Phàm trong cuộc sống hiện tại, con người
phải liên hệ với xã hội, công ăn việc làm, cấp trên, thuộc cấp, bạn bè, anh
em,và hầu như đủ thành phần trong xã hội mà công việc hằng ngày mình cần phải
tiếp xúc ... thế là nhiều phiền toái, rắc rối thường hay xẩy ra cho cuộc sống.
Con người phải chịu nhiều điều giáng lên trên cuộc sống, phần nhiều là đau khổ,
phiền não hơn là cái hạnh phúc mưu cầu hàng ngày.
Khi
về hưu, về già tâm hồn con người thường lắng đọng, tư tưởng có kẻ yếm thế, có
người thì lạc quan, có khi đâm ra trầm cảm. Thơ, văn, nhạc ... thường là những
thứ làm cho con người nhẹ bớt đi những điều đang mang nặng trong lòng. Họ có
thể tụ họp thành từng "nhóm" để cùng nhau đối ẩm trong những lúc
"trà dư, tửu lạc". Cùng nhau ca hát, hay ngâm thơ, xướng họa v.v...
Ngày nay, nhờ mạng internet nên cho dù xa cách hàng vạn dặm vẫn cứ ngỡ như là
gần bên nhau để cùng nhau trao đổi tâm tình qua thi ca, thơ, nhạc v.v...
Tuy vậy, không phải trong lòng con người
ai cũng "cỡi mở", cũng thoái mái giao lưu một cách rộng lượng.
Những điều hỷ, nộ, ái, ố.... lẻ tất nhiên
phải xẩy ra ... nhưng lắm ai bỏ chín làm mười mà hầu như bản chất: tham, sân, si
lúc nào cũng tồn tại không ít trong lòng họ.
Càng về tuổi già, con người càng trầm lặng
và dễ tha thứ, chịu đựng hơn tuổi trẻ . Sau đây, tôi xin trình bày qua một vài
điều khái niệm về "nhân sinh quan " qua Phật pháp trong giáo lý của đức Phật .
Theo định nghĩa của Phật giáo: "Phật
pháp" là : Giáo pháp do đức Phật
Thích Ca nói ra với mục đích chỉ dạy về vấn đề chân lý của vũ trụ và nhân sinh.
Giáo pháp của đức Phật nói ra rất nhiều, về sau các đệ tử Phật kế tập, ghi chép
lại thành ba tạng kinh điển. Nhưng giáo pháp đức Phật nói ra tóm lại có bốn thứ
đạo lý căn bản rất quan trọng, bốn điều đạo lý này, tât cả hai phái Đại Thừa và
Tiểu Thừa đều phải ghi nhận, làm nấc thang chính cho bước đường tu học để tiến
tới Phật quả.
Bốn thứ đạo lý đó là :
1/ Vô thường: Hết thảy mọi sự vật trên thế gian này luôn
luôn thay đổi, từng giây, từng phút không có gì tồn tại vĩnh cửu.Vì sự vật vô
thường, biến đổi, nên con người phải: Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Thế giới thì: Thành,
Trụ, Hoại, Không.
Chúng ta, vì vọng tưởng mê chấp, không hiểu
mà cho là thuờng trụ, không thay đổi, nên mới tham, cầu ... không biết thỏa
mãn, rồi mê chấp, cái gì cũng cho là của mình (ngã chấp) để khởi ra những điều
mê lầm, tạo ra những ác nghiệp, nên phải chịu luân hồi sinh tử, trong nhiều đời
nhiều kiếp, không được giải thoát. Đức Phật chỉ dạy hai chữ VÔ THƯỜNG với mục
đích muốn phá trừ những vọng chấp của con người. Khi chúng ta đã hiểu rằng tất
cả những sự vật trên thế gian này đều là vô thường thì tất cả mọi sự mọi vật
trên đời này cũng như mây trôi, nước chảy, không có gì là thực cả, như trong
kinh Kim Cang chép: "Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như
lộ diệc như điện, ưng tác, như thị quán" nghĩa là tất cả các Pháp hữu vi
đều như là giấc chiêm bao, như bọt nuớc, như sương ban mai, như điện chớp, nên
phải quán sát như thế.
2/ Khổ :Chúng ta có hai thứ khổ căn bản .
a/ Khổ về tâm. b/Khổ về thân. Khổ về tâm là: Tham, Sân, Si, Phiền Não; còn khổ
về thân là:Già nua, Bệnh tật và Chết chóc. Nó cứ nối tiếp nhau gây nên sự đau
khổ cho con người. Trong gia đình thì việc :"Cơm ăn, áo mặc, tiền bạc: khổ;
sinh ly, tử biệt: khổ; tranh đấu với
nhau về vấn đề phải trái: khổ; oán ghét nhau mà đôi khi cũng phải gặp gở nhau
trong công việc: khổ. Ngoài những thứ ấy ra, trong tâm ta mong muốn điều gì mà
không được cũng mang khổ v.v... Con người sống trên đời mang rất nhiều thứ khổ.
Nó luôn luôn khống chế ta, bắt buộc ta phải sinh hoạt theo cái khổ.
