầu.
Tháp hình vuông, mái nhọn biểu tượng cho núi; cụm đền
tháp nhỏ tượng trưng cho hình ảnh lục địa, sông nước,
biển tiếp giáp hoặc hào nhân tạo là hình ảnh biểu
trưng của đại dương.
Dấu
xưa đã mất một phần lớn do sách vở để lại cho đời
sau bị hủy hoại do chiến tranh, thiên nhiên tàn phá. Rồi
con người có bàn tay vàng và trí sáng tạo bị mai một
dần hồi cho nên việc tôn tạo các di tích đã làm mất
đi sắc thái, đường nét sắc màu nghệ thuật kiến trúc
cung đình và Phật giáo trên dưới 1000 năm trong quá khứ.
Việc
tôn tạo di tích chùa tháp ở Yên Tử dưới thời chúa
Trịnh Tùng là một bằng chứng thể hiện tinh thần coi
trọng việc phục chế di tích lịch sử của người xưa
đã ghi rõ trong bia Vĩnh Tộc niên hiệu Lê Thần Tông
(1620 – 1628). Tinh thần ấy được truyền lại cho vua
chúa đời sau như là “một thông điệp”.
Tình
cờ, chúng tôi viết xong bài tham luận này vào lúc nghe
bản tin trưa ngày chủ nhật 01-08-2010 công bố Trung tâm
Hoàng thành Thăng Long được thừa nhận là Di tích văn
hóa thế giới. Niềm vui lâng lâng dậy lên niềm tự hào
dân tộc. Hình tượng Rồng đời Lý Trần thật đắt
giá. Cầu mong Rồng Thần, Rồng Vàng tái hiện trên nền
cũ điện Càn Nguyên ở kinh thành Thăng Long:
Quê
hương gấm vóc nước non nhà
Quốc
túy quốc hồn của quốc gia
Chuyển
tiếp truyền lưu trao thế hệ
Ngàn
năm thạch trụ vững sơn hà.
(Tuyệt
thế Sơn Hà – Mặc Giang) (7).
Ngày
01.08.2010 quả đúng là “Sử Vàng lối cỏ hoa cài
thiên thu” để chiêu hồn lịch sử dân tộc oai hùng
con Rồng cháu Tiên./.
Chú
thích:
1.
Thơ Mặc Giang, Tập 14, bài 87, 2010, tr.88.
2.
Văn học Nam Hà, Nguyễn Văn Sâm, Nxb Lửa Thiêng, Sài Gòn,
1974, tr.149-150.
3.
Lược sử Mỹ Thuật Việt Nam, Trịnh Quang Vũ, Nxb: Văn
hóa – Thông tin, Hà Nội, 2002, tr.75.
4.
Thần Người và Đất Việt, Tạ Chí Đại Trường, Nxb:
Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2006, tr.99.
5.
Lược Sử Mỹ Thuật Việt Nam Trịnh Quang Vũ, sđd,
tr.84-85.
6.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Quốc Sử quán, Viện Khoa học
Xã hội dịch, Hà Nội, 1995.
7.Thơ
Mặc Giang, Tập 14, sđd, tr.78.
&&&
Nguồn:
Bài
nghiên cứu: “Nguồn gốc hình tượng rồng Việt trong
kiến trúc mỹ thuật chùa tháp” được đăng trong tập
sách: Khảo luận về Miền Thuận Hóa, tác giả Lê Quang
Thái, NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2021 có ghi nguồn: Nội san
Liễu Quán, số 17, tháng 8, 2010.
Bài
đăng trên VNQT Blogger được chép từ 1 trong các trang web
sau:
https://phatgiaodoisong.vn/
: Không ghi tên tác giả.
https://giacngo.vn/:
Như Tịnh (Tạp chí Sông Hương).
http://www.phathoctructuyen.com/
: Không ghi tên tác giả.
https://hoavouu.com/
: Như Tịnh Quang Thái.