Nếu biết khổ, quyết tâm tìm cách lìa cái khổ
để tu học Phật pháp, tìm kiếm sự vui cho hết khổ. Đó là con đường tiến vào đạo
Phật vậy.
3/ KHÔNG: "Không"là gì ? Không là
duyên khởi sinh ra tất cả những sự vật, tất cả những thứ gì có hình tướng trên
thế giới đều do nhân duyên hòa hợp mới sinh ra. Nhân là điều kiện chủ yếu sinh
ra sự vật, còn duyên là điều kiện hổ trợ để sinh ra sự vật. Nếu "duyên"
còn thì sự vật còn tồn tại. Trái lại, nếu khi "duyên" hết thì sự vật
sẻ bị tiêu diệt, tan rã, vì vật nên gọi là KHÔNG. Một khi đã do nhân duyên
sinh, đến khi nhân duyên hết, nó sẽ không thể tồn tại. Cho nên, Phật đã dạy là
KHÔNG. Như thân thể của ta do bốn đại: Đất, nước, lửa, gió ... kết thành. Khi
bốn đại này ly tán, thì thân ta trở thành KHÔNG.
4/ VÔ NGÃ:
Vô ngã là gì ? Ngã là cái ta
"le moi" . Vì chúng ta mê lầm nên chấp cái gì cũng thuộc về mình là
NGÃ. Tức là chấp NGÃ . Những điều gì mình thấy biết gọi là ngã kiến, những sự
thật kể cả thân thể của mình cũng không phải của mình, mà nó thuộc về bốn đại
(đất, nước, lửa, gió). Người đời thường mê chấp cho nên mới nhận thân thể là
của ta. Chứ theo lời Phật dạy thì thân thể chúng ta đều do năm uẩn kết lại hợp
thành. Vậy năm uẩn đó là gì? Là: "Sắc, Thụ, Tưởng, Hành, Thức".
Sắc uẩn: thuộc về vật chất, còn Thụ,Tưởng, Hành và Thức thuộc về tinh thần. Năm
uẩn kết thành thân thể của ta. Cũng chỉ là nhân duyên giã hợp, chứ không có
thực thể, vì vậy, nó không thể tồn tại mãi mãi ... nên mới gọi là VÔ NGÃ.
Triết lý Phật Giáo tuy cao siêu, không chỉ
bàn về lý luận tôn giáo mà còn chú trọng về vấn đề thực hành, tức là muốn đem
phát huy chân lý liễu ngộ của sự sinh hoạt thực tiễn hằng ngày để lý luận và
phối hợp, có nghĩa là: Nói và làm phải hợp nhất thì mới đúng là chân chính phục
vụ Phật Pháp.
Sau đây qua một câu chuyện của Tô Đông Pha
để chúng ta hiểu thêm về triết lý của Phật Giáo .
Tô Đông Pha nguyên là một quan đại thần
trong triều chức vụ như bây giờ là bộ
trưởng hay tương đương. Ông lại là một Phật tử rất thâm hiểu Phật pháp. Một hôm
ông đến thăm ngài Phật Ấn.
Đại Sư Phật Ấn nói "Ở đây, không có
chỗ cho đại thần ngồi.(Vì trong lúc nầy vị đại sư đang thuyết pháp).Vì là người
cao thâm hiểu rộng về Phật pháp nên Tô Đông Pha mới đáp lại như sau :"Tôi
muốn mượn cái thân tứ đại của đại sư để làm ghế ngồi, đỡ một chút có được không
? (Đó là hai vị dùng ngôn ngữ "thiền" trong Phật giáo ).
Đại sư trả lời :"Đại thần là người có
nhiều công phu nghiên cứu Phật pháp, nên ông đã hiểu rỏ ý nghĩa cao sâu của đạo
Phật rồi. Vậy tôi xin hỏi lại ngài, nếu ngài đáp lại được thì tôi sẵn sàng đem
cái thân tứ đại cho ngài làm ghế ngồi. Nếu không trả lời được, thì ngài phải
cởi bỏ aó mão mũ đai, huy hiệu nhà vua mà để lại ở đây.Ngài có đồng ý không?”.
Tô Đông Pha đồng ý.
Đại
Sư hỏi: "Thưa đại thần: Đức Phật dạy:" Bốn đại đều KHÔNG, năm uẩn
không phải của ta, vậy ông lấy cái gì để mà ngồi ?" Lẻ dĩ nhiên Tô Đông
Pha chịu không trả lời được.
Ông
ta bèn cởi áo mũ, huy hiệu vua ban để lại như đã hứa.
Đối
với đức Phật, một bậc đã giác ngộ chân lý hoàn toàn tuyệt đối nên ngài đã đề xướng
thuyết cao siêu mầu nhiệm, đó là thuyết "nhân duyên sinh" như mười
hai nhân duyên hay nói cách khác là mười hai hữu chi. Hữu là tất cả sự vật
trong thế giới. Chi tức là từng phần ... mà tất cả các loài chúng sinh cứ bị
chìm đắm mãi mãi trong vòng luân hồi sinh tử vậy.
Lê Hoàng .
( Alameda
15/3/2013